-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Văn mẫu lớp 6: Viết bài văn trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống được gợi ra từ cuốn sách đã đọc | Ngữ văn 6 | Kết nối tri thức
Hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống được gợi ra từ cuốn sách đã đọc, thuộc sách Kết nối tri thức với cuộc sống, tập 2.
Tài liệu bao gồm dàn ý và 4 bài văn mẫu, giúp cho các bạn học sinh lớp 6 có thêm ý tưởng hoàn thiện bài viết của mình. Mời tham khảo nội dung chi tiết bên dưới.
Chủ đề: Bài 10: Cuốn sách tôi yêu (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 6
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống được gợi ra từ cuốn sách đã đọc
Dàn ý ý kiến về một hiện tượng đời sống gợi ra từ cuốn sách 1. Mở bài
Giới thiệu tên sách, tác giả và hiện tượng đời sống mà cuốn sách gợi ra. 2. Thân bài
⚫ Nêu ý kiến (suy nghĩ) về hiện tượng.
⚫ Nêu lí lẽ và bằng chứng để làm sáng rõ ý kiến về hiện tượng cần bàn luận.
⚫ Trình bày cụ thể về chi tiết, sự việc, nhân vật gợi lên hiện tượng cần bàn. 3. Kết bài
Ý kiến về một hiện tượng đời sống gợi ra từ cuốn sách - Mẫu 1
Một trong những cuốn sách tâm đắc nhất với tôi là “Thép đã tôi thế đấy” của
Nikolai A. Ostrovsky. Với nhân vật Pavel, tác giả đã đặt ra một vấn đề trong
cuộc sống về ý chí nghị lực, nhiệt huyết tuổi trẻ mãnh liệt và lòng yêu nước sâu đậm của con người.
Tác phẩm kể về cuộc đời của Pavel Korchagin (thường được gọi là Pavlusha,
Pavka) - một thanh niên trưởng thành trong khi điều kiện đất nước đang gặp
nhiều khó khăn. Anh chơi thân với một cô bạn gái tên là Tonya, mà sau này trở
thành người yêu. Tonya là một cô gái xinh xắn, yêu Pavel với tất cả tình cảm
ban đầu trong trắng ngây thơ của một thiếu nữ mới lớn. Tình cảm của hai người
có lẽ sẽ rất đẹp và trọn vẹn nếu như không có chuyện Pavel đi theo tiếng gọi của
lý tưởng giai cấp lúc đó. Đó là ý tưởng muốn cống hiến sức trẻ của mình phục
vụ cho Tổ quốc, cho cách mạng. Tonya rất yêu Pavel nhưng không thể đợi anh,
hay đúng hơn là không dám “yêu một lý tưởng”. Đặc biệt là khi gia đình của cô
lại thuộc giai cấp tư sản. Pavel từng nói với cô rằng: “Anh trước hết là người
của Đảng - sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan
yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”. Sau cùng, Pavel
chia tay Tonya để đi theo lý tưởng của mình.
Pavel trong tác phẩm được khắc họa là một thanh niên giàu lý tưởng, được tôi
luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Tác giả Nikolai A. Ostrovsky đã gửi gắm
qua tác phẩm này một lí tưởng sống cao đẹp: “Cái quý nhất của con người ta là
sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận
vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện
và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất
cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu
tranh giải phóng loài người...”. Đó chính là điều mà mỗi thế hệ trẻ cần phải
hướng tới dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Như vậy, “Thép đã tôi thế đấy” đã giúp tôi hiểu thêm về thế hệ thanh niên nước
Nga trong cách mạng. Đồng thời, tác phẩm còn đặt ra cho thế hệ trẻ - những chủ
nhân tương lai của đất nước một bài học quý giá về lòng yêu nước, nhiệt huyết
tuổi trẻ và nghị lực trong cuộc sống.
Ý kiến về một hiện tượng đời sống gợi ra từ cuốn sách - Mẫu 2
“Chuyện con mèo dạy hải âu bay” của nhà văn Lu-i Xe-pun-ve-da là một cuốn sách giàu giá trị.
Truyện gồm có tất cả là mười một chương. Nội dung kể về việc chú mèo mun
Gióc-ba nuôi dưỡng một con chim hải âu tên là Lắc-ki. Mẹ của Lắc-ki bị ngộ
độc váng dầu nên đã chết ngay sau khi để trứng. Vô tình chứng kiến cái chết
của hải âu mẹ, Gióc-ba đã hứa ba ba điều: ấp quả trứng, bảo vệ và nuôi lớn hải
âu con, dạy nó bay. Sau một thời gian sống với họ nhà mèo, Lắc-ki lớn nhanh
như thổi. Gióc-ba đã nhờ họ nhà mèo tìm cách dạy Lắc-ki biết bay. Nhưng cậu
không thích bay, cũng không thích làm hải âu. Một buổi chiều, Lắc-ki đi tới của
tiệm tạp hóa và đụng độ với con đười ươi Mát-thiu. Nó chê Lắc-ki là bẩn thỉu,
và họ nhà mèo nuôi Lắc-ki để ăn thịt. Biết chuyện, Gióc-ba nhẹ đã giải thích
cho Lắc-ki hiểu ra mọi chuyện. Cuối cùng, họ nhà mèo đã bàn bạc để đưa đến
quyết định sẽ nhờ con người giúp đỡ dạy Lắc-ki biết bay. Câu chuyện kết thúc
khi Lắc-ki đã học được cách bay.
Truyện đã gợi cho người đọc về tình yêu thương trong cuộc sống. Chúng ta có
thể dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để
yêu thương ai đó khác mình thật sự rất khó khăn. Gióc-ba và họ nhà mèo, đã
vượt qua sự khác biệt, để dành cho Lắc-ki một tình yêu thương sâu sắc. Và
chính nhờ có tình yêu thương của Gióc-ba, Lắc-ki mới có thể sống và có dũng
cảm sải cánh trên bầu trời. Tình yêu thương giống như một nguồn sức mạnh to
lớn, vượt qua mọi khác biệt.
Có thể thấy rằng, “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” viết cho thiếu nhi, nhưng
lại gửi gắm bài học sâu sắc, mà người lớn cũng cần phải suy ngẫm.
Ý kiến về một hiện tượng đời sống gợi ra từ cuốn sách - Mẫu 3
“Cô bé bán diêm” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn An-đéc-
xen. Truyện đã nói đến tình yêu thương và sự vô cảm trong xã hội.
Câu chuyện kể về một cô bé phải đi bán diêm trong đêm giao thừa lạnh giá. Cô
bé mồ côi mẹ và ngay cả bà nội cũng vừa mới qua đời. Em không dám về nhà vì
nếu không bán được diêm thì sẽ bị bố đánh. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép
vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Những vị khách qua
đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em,
chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Sự vô cảm của mọi người xung quanh khiến
cô bé càng trở nên đáng thương.
Qua lạnh, cô bé đã nép vào một góc tường, quẹt một que diêm để sưởi ấm. Lần
thứ nhất, cô bé ước có lò sưởi - mong muốn sự ấm áp. Lần thứ hai, cô bé ước
một căn phòng có bàn ăn, trên bàn có ngỗng quay - mong muốn được no bụng.
Tiếp đến lần thứ ba là mong muốn có cây thông Noel - mong muốn được đón
giao thừa như mọi người. Đến lần thứ tư, cô bé mong ước được gặp lại bà, đó là
mong muốn được che chở, yêu thương. Cuối cùng cô bé bán còn lại - để gặp lại
bà và đi theo bà đến nơi hạnh phúc. Những mong muốn của cô bé là hoàn toàn chính đáng.
Nhưng đến cuối cùng, cô bé bán diêm phải chịu một cái chết thương tâm ở một
xó tường lạnh lẽo. Cái chết này đã tố cáo một xã hội với những con người vô
cảm, lạnh lùng. Nhưng hình ảnh cô bé khi chết đã được nhà văn miêu tả có đôi
má hồng, đôi môi đang mỉm cười nhưng em đã chết cóng. Nhà văn An-đéc-xen
đã xây dựng hình ảnh cô bé bán diêm khi chết nhưng vẫn mỉm cười - nụ cười
khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho
câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc
của con người. Đó chính là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
Như vậy, “Cô bé bán diêm” là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn, để lại ấn
tượng sâu sắc cho mỗi người đọc
Ý kiến về một hiện tượng đời sống gợi ra từ cuốn sách - Mẫu 4
Những cuốn sách gửi gắm những thông điệp thật giá trị và nhân văn. Một trong
những cuốn sách mà tôi yêu thích nhất là “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của
nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Nội dung của cuốn sách là những dòng nhật ký xoay quanh cuộc sống thường
ngày và tâm tư của cậu bé Thiều - mười ba tuổi. Cậu sống ở một vùng quê
nghèo, cùng với một người em trai tên Tường - một cậu bé dễ thương, hiền lành,
bao dung. Thiều vốn là một người hướng ngoại, hay bày trò nghịch ngợm và
thường rủ em trai chơi cùng. Nhưng sau đó, khi bị ba phát hiện, cậu thường để
em trai chịu đòn thay. Nhưng sâu trong thâm tâm, cậu vẫn rất yêu em trai của mình.
Truyện cũng mở ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong ngôi
làng, gồm cả người thân và những người bạn cùng lớp. Thiều nhận ra mình có
tình cảm với Mận - cô bé xinh xắn, học chung lớp nhưng hơn cậu một tuổi. Biến
cố xảy ra khi căn gác nhà Mận bốc cháy, gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận và đưa
cô bé về sống cùng. Tuy nhiên, sự thân thiết của Tường và Mận khiến cho cơn
ghen trong Thiều tăng theo thời gian. Khi mùa lũ đến, cả làng chìm trong nước.
Đến khi nước rút, người dân phải đối mặt với hậu quả là mất mùa, đói kém.
Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong Thiều được đẩy lên cao, cậu khiến cho
em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều nhận ra lỗi lầm và
vô cùng hối hận. Cậu làm việc nhà, chăm sóc và ở bên cạnh trò chuyện với em
trai. Một hôm, Thiều mừng rỡ khi Tường ngồi dậy được và kể cho mình nghe bí
mật về công chúa. Thiều tình cờ phát hiện ra bí mật về công chúa và kể cho
Tường nghe. Với mong muốn gặp được Nhi, Tường đã có thể đi lại. Cuốn sách
có một kết thúc mở, nhưng khá trọn vẹn.
Cuốn sách đã gợi ra cho người đọc những suy nghĩ về tình cảm gia đình, đặc
biệt là tình anh em giữa Thiều và Tường. Dù Thiều có đối xử chưa tốt với em
nhưng Tường vẫn luôn thương anh và lo lắng cho anh. Khi đi chơi về, bị ba
đánh, Thiều thì vắt chân lên cổ bỏ chạy, còn Tường ở lại chịu trận thay cho anh
trai. Tường thay anh làm hết các công việc trong nhà chỉ vì nghe mẹ bảo “để
yên cho anh hai học bài”. Chi tiết cảm động nhất có lẽ là khi thấy anh trai bị bạn
đánh, Tường đã giúp anh trả thù nhưng lại tự mình chịu đòn. Không chỉ vậy,
những câu chuyện xảy ra trong cuộc sống của Thiều cũng gợi ra một tuổi thơ
đầy hồn nhiên, sôi động. Những trò chơi như bắn bi, chọi gà, nhảy dây… chắc
hẳn mỗi đứa trẻ nào cũng đã từng chơi. Hình ảnh một vùng quê thanh bình, tươi
đẹp cũng gợi cho người đọc cảm xúc đẹp đẽ.
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một cuốn
sách thú vị, hấp dẫn và giàu giá trị.