Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều

Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn và tổng hợp các kiến thức chọn lọc hay nhất giúp cho các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi
Sơ đồ tư duy Nước Đại Việt ta
Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta
Dàn ý 1
1. Mở bài
1
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi- là một vị tướng tài của dân tộc,
thêm nữa còn là một nhà thơ là một nhà yêu nước nồng nàn.
Bài “Nước Đại Việt ta” một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ
quyền dân tộc và nêu rõ rằng nước ta hoàn toàn tự chủ, độc lập, tự cường.
2. Thân bài
a. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa
“Yên dân”- làm cho nhân dân được hưởng thái bình, hạnh phúc
“Trừ bạo”: Diệt mọi thế lực tàn bạo để giữ yên cuộc sống cho nhân dân
Nhân nghĩa lo cho dân dân, yêu nước, chống quân xâm lược ngăn
chặn mọi thế lực thể làm hại đến dân, cho nhân dân hưởng thái bình hạnh
phúc
b. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền
Lời thơ khẳng định chân lí về sự độc lập của dân tộc thông qua việc chứng minh
đất nước ta là một đất nước có:
Có nền văn hiến riêng
Có lãnh thổ riêng
Có phong tục riêng
Có lịch sử riêng
Có chế độ, chủ quyền riêng
Chứng cứ hùng hồn giàu sức thuyết phục, lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của
dân tộc, lời văn biền ngẫu nhịp nhàng => khẳng định Đại Việt một quốc gia
có độc lập chủ quyền, là một nước tự lực tự cường, có thể vượt mọi thử thách để
đi đến độc lập
c. Sức mạnh của nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc
2
Sức mạnh làm cho kẻ thù thất bại thảm hại, sức mạnh ấy đập tan mọi khó khăn
mọi thử thách
Đó là hậu quả của những kẻ xâm lược phi nghĩa làm trái mệnh trời, những kẻ
dám làm tổn hại đến dân tộc ta chắc chắn không có kết quả tốt đẹp.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nghệ thuật, nội dung của văn bản: Bài Cáo của
Nguyễn Trãi thể nói như một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định
ràng chủ quyền dân tộc.
Liên hệ bản thân: Cần cố gắng giữ gìn bảo vệ đất nước, cố gắng khẳng
định đất nước trên đấu trường quốc tế với bạn bè năm châu.
Dàn ý 2
1. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" và đoạn trích "Nước Đại Việt ta":
Tác phẩm "Bình ngô đại cáo" được viết bằng chữ Hán được xem
áng văn mẫu mực nhất về ý chí quật cường tinh thần yêu nước lớn lao
cùng lòng tự hào dân tộc sâu sắc.
Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện rõ điều đó.
2. Thân bài
- Tư tưởng nhân nghĩa là điều cốt yếu của một dân tộc → Vì yên dân mà trừ bạo
- Khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước ta:
Nền văn hiến lâu đời
Có lãnh thổ riêng
Phong tục, truyền thống tốt đẹp
3
Lịch sử lâu dài qua các triều đại
Hào kiệt, nhân tài khắp mọi nơi
- Đại bại, tiêu vong của kẻ thù
- Cửa Hàm Tử, sông Bạch Bằng trở thành nhân chứng hùng hồn cho chiến
thắng của nhân dân ta
3. Kết bài
Khẳng định giá trị đoạn trích: "Nước Đại Việt ta" như bản hoan ca về đất nước,
con người phương Nam. Lòng tự hào về truyền thống dân tộc cùng ngòi bút tài
năng đã giúp Nguyên. Trãi viết nên những vần thơ sắc bén lập luận chính
xác, thuyết phục.
Dàn ý 3
A. Mở Bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Bình Ngô đại cáo” là một trong những tác
phẩm nổi tiếng nhất của vị anh hùng dân tộc - danh nhân văn hóa thế giới
- Nguyễn Trãi.
Khái quát nội dung tác phẩm: Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” trích trong
“Bình Ngô đại cáo” đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ dân tộc về mọi mặt
với những tư tưởng tiến bộ, sâu sắc của Nguyễn Trãi.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa
- Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với tư tưởng yêu nước, thương dân.
Cốt lõi của nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo”. Đây là tư tưởng lấy dân
làm gốc, “dân vi bản”.
4
Trong tư tưởng nho giáo xưa, nhân nghĩa là phạm trù cá nhân, chỉ đạo lí,
cách ứng xử, tình cảm giữa người với người.
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mới mẻ, tiến bộ, phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử và truyền thống đạo lí của dân tộc.
Luận điểm 2: Quan niệm về quốc gia, dân tộc
- Nguyễn Trãi đưa ra 5 phạm trù quan trọng để xác lập một quốc gia, dân tộc:
Thứ nhất là nền văn hiến: Nước ta có nền văn hiến nghìn năm, đây là điều
mà không phải quốc gia nào cũng có được. Lịch sử văn hiến ấy là bằng
chứng rõ nhất cho sự tồn tại toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc.
Thứ hai là phạm vi lãnh thổ: Lãnh thổ nước ta được giới hạn bởi đường
biên giới, được chia cách từ thuở sơ khai dựng nước.
Thứ ba là phong tục tập quán
Thứ tư là lịch sử triều đại: Tác giả liệt kê một loạt các triều đại nước ta,
đặt ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc khẳng định vị trí, vị
thế của ta so với Trung Quốc và thế giới
Thứ năm là anh hùng hào kiệt: Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, hào
kiệt chính là bằng chứng cho linh khí, long mạch của một đất nước.
Quan niệm về quốc gia, dân tộc được mở rộng, tiến bộ và sâu sắc.
- Trong quan niệm của Thường Kiệt, ông chỉ nhắc đến 2 phạm trù, đó
phạm vi lãnh thổ chủ quyền độc lập. Còn đối với Nguyễn Trãi, một quốc gia
phải được định danh ràng qua nền văn hiến riêng, lãnh thổ riêng, phong tục
riêng, lịch sử triều đại và truyền thống dân tộc.
Giọng điệu hào hùng, khí thế, khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc.
Luận điểm 3: Lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc
5
Liệt kê một loạt những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc ta cũng như
những thất bại thảm hại của những kẻ dám xâm phạm nước ta, sử dụng
các động từ mạnh “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết tươi”…
Qua đó khẳng định sức mạnh dân tộc và là lời cảnh cáo, đe dọa đầy sức
nặng đến những kẻ tham lam có định xâm chiếm nước ta.
Luận điểm 4: Nghệ thuật
Thể cáo đầy trang trọng, có tính chất tuyên bố đến toàn dân thiên hạ.
Lập luận chặt chẽ, chứng cứ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Giọng điệu linh hoạt, khi thì tự hào, hào sảng, khi thì dứt khoát, hùng hồn
Sử dụng câu văn biền ngẫu cùng các biện pháp so sánh, đối lập giúp tăng
nhịp điệu, sức thuyết phục
C. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Không chỉ thành công ở nghệ thuật văn
chính luận, đoạn trích “Nước Đại Việt ta” còn có giá trị to lớn về nội
dung tư tưởng, mang đậm hào khí dân tộc.
Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Nước Đại Việt ta được đánh giá là một bản
tuyên ngôn độc lập bất hủ.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 1
Nguyễn Trãi một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật
toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Nguyễn Trãi đã từng thay
Lợi viết "Bình Ngô đại cáo" một áng thiên cổ hùng văn tuyên cáo độc lập
dân tộc. Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" thuộc phần đầu của bài cáo, là đoạn trích
có vị trí quan trọng – làm tiền đề cho bài cáo.
Năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay
Lợi viết bài cáo công bố trước toàn dân Bình Ngô đã thắng lợi. Đoạn trích
6
"Nước Đại Việt ta" có ý nghĩa như một lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền độc
lập nêu lên nguyên nhân nghĩa chân về chủ quyền dân tộc thiêng liêng
của dân tộc Đại Việt.
Ở hai câu đầu tác giả đưa ra quan niệm "nhân nghĩa" theo Nho giáo:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Theo Nho giáo, "nhân" lòng thương người, "nghĩa" hành động hợp lẽ phải,
biết làm điều thiện. Nhưng cốt lõi tưởng "nhân nghĩa" của Nguyễn Trãi
"yên dân", hành động nhân nghĩa "trừ bạo". "Yên dân" làm cho dân được
sống yên ổn, thái bình. "Trừ bạo diệt thế lực bạo tàn. Trong hoàn cảnh đất
nước lúc bấy giờ, "dân" con dân nước Đại Việt, "bạo" quân Minh bạo tàn,
"quân điếu phạt" nghĩa quân Lam Sơn. Như vậy, với Nguyễn Trãi "nhân
nghĩa" yêu nước, chống quân xâm lược Nhưng "nhân nghĩa" không chỉ
hẹp trong mối quan hệ giữa người với người còn quan hệ giữa dân tộc
dân tộc. Đây chính sự phát triển trong tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
so với nho giáo. Cách mở đề rất đong, ngắn gọn như một câu tục ngữ, một
mệnh đề triết học đã nêu bật được ý nghĩa giặc Minh xâm lược nước ta trái
nhân nghĩa, ta đứng lên chống giặc Minh thuận nhân nghĩa, ta thắng giặc
Minh là tất yếu.
Sau khi nêu nguyên nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định về sự tồn tại độc
lập chủ quyền của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
7
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nguyễn Trãi đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền: quốc hiệu,
nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử, nhân tài hào kiệt,... Tác giả
đưa yếu tố "văn hiến" lên đầu bởi phong kiến phương Bắc luôn tìm cách phủ
nhận nền văn hiến của ta, từ đó phủ nhận cách độc lập của ta. Nhưng dân tộc
ta vẫn giữ vững bản sắc riêng cho nền phong kiến thay đổi, lịch sử lúc
thăng lúc trầm nhưng văn hiến, phong tục tập quán, nhân tài hào kiệt không bao
giờ thay đổi.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn thể hiện niềm tự hào dân tộc qua từ "đế". Phong
kiến phương Bắc chỉ nước ta một ớc chư hầu, chỉ phong vương cho ta
nhưng cách xưng "đế" khẳng định rằng Đại Việt chủ quyền, ngang hàng với
phương Bắc. Để tăng sức thuyết phục, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mang
tính hiển nhiên, vốn có: "đã lâu, đã chia, cũng khác, cũng có". Như vậy, nước
Đại Việt đã có lịch sử lâu đời và có chiều sâu văn hiến.
Để làm sáng tỏ sức mạnh nhân nghĩa chân về chủ quyền độc lập dân tộc,
Nguyễn Trãi đưa ra những dẫn chứng trong lịch sử:
"Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã"
Hai chữ "vậy nên" đã diễn đạt một quan hệ nhân quả: kẻ nào xâm phạm đến
chính nghĩa sẽ chuốc lấy thất bại. Các dẫn chứng được nêu trong trình tự thời
gian, từ Lưu Cung - vua Nam Hán đến Triệu Tiết - tướng nhà Tống đến Toa Đô,
8
Ô Nhi - tướng nhà Nguyên. Cách nêu dẫn chứng linh hoạt, khi nhấn
mạnh thất bại quân giặc, khi ca ngợi chiến thắng của ta. Lời khẳng định:
"Việc xưa xem xét / Chứng cứ còn ghi" một lần nữa nhấn mạnh sức mạnh chính
nghĩa là chân lý về độc lập dân tộc không gì thay đổi được.
Bài cáo với lập luận chặt chẽ, kết hợp hài hòa giữa trí tình cảm, lời lẽ
thực tiễn, giọng văn hùng hồn. Đoạn trích mở đầu bài "Bình Ngô đại cáo" sáng
ngời chính nghĩa được viết bởi trí tuệ sắc sảo của một trái tim yêu nước thương
dân. Đoạn văn đã khẳng định tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào về lịch sử dân
tộc của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Đoạn văn mở đầu bài "Bình Ngô đại cáo" ngắn gọn, đọng, xúc tích, điểm
tựa, nền móng luận cho toàn bài. Đoạn văn vừa lời nghiêm khắc răn dạy
vừa mang chiều sâu thấm thía tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của đạo làm người.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 2
Lòng yêu nước một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học
Việt Nam. Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai
thác thể hiện lòng tự hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta thể kể đến các
tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của
Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,... không
thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Trích đoạn sau đây
của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của tác
giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
....
Chứng cớ còn ghi".
9
Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu năm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa
quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt họa đô hộ
cùng những chính sách man, những hành động tàn bạo giặc Minh gây ra
cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá
trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân
Lam Sơn; những nỗi đau dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy
hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi
đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước giương cao
lòng nhân nghĩa trong nhân gian.
Nếu “Nam quốc sơn hà” của Thường Kiệt được coi bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của dân tộc t “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản
tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại
Việt ta” chính đoạn trích thể hiện nhất nội dung tuyên ngôn ấy. Mở đầu
đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Điều ấy nghĩa việc nhân nghĩa trên đời cốt việc giữ sự bình yên cho dân
chúng, quân đội binh lính việc trước tiên là lo trừ bạo, trừ giặc cho dân. Hai câu
văn ấy đã khẳng định tưởng lấy dân làm gốc “dĩ dân vi bản” đầy tiến bộ.
Trong quan niệm của hội phong kiến xưa, tưởng nhân nghĩa thường
hẹp trong cách hiểu làm điều thiện giúp đỡ người khác. Như trong “Truyện
Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, việc nhân nghĩa việc cứu người bị
nạn: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư cứu Lục Vân Tiên... “Dốc
lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”.
10
Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng -
nhà vua Lợi, ông đã cái nhìn khái quát sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng,
bản chất của nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống
yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng
bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến. Song trong trích đoạn này,
Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả nhất của quân
đội “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. tưởng ấy chỉ thể một
bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.
cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi một lòng
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả
bài thơ “thần” đã khẳng định nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh
thổ, đất,đai bộ máy quyền lực. Nay, Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh
những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân
tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
“Nước Đại Việt ta từ trước” đã vốn nền văn hiến từ lâu. Văn hiến những
giá trị tinh thần con người đã sáng tạo ra, đó tín ngưỡng, ởng,
11
đạo đức... Phải một dân tộc bề dày lịch sử, trí tuệ, chiều dài phát
triển lâu bền mới xây dựng được cho mình một nền văn hiến riêng biệt. Nói
cách khác, văn hiến dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ sự riêng biệt về
nền văn hiến của dân cư, xét về cương vị lãnh thổ nước ta cũng biên giới
riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu văn này gợi đến cái hồn của câu thơ
“thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách
trời”. Núi sông bờ cõi cương vực lãnh thổ của đất nước đã được phân chia
rạch ròi trong lịch sử, trong tiềm thức của mỗi người dân hai quốc gia.
chính điều tâm niệm thiêng liêng ấy đã tạo nên ý thức xây dựng, bảo tồn,
phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai đất ớc: “Phong tục Bắc
Nam cũng khác”. Phong tục tập quán những thói quen trong đời sống, sinh
hoạt đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. thể nói, cùng với
nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán đã cùng góp phần tạo nên bản sắc văn
hoá Việt Nam.
Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt
trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự
độc lập về bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:
"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó
khẳng định vị thế ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ
“đế” trong câu thứ hai “mỗi bên xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”.
Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình “thiên tử” (con trời), họ tự xưng
“đế” và gọi vua các nước khác“vương”. Trong bài cáo này, Nguyễn Trãi đầy
12
tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng “đế” sánh ngang hàng với vua
chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hềquan hệ
nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm.
Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước
ta lên trước. Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc:
khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả nói riêng mỗi người Việt Nam
nói chung.
Bên cạnh những ông vua hiền các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta
cũng những anh tài hào kiệt. rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi
cũng không phóng đại những ưu điểm không giấu giếm những giai đoạn suy
thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định
của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người
nghe về những yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền
độc lập thiêng liêng ấy mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân đất
nước dẫu kẻ thù mạnh đến đâu cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được
khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ linh thiêng...
Bởi vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”
13
Những dẫn chứng cụ thể của đoạn trích về những thất bại của giặc đanh thép
như một bản cáo trạng. Hàng loạt tên của giặc được liệt kê: Lưu Cung, Triệu
Tiết, Toa Đô, Ô liền theo đó là những địa danh lẫy lừng gắn với thất bại thê
thảm của giặc cũng chiến thắng vang dội của ta: cửa Hàm Tử, sông Bạch
Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có nhịp câu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn
đanh hơn; các câu lại đối nhau rất chặt “Lưu Cung” - "Triệu Tiết", "tham
công” - "thích lớn", "nên thất bại" - "phải tiêu vong", "Cửa Hàm Tử" - "Sông
Bạch Đằng", "bắt sống Toa Đô” - "giết tươi Ô Mã",... Những yếu tố đó khiến
đoạn văn giống như lời cảnh cáo đối với những âm u xâm lược của kẻ thù
đồng thời nêu cao niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông.
thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn
lòng yêu nước thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân
đồng thời bày tỏ niềm t hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước truyền
thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị,
tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm xúc của mỗi chúng ta về nơi
mình sinh ra, lớn lên. chính những tình cảm ấy sẽ tr thành động lực để
chúng ta phấn đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 3
Nguyễn Trãi tên hiệu ức Trai, Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà
văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong
kiến. Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động: nhà Trần suy vi, Hồ
Quý Ly lập nghiệp chưa được bao lâu thì giặc Minh xâm lược. Cha bị bắt,
Nguyễn Trãi muốn làm tròn đạo hiếu nhưng nghe lời cha dặn đã quay về báo
thù cho nước, rửa nhục cho cha. Bị giam lỏng ở thành Đông Quan, Nguyễn Trãi
bỏ trốn tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lợi dâng Bình Ngô sách. Từ
đó, Nguyễn Trãi trở thành quân đắc lực của Lợi, đưa cuộc kháng chiến
mười năm chống quân Minh giành thắng lợi. Mùa xuân năm 1428, Nguyễn Trãi
14
thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo một áng Thiên cổ hùng văn tuyên cáo độc
lập dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta thuộc phần đầu của bài cáo, đoạn
trích có vị trí quan trọng – làm tiền đề cho bài cáo.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta ý nghĩa như một lời tuyên bố hùng hồn về chủ
quyền độc lập. Hai nội dung chính của đoạn trích nguyên nhân nghĩa
chân lí về chủ quyền dân tộc thiêng liêng của dân tộc Đại Việt.
Mở đầu đoạn trích, tác giả viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo."
thể coi hai câu thơ này cốt lõi tưởng của Nguyễn Trãi nói riêng của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung.
Nhân quan niệm đạo đức từ lâu đời ý nghĩa ban đầu của chỉ hẹp
trong sự tương thân, tương ái giữa người với người. Chữ nhân trong chính sách
cai trị của vua biểu hiệnkhuynh hướng coi trọng dân chúng, lấy dân làm gốc:
Dân vi quý, tắc thứ chi, quân vi khinh. Nhân nghĩa trong đạo được m
rộng thành lòng thương người và những việc tốt đẹp nên làm.
Nguyên lí nhân nghĩa là nền tảng cơ bản để Nguyễn Trãi triển khai nội dung bài
Bình Ngô đại cáo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi biểu hiện cụ thể qua
hành động yên dân, trừ bạo. Yên dân vỗ về, an ủi, làm cho dân chúng được
hưởng cuộc sống ấm no, thái bình. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, tức tiêu
diệt mọi thế lực bạo tàn làm khổ dân.
Đặt trong hoàn cảnh lịch sử Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo t dân tác
giả nói tới người dân Đại Việt phải chịu cảnh đau thương, tang tóc dưới ách
thống trị của quân xâm lược; còn kẻ bạo tàn chính giặc Minh tác giả gọi
một cách khinh bỉ là quân cuồng Minh.
15
Với Nguyễn Trãi việc nhân nghĩa gắn liền với hành động cứu nước, cứu dân.
Nội dung nhân nghĩa không còn hẹp trong phạm vi quan hệ giữa người với
người như trong quan niệm của Nho giáo đã liên quan tới vận mệnh của
dân tộc, giữa mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây sự phát triển cao độ
của tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi.
Sau khi nêu cao tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chân bất di
bất dịch về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt trong tám câu tiếp theo:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có."
Tác giả đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền độc lập của dân
tộc Đại Việt. Đó nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ rõ ràng, phong tục
tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Văn hiến nghĩa là gốc dùng để chỉ sách vở,
chỉ người hiền tài; nghĩa khái quát nền văn hóa, văn minh của một quốc gia,
dân tộc. Dựa trên những yếu tố này, Nguyễn Trãi đã nêu lên một quan niệm đầy
đủ được người đời sau đánh giá kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc.
với thời Lí, học thuyết đó phát triển cao hơn bởi nh toàn diện sâu sắc của
nó. Quan niệm về quốc gia, dân tộc trong Nam quốc sơn được xác định chủ
yếu qua hai yếu tố: lãnh thổ chủ quyền. Đến Bình Ngô đại cáo, thêm ba yếu
16
tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán lịch sử. Ông khẳng định
mạnh mẽ điều kẻ xâm lược phương Bắc luôn tìm cách phủ định nước
Nam không có nền văn hiến.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 4
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Thái Tổ soạn thảo, được
công bố vào đầu năm 1428. Tác phẩm một bài cáo ý nghĩa trọng đại của
một bản tuyên ngôn độc lập. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” đã nêu lên một
Tuyên ngôn mang ý nghĩa lịch sử cùng quan trọng, khẳng định nước ta
một nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ, phong tục, chủ quyền, và kẻ xâm
lược và phản nhân nghĩa, nhất định sẽ phải chuốc lấy thất bại.
Mở đầu đoạn trích, cũng chính là phần mở đầu của bài “Bình Ngô đại cáo”,
nghĩa cũng nêu tiền đề cho toàn bài. Khi nêu tiền đề, tác giả đã góp phần
khẳng định những chân lí không bao giờ thay đổi:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nguyễn Trãi đã nêu lên cốt lõi tưởng nhân nghĩa, đó chính “cốt yên
dân”, nghĩa là dân là trên hết. Cuộc sống của người dân thái bình thịnh trị, no đủ
chính việc quan trọng nhất. “Nhân nghĩa” vốn được hiểu khái niệm đạo
đức của Nho giáo, đó chính đạo lý, cách ứng xử chuẩn mực, bày tỏ tính
thương yêu giữa con người với con người. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tưởng
này, luôn ớng đến lợi ích của nhân dân, đó lấy dân làm gốc. Một chí lớn
của kẻ đời, phải đem lại được cuộc sống yên ổn cho nhân dân, đó việc
nhân nghĩa nhất. xuất phát từ tình yêu với nhân dân, thì đánh kẻ tội, kẻ
17
gây ra lầm than cho nhân dân sẽ bị đánh dẹp. Kẻ bạo ngược tác giả muốn
nói tới ở đây chính là quân Minh xâm lược.
Để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào rất nhiều yếu tố,
đó chính là những dẫn chứng hùng hồn và chặt chẽ nhất:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”
Tác giả đã nêu ra dẫn chứng Nước ta là một nước có nền văn hiến từ rất lâu đời,
“núi sông bờ cõi đã chia/phong tục Bắc Nam cũng khác” chính chỉ ra việc
rạch ròi về lãnh thổ giữa Trung Quốc nước ta. Mỗi nước lãnh thổ riêng,
cho nên phong tục cũng sẽ khác nhau, chủ quyền ràng. Nước ta truyền
thống lịch sử lâu đời, văn hóa mang bản sắc Đại Việt. Tác giả nêu tên các triều
đại trước đây của ta, song hành cùng đó, ngang hàng với các triều đại phong
kiến phương Bắc, điều đó ám chỉ mỗi nước lãnh thổ riêng, không ai xâm
phạm đến ai. Tác gi còn nêu lên truyền thống đánh giặc ngoại xâm anh hùng
của dân tộc ta”
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Đó chính niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc ta. Cho nên, tác giả đã nêu lên một khí chất anh hùng của
18
cả dân tộc, cũng như một lời cảnh báo đến quân thù, luôn mang âm mưu thôn
tính nước ta:
Vậy nên
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cớ còn ghi”
Tác giả đã nêu lên các danh tướng của các triều đại Trung Quốc, khi mang quân
sang xâm lược nước ta đều bị đánh bại một cách thảm hại, đơn giản đó
hành động phi nghĩa, trái với Sách trời, cho nên ắt phải chuốc lấy thất bại. Tác
giả đã nêu lên chân lí: kẻ âm mưu xâm ợc nước khác, đem quân xâm
lược nước khác, chính là kẻ phản nhân nghĩa, chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi chính chỗ kết hợp giữa
lẽ thực tiễn. Qua đoạn trích trên, ta càng thấy được Nguyễn Trãi đã lập luận
một cách chặt chẽ chứng cứ hùng hồn, nêu lên được hào khí dân tộc, khẳng
định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Đại Việt ta.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 5
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó áng văn tràn đầy
lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa
Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
19
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè
xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của
dân tộc, khẳng định nền độc lập tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức
của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng
đoạn trích nêu lên những tiền đề bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực,
ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó chân
về nhân nghĩa chân về sự tồn tại độc lập chủ quyền của dân tộc Đại
Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân
làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. muốn yên dân thì trước
hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân tác giả nói đến đây những
người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc
Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu
nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược tác giả nói đến
đây không phải ai khác, đó chính bọn giặc Minh nói riêng lũ xâm lược
nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
20
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu
tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử
riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái
niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa
lẽ thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin
khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. quả thực chúng
ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta chủ quyền, thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương
Bắc - Nam khác biệt. Ta nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang
sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên phương Bắc các
triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân
tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta
21
thấy vừa sự kế thừa lại vừa sự phát huy hoàn thiện. Ý thức về nền
độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định hai
phương diện: lãnh thổ chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức
dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc toàn diện. Ngoài lãnh thổ chủ quyền, ý
thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó
nền văn hiến lâu đời, đó phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh
hùng. thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện
hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn
đạt tính chất hiển nhiên, vốn lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ
trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh
kết hợp với liệt cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả
đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ
chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên
tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật chân tác giả muốn
khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”
của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định tưởng yêu nước,
thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn
trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng
tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 6
Nguyễn Trãi là một nhà thơ trữ tình, một nhà văn chính luận, một anh hùng dân
tộc một danh nhân văn hóa nổi tiếng trên thế giới. Tên tuổi Nguyễn Trãi
gắn liền với cuộc chiến đấu đại trong công cuộc kháng chiến chống quân
Minh xâm lược thế kỉ XV. Sau khi kết thúc thắng lợi, thừa lệnh vua Thái
Tổ, ông đã viết nên bài "Bình Ngô đại cáo" (Tuyên bố rộng rãi về việc dẹp yên
22
giặc Ngô). Tác phẩm không những văn kiện lịch sử quý giá, tổng kết quá
trình đấu tranh gian khổ của quân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh
văn bản còn được coi như một bản Tuyên ngôn độc lập, một "áng thiên cổ hùng
văn" của dân tộc ta. Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" trích trong "Bình Ngô đại
cáo" một trong những đoạn trích nằm phần mở đầu của tác phẩm, đã cho
thấy sự phát triển vượt bậc về mặt tưởng yêu nước của dân tộc ta thế kỉ
XV.
Tháng 12/1427, giặc Minh thua trận, rút quân về nước. Tháng 1/1428, Nguyễn
Trãi thay vua viết bài "Bình Ngô đại Cáo". Bài thơ được viết theo thể cáo
một thể văn cổ, tính chất quan phương hành chính, dành cho vua chúa hoặc
thủ nh viết, nhằm trình bày một chủ trương, công bố kết quả một sự nghiệp
trọng đại cho toàn dân được biết. Về hình thức, Cáo thường được viết theo lối
văn biền ngẫu, tính chất hùng biện nên lời l đanh thép, luận sắc bén, kết
cấu chặt chẽ, logic, mạch lạc. Bố cục bài cáo gồm bốn phần thì đoạn trích
"Nước Đại Việt ta" nằm ở phần đầu có vai trò: nêu luận đề chính nghĩa của cuộc
kháng chiến.
Trước hết, hai câu thơ mở đầu nêu cao tưởng "nhân nghĩa" gắn liền với
tưởng yêu nước chống giặc ngoại xâm:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
"Nhân nghĩa" vốn khái niệm đạo đức của Nho giáo, nói về cách ứng xử
tình thương giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã kế thừa
tưởng đó của Nho giáo phát triển tưởng đó theo hướng lấy lợi ích từ việc
đề cao nhân dân, dân tộc làm gốc. Dấy quân khởi nghĩa thương dân, trừng
phạt kẻ tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui
23
cho nhân dân (yên dân), đó việc làm "nhân nghĩa". Như vậy, người đọc nhận
thấy, đây một bước phát triển vượt bậc về mặt nhận thức của Nguyễn Trãi về
đất nước: đất nước gắn liền với nhân dân. Nếu trước đây, khi nhắc tới đất nước
thường gắn liền với vua chúa, bảo vệ đất nước bảo vệ sự cai trị của vua
chúa (điều này xuất phát từ quan niệm trung quân ái quốc: Nam quốc sơn
nam đế cư) thì nay, Nguyễn Trãi lại một quan niệm hoàn toàn khác: nước
gắn liền với dân (dân đây những lớp dân đen, con đỏ, thậm chí những
người khốn cùng trong hội, điều này sẽ được Nguyễn Trãi nhắc tới đoạn
sau). Cho nên yêu nước phải gắn liền với việc yêu dân, yên dân, làm cho nhân
dân trong nước được yên bình, cuộc sống hạnh phúc, ấm no. để làm được
điều đó t phải lo trừ bạo ngược, phải đánh giặc, cứu dân, cứu nước: "triết
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua lòng yêu nước thương dân. Cái nhân
nghĩa lớn nhất phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, độc lập
của đất nước, hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn Đồng).
Trên cơ sở của lập trường "nhân nghĩa", Nguyễn Trãi đi vào khẳng định độc lập
chủ quyền của dân tộc Đại Việt trên các phương diện rất cụ thể, rõ ràng:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
24
Trong bản tuyên ngôn lần thứ nhất của dân tộc ta trong bài thơ thần "Nam quốc
sơn hà", tác giả cũng đã nêu ra những yếu tố bản để xác định chủ quyền dân
tộc: có hoàng đế riêng, có lãnh thổ riêng, có "sách trời" (thần linh) bảo hộ, công
nhận đưa ra lời chân khẳng định: quân xâm lược sẽ thất bại nếu cứ cố
tình xâm phạm tới Đại Cồ Việt. đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa hai yếu tố
để khẳng định chủ quyền dân tộc: hoàng đế lãnh thổ riêng biệt. Đồng
thời, ông còn bổ sung thêm những yếu tố mới , không dựa vào thần linh (yếu tố
siêu nhiên) như trước nữa mà căn cứ vào những sự thật hoàn toàn có thật để làm
tăng tính khách quan, chân thực, thuyết phục cho văn bản. Những yếu tố đó
vai trò quan trọng, khẳng định vị thế vững chắc, tồn tại bất biến với thời
gian, năm tháng: đó đất nước ta nền văn hiến lâu đời; cương vực lãnh
thổ rõ ràng, riêng biệt; có phong tục tập quán, lối sống riêng;lịch sử gắn liền
với các triều đại phong kiến đã qua; có nhân tài hào kiệt đời nào cũng có. Tất cả
những yếu tố này đều được Nguyễn Trãi đặt sánh ngang tầm với Trung Quốc
(phương Bắc) cho thấy được sự tự tôn dân tộc mạnh mẽ, đồng thời khẳng định
Đại Việt xứng đáng một quốc gia độc lập, chủ quyền, bất kẻ thù
lớn mạnh tới bao nhiêu thì khi đem tâm xâm lược tới đều sẽ bị chuốc lấy bại
vong. Vì thế, lời thơ không chỉ là lời khẳng định mà cònlời thề nguyền quyết
tâm sẽ giữ vững nền chủ quyền độc lập dân tộc của nhân dân ta ở thế kỉ XV.
Từ đó, tác giả đi đến những dẫn chứng cụ thể, đầy thuyết phục về sức mạnh của
dân tộc ta đã kinh qua nhiều thử thách lịch sử đã từng ghi lại bao chiến công
lừng lẫy của cha ông ta: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt,
Ô Mã bị giết. Chúng ta thấy dẫn chứng được đưa ra một cách dồn dập theo hình
thức liệt kê, cho thấy sức thuyết phục càng cao; đồng thời thấy được niềm tự
hào dân tộc sâu sắc của tác giả khi đứng trước những chiến công đó.
Đoạn trích ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập không chỉ bởi nội dung
của bài Cáo còn bởi sức thuyết phục của nghệ thuật lập luận chặt chẽ, mạch
lạc, logic; chứng cứ hùng hồn, lẽ sắc bén. Hào khí chiến thắng, niềm tự hào
25
dân tộc như căng tràn trong từng câu chữ, những nhịp điệu tiết tấu của âm biền
ngẫu tạo thành một sự cộng hưởng ngân vang, dồn dập, sức lay động mạnh
mẽ tới tình cảm người đọc... Tất cả đã làm nên sức thành công của đoạn trích và
toàn bộ tác phẩm, xứng đáng với danh hiệu: áng thiên cổ hùng văn, tràn đầy tinh
thần tự hào dân tộc sâu sắc.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 7
Như ta biết, Cáo cùng với Hịch, Chiếu là những văn bản tính chất công vụ
hành chính từ trên ban truyền hoặc trình bày, giải thích một chủ trương hoặc
công bố một sự kiện. Ở đây, Nguyễn Trãi dùng từ đại cáosự kiện mà bài văn
nói đến một sự kiện lớn: công cuộc bình Ngô. Đòi hỏi một bài cáo nói
riêng, một bài văn nghị luận nói chung phải là sự chặt chẽ đã đành, trong trường
hợp này, tác giả vừa lược thuật chiến tranh vừa bàn luận về chiến tranh. Nó vừa
lịch sử vừa tưởng. Làm thế nào phối hợp được cái bề nổi chiều sâu
hàm ẩn ấy, điều này quả không đơn giản chút nào. Hiện diện bằng câu chữ thì
bài văn gồm bốn phần: chân dung quốc gia Đại Việt; tội ác của quân thù;
cuộc dấy binh thắng lợi; một trang sử mới mở ra, ấy là theo trình tự của loại văn
miêu tả, tự sự thông thường. Dựa vào đó phân tích không phải không
lí. Nhưng bài văn còn một tầng nghĩa thứ hai chuyên chở tưởng của người
viết. Chính tưởng (mạch chìm) của người viết mới tạo ra cho bài văn cái ý
nghĩa kép làm cho câu, chữ toả sáng, lung linh, rung động lòng người từ đó đến
nay, xứng đáng là một "thiên cổ hùng văn" mà người xưa ca ngợi.
Đặt đoạn một của bài văn trong kết cấu chung, vấn đề cần phân tích để rút ra: sự
tồn tại của quốc gia Đại Việt một chân vĩnh hằng. Quốc gia ấy tưởng
riêng, sức mạnh riêng, nghĩa những yếu tố tinh thần nằm trong một hệ
thống song hành cùng với các yếu tố vật chất như địa lí, đất đai. Vậy, tư tưởng
riêng ấy gì? Đừng vội trả lời rằng đó đạo nhân nghĩa, câu văn trong
bài cáo "Việc nhân nghĩa cốt yên dân". Bởi nhân nghĩa vốn học thuyết
26
của Nho gia nói về quan hộ đối xử giữa con người với con người. Nhưng đến
Nguyễn Trãi, được nâng lên, được mở rộng ra trong một quan hệ khác: giữa
các quốc gia, dân tộc với nhau. Cũng như sau này, cách Nguyễn Trãi năm thế
kỉ, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập đã "suy rộng ra" ("Suy rộng ra, câu
ấy nghĩa là..."). Từ quyền sống của con người thể, từ đạo con người
thể ấy nên theo "suy rộng ra" như vậy hợp với logic của duy, nhất
là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta, một dân tộc vốn là đối tượng
nhòm ngó của bao nhiêu thế lực bên ngoài từ đông sang tây, từ nam đến bắc.
Nhân nghĩa trái với bạo ngược. Nhân nghĩa tình thương lẽ phải hướng
về phía nhân dân. "Trừ bạo" "yên dân" nhân nghĩa, đó nói chung. Còn
nói riêng, khi đất nước bị xâm lăng, thương dân (nhân), việc phải, nên làm
(nghĩa), quân đội ấy trở thành "quân điếu phạt". Nhân nghĩa không còn một
khái niệm khoan dung là trừ ác, trừ ác mới đạt được cái đích yên dân.
Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật hẳn' lên giữa hai khía cạnh tướng như đối
lập thống nhất. Hai câu văn như hàm súc một chân thiêng liêng, người
nói mà như là trời nói, nghĩa là cùng một thứ "sách trời" (hai chữ thiên thư trong
Nam quốc sơn hà). Chính sự mở rộng về khái niệm nhân nghĩa này, Nguyễn
Trãi đã đưa được vào một khái niệm rộng hơn : nền văn hiến. Đất nước
chủ quyền không chỉ dựa vào yếu tố lịch sử, đất đai, chủ yếu đất nước ấy
thực sự một nền văn hiến. Đó là dấu hiệu của một nền văn minh. Nền văn
hoá phi vật thể này chính sự bổ sung quan trọng cho tinh thần dân tộc. Quốc
gia Đại Việt không chỉ "Núi sông bờ cõi đã chia" (dùng lại ý trong bài Nam
quốc sơn hà) còn "Phong tục Bắc Nam cũng khác". Cái khác ấy phải
chăng là ở chỗ chúng ta, dân tộc ta đã nâng khái niệm nhân nghĩa thành lẽ sống,
thành đạo lí, thành bản lĩnh, cốt cách riêng của mình. Bức chân dung tinh thần
của quốc gia Đại Việt có phần chìm chính là ở chỗ đó. Và cũng chính là vì lẽ đó
Nguyễn Trãi thể tự hào: một nước nhỏ thể sánh vai, ngang hàng
với một nước lớn:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
27
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.
So với câu thơ "Nam quốc sơn Nam đế cư" đời Lí, niềm tự hào, tự tôn đã
nâng lên một bậc, nâng lên bằng một ý thức văn hoá hẳn hoi. Cái linh, cái hồn
vía của "địa linh" đã tạo ra "nhân kiệt" là lẽ đương nhiên như thế. Cách nhìn vào
lịch sử dân tộc bằng cái nhìn như thế chiều sâu, đảm bảo được sức sống
trường tồn không gì khuất phục được. Đoạn văn trần thuật, đúng hơn là tự thuật
ấy nếu hiểu sâu xa thì đến hai lớp nghĩa: giữa các triều đại phương Nam
phương Bắc không chỉ có sự tồn tại ngang hàng mà còn có lí do để có sự tồn tại
ngang hàng. Muốn tồn tại ngang hàng, quốc gia Đại Việt đã trả bằng máu của
mình, nhưng thế, chúng ta đã "thà hi sinh tất cả" (chữ của Hồ Chí Minh)
để đánh đổi lấy chủ quyền, độc lập, tự do. Còn một điều nữa: nếu tính toán, cân
đong một cách máy móc, bình quân t lịch sử của mảnh đất phương Nam làm
sao có độ dài tương đương lịch sử vùng đất phương Bắc ? Điều mà Nguyễn Trãi
nói "bao đời xây nền độc lập", hay "Như nước Đại Việt ta từ trước", hoặc
"Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" thực thì chỉ mấy trăm năm làm sao thể sánh
vai với lịch sử mấy ngàn năm tính từ thời Xuân thu - Chiến quốc ? Sự thiếu hụt
về độ dài vật ấy đã niềm kiêu hãnh về tâm vào để cán cân không còn
nghiêng lệch. đủ độ cân bằng. Đoạn văn không hề ý định chứng minh
(vì chỉ mục đích trần thuật) tác dụng như một sự tự phản biện (hỏi
đáp) một cách hùng hồn, ấy do âm vang của lòng yêu nước tự thân lên tiếng.
Ấy là tiếng nói tự bên trong, cái ý ở ngoài lời, lặn sâu dưới mặt bằng câu chữ.
Đoạn văn thực sự có mục đích chứng minh bắt đầu từ hai chữ "Vậy nên":
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong...
Nhưng nó chứng minh cho cái gì? Có lẽ cả hai, cả tư tưởng nhân nghĩa, một đạo
làm người, ngọn cờ của đội quân "điếu phạt", cả chủ quyền dân tộc dựa trên
tưởng ấy, nghĩa dựa trên nền tảng của một "nền văn hiến đã lâu". Cuộc
28
dụng đầu lịch sử giữa kẻ phi nghĩa, bất nhân với quốc gia Đại Việt trên tinh
thần ấy. Kẻ t "thất bại", "tiêu vong" động ích kỉ, "thích lớn", "tham
công". Dựa vào tướng giỏi, quân đông, không "lấy nhân nghĩa làm gốc",chỉ
lấy "trí dũng làm cành", hậu quả ấy không thể nào tránh khỏi. đây vừa cái
nguyên cớ của sự bại vong, cả chứng tích của sự bại vong như những hiện
vật trong viện bảo tàng, với kẻ địch một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa,
tiếng xấu còn ghi, còn với ta, đó là minh chứng cho một lẽ phái hùng hồn mà
dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó (tất nhiên còn tinh thần xả thân,
ý thức và hành động xả thân - như cách nói của Trần Quốc Tuấn ("Dẫu cho trăm
thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa"). Bạch Đằng,
Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những dấu son chói lọi làm phấn chấn lòng
người bao nhiêu thì cũng những địa danh đó, với kẻ địch, bao nhiêu tham vọng,
danh dự bị vĩnh viễn chôn vùi. Nhưng còn đáng nói thêm : lời tiên tri (hai câu
đầu bài cáo) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo (nhân nào quả ấy) tức thời. Cái
chết của Ô Mã, của Toa Đô với chúng đột ngột, bất ngờ, không sao hiểu nổi.
Ngược lại cái chết "bất đắc tử" ấy, chỉ chúng ta hiểu: điều xảy ra tất phải
xảy ra theo luật định, mệnh trời.
Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đại cáo không dài, tuy vậy, vẫn điểm tựa,
nền móng luận cho toàn bài. đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kẻ
dẫn đường từ nơi xuất phát. Đoạn vãn ấy có sức khái quát rất cao: biến những gì
đã xảy ra thành những quy luật vận hành. Người thắng kẻ thua là do nghĩ và làm
thuận chiều hay ngược chiều với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu "Việc xưa
xem xét - Chứng cớ còn ghi", Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của nh thành
lời của người chép sử, biến cái chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng
biệt thành quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người hãy soi mình
vào đó. Bể nổi của lời văn sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thía
một đạo lí, một tư tưởng, một lẽ phải làm người: nhân nghĩa.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 8
29
Nguyễn Trãi một nhân vật lịch sử lỗi lạc, không chỉ tài quân sự ông
còn là một nhà thơ, nhà văn lớn. Ông để lại sáng tác đồ sộ trên cả hai mảng sáng
tác chữ Hán chữ Nôm. Các tác phẩm thơ cũng như văn chính luận của ông
đều đạt đến độ xuất sắc. Trong sự nghiệp văn học đồ sộ của Nguyễn Trãi ta
không thể không nhắc đến Bình ngô đại cáo. Đoạn trích ớc Đại Việt ta là
phần đầu của bài cáo này, đã phần nào cho thấy tài năng của Šc Trai.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đã dẹp yên giặc Minh.
Nguyễn Trãi thừa lệnh Lợi, soạn bài đại cáo tổng kết hành trình mười lăm
năm chống Minh xâm lược đầy gian khổ hào hùng của nhân dân ta. Tác
phẩm áng thiên c hùng văn, bản anh hùng ca hào sảng của cả dân tộc,
khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiếnmở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta nằm phần đầu của bài cáo, nên
lên luận đnhân nghĩa đồng thời khẳng định chủ quyền vốn của dân tộc Đại
Việt. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nên lên luận đề nhân nghĩa, đây chính
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ văn bản:
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chính là làm cho nhân dân cuộc sống được
yên ổn, hạnh phúc, và để làm được điều đó cần phải diệt giặc tàn bạo. Trong bối
cảnh nước ta lúc bấy giờ, trừ bạo đây chính đánh tan quân Minh. Hai mặt
này gắn chặt chẽ, khăng khít với nhau, không trừ được bạo ngược chắc chắn
sẽ không thể đem đến cuộc sống yên ổn cho nhân dân. Đây chính nguyên
bản, làm sở để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ luận đề phía sau. Sau khi
nêu lên luận đề nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng, chân về
sự tồn tại độc lập của dân tộc ta:
Như nước Đại Việt ta từ trước
30
Vốn xưng nên văn hiến đã lâu
….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Các yếu t được Nguyễn Trãi đưa ra để khẳng định chủ quyền dân tộc hết sức
đa dạng chiều sâu. Nếu như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên Nam quốc
sơn hà, mới chỉ dừng lại khẳng định trên hai phương diện chủ quyền lãnh
thổ, thì đến đây Nguyễn Trãi đã đưa thêm các yêu tố khác: phong tục, tập quán,
lịch sửchế độ riêng. Những yếu tố được bổ sung thuộc về chiều sâu văn hóa
phải mất hàng nghìn năm bồi đắp sang lọc mới được. Với những yếu
tố đó, Nguyễn Trãi đã hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây một
bước chuyển mình lớn, sâu sắc hơn so với bản tuyên ngôn trước đó. Qua đây, ta
thấy được nhận thức sâu sắc, đúng đắn của Nguyễn Trãi đối với vấn đề chủ
quyền của nước nhà.
Trong đoạn thơ trên, bản tuyên ngôn có sức thuyết phục rất lớn đối với người
đọc khi Nguyễn Trãi đã sử dụng linh hoạt các từ ngữ mang tính chất hiển nhiên,
sẵn có: t nghe, vốn xưng, đã lâu, đã chia,… để khẳng định sự tồn tại độc lập
của đất nước. Ông còn dụng linh hoạt biện pháp so sánh, so sánh các triều
đại của ta với các triều đại Trung Quốc. Ngoài ra còn kết hợp với giọng văn
đanh thép, dõng dạc càng khẳng định hơn nữa ý thức về độc lập, chủ quyền của
dân tộc. Đoạn thơ cuối nêu lên s thất bại thảm hại của kẻ thù khi sang xâm
lược nước ta. Đó Lưu Công, Triệt Tiết,… những kẻ nghịch lỗ, lai xâm phạm
Đại Việt đều phải chịu kết cục hết sức bi thảm. Hai câu thơ cuối ngắn gọn, súc
tích nhưng lại sức nặng lơn, một lần nữa khẳng định chân tồn tại độc lập
của dân tộc ta.
31
Với trình tự lập luận chặt chẽ, giọng văn đanh thép, sắc sảo, Nước Đại Việt ta
xứng đáng là áng văn chính luận, bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc. Đằng sau
giọng văn hùng hồn, dẫn chứng chân thực một lòng yêu nước nồng nàn, lòng
tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 9
Nhắc đến văn học trung đại nước nhà không thế không nhắc tới đại thi hào
Nguyễn Trãi. Ông sinh năm 1830 tại Hải Dương, một người năng lực chính
trị tài ba, lỗi lạc một tác giả lớn của văn học dân tộc. Ông nhiều tác phẩm
nổi tiếng cả về chữ Hán chữ Nôm thể kể đến như "Šc trai thi tập", "Quốc
âm thi tập". Tác phẩm "Bình ngô đại cáo" được viết bằng chữ Hán và được xem
áng văn mẫu mực nhất về ý chí quật cường tinh thần yêu nước lớn lao
cùng lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Đoạn trích " Nước Đại Việt ta " đã thể hiện rõ
điều đó.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
"Việc nhân nghĩa" những việc con người, cách đối xử giữa người với
người, hành động theo chính nghĩa. "Yên dân" là mang đến sự yên ổn, thái bình
cho nhân dân, để dân không phải lo lắng về giặc xâm lược. Tác giả đã mở rộng
tưởng nhân nghĩa, tưởng thân dân, đó tưởng lấy nhân dân làm trọng,
coi dân yên là điều cốt yếu. Dân là gốc là điều cốt yếu của một dân tộc, dân yên
thì đất nước mới thịnh. Muốn dân yên trước tiên phải lo trừ bọn ngoại xâm, bạo
ngược, đó là lẽ tất yếu. Không một quốc gia nào có thể sống an yên trên sự hống
hách, bóc lột bạo tàn của kẻ thù, đặc biệt là giặc Minh.
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
32
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ triệu Đinh Lý Trần
Bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên
mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước ta. Dân tộc
Đại Việt vốn nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng với bao phong tục,
truyền thống tốt đẹp. Không chỉ vậy, nước Đại Việt còn trải qua lịch sử lâu bền
qua bao thời kỳ dựng nước đấu tranh giữ nước. Đặt các Triều đại của nước
nhà sánh ngang với các triều đại nhà phương Bắc như một lần nữa khẳng định
sức mạnh chủ quyền của quốc gia đại Việt. Một yếu tố không thể thiếu của
một đất nước thịnh trị, vững bền đó hào kiệt, nhân tài, vai trò quan trọng của
nhân dân, của những cơn người yêu nước, đấu tranh hết mình vì dân tộc.
Bằng ý thức lòng tự tôn dân tộc, Nguyễn Trãi đã minh chứng hùng hồn
phương Nam vốn lãnh thổ độc lập, không ai quyền xâm phạm. Những
kẻ đạo tặc "trời không dùng, đất không tha" chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại bởi
những việc làm phi nghĩa của chúng.
"Vậy: Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
33
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã"
Thất bại của quân thù điều tất yếu. Nước Nam bằng sức mạnh đoàn kết của
nhân dân, bằng tinh thần anh dũng quật cường nêu cao chính nghĩa đã giành
lấy thắng lợi. Những trang lịch sử chói lọi ghi những địa danh diễn ra chiến trận
khiến bao kẻ bị thất bại, bắt sống, tiêu vong. Những cửa Hàm Tử, sông Bạch
Bằng trở thành nhân chứng hùng hồn cho chiến thắng của nhân dân ta được sử
sách lưu danh muôn đời.
"Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi"
Nước Đại Việt ta" như bản hoan ca về đất nước, con người phương Nam. Lòng
tự hào về truyền thống dân tộc cùng ngòi bút tài năng đã giúp Nguyễn Trãi viết
nên những vần thơ sắc bén lập luận chính xác, thuyết phục như thế. Qua
đoạn trích, em thêm tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc mình, quyết tâm
học tập để xứng đáng với sự hi sinh của cha ông cho hoà bình hôm nay.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 10
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô
đại cáo. Bình Ngô đại cáo bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với
cách một quốc gia độc lập tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết
thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu
thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo
đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung
tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng,
gây được tiếng vang lớn trong luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã tới
ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình
34
Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản
tuyên ngôn ấy không những kiệt tác văn chương còn ý chí độc lập tự
chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối
năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi. Mở đầu bài
Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên nhân nghĩa tính chất tưởng chủ đạo
cho cả bài Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó tưởng nhân nghĩa dân nước hết sức cao đẹp tiến bộ. Ngay sau
đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân về sự tồn tại độc lập chủ quyền của dân
tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
35
Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia dân tộc. Trước
Nguyễn Trãi, Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân
tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Thường Kiệt đã khẳng định
một chân tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam của người Nam.
Đó đạo hợp với lẽ trời lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo ấy
sẵn sàng chiến đấu hi sinh nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời được
tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả
một hào khí chiến đấu chiến thắng giặc thù. Âm ởng của bài thơ ngân
vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay.
Nguyễn Trãi đã kế thừa tưởng của Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc
nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở
hai yếu tố bản: chủ quyền lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy
được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại
Việt của dân tộc Việt. Dân tộc ấy một dân tộc nền văn hiến lâu đời,
núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ
chủ quyền riêng.
Điều đáng nói đây Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa bền vững về độc
lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ một dân tộc có độc lập
chủ quyền riêng, điều cần thiết không thể thiếu dân tộc ấy phải một
nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính truyền thống văn hóa tốt đẹp.
36
Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ
lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa
dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý
chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại phát triển trong suốt đêm
trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi,
tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ
ngời sáng: chân độc lập dân tộc. Chân độc lập dân tộc được ánh sáng
tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Bằng những chứng cứ xác thực hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa
khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn
Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá
trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha
anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài Cáo một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với
hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình
muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính tuyên ngôn về hào khí, khí
phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn
còn ngời sáng đến muôn đời.
37
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 11
“Bình Ngô đại cáo” tác phẩm ra đời sau chiến thắng chống quân xâm lược
nhà Minh của Lợi nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo như một lời tuyên bố sự
chiến thắng của dân tộc Việt, khẳng định nền độc lập tự do của đất nước. Đồng
thời thể hiện thái độ nghiêm khắc, cảnh tỉnh quân địch đối với âm mưu xâm
lược nước ta.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta đoạn mở đầu của bài cáo, tuy chỉ vài câu
tương đối ngắn gọn nhưng đoạn trích đã thể hiện rõ nét những vấn đề bản
nhất của bài cáo. Khẳng định quan điểm, ý nghĩa của toàn bộ bài cáo. Đó
chân lý về độc lập tự do và chủ quyền dân tộc của nước Đại Việt thời bấy giờ.
Mở đầu văn bảnhai câu thơ vừa nhân nghĩa lại vừa mang ý khẳng định nghĩa
vụ của quân vương:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai từ “yên dân”
“trừ bạo”. Nhân nghĩa đây yêu dân, nếu yêu dân phải khiến dân được hạnh
phúc, hưởng thái bình. Muốn yên dân thì trước hết bậc quân vương phải trừ bạo.
“Dân” đây chính những người lao động, người dân của nước Đại Việt đang
sống trong cảnh lầm than dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh. Như vậy,
phân tích Nước Đại Việt ta để thấy, nhân nghĩa tác giả nhắc đến chính
lòng yêu nước, yêu quốc gia, yêu dân tộc. Kẻ tàn bạo tất cả những kẻ xâm
lược nói chung và giặc Minh nói riêng ở thời bấy giờ.
Tiếp nối đoạn trích là những câu văn chất chứa niềm tự hào sâu sắc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
38
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã đưa các yếu tố: Đại Việt nền văn hiến đã lâu, lãnh thổ đã
được phân định ràng, lịch sử hình thành riêng, phong tục tập quán,
lãnh đạo riêng ( Triệu, Đinh, Lý, Trần,.. bao đời xây nền độc lập) để khẳng định
chủ quyền của nước ta. Từ đó ta có thể thấy được một khái niệm đầy đủ về quốc
gia, dân tộc.
Sự khẳng định chủ quyền này đầy sức thuyết phục vì Nguyễn Trãi đã kết hợp vô
cùng hoàn hảo giữa lẽ thực tiễn. Đây sự thật hiển nhiên ! Đại Việt
thật sự đã một nền văn hiến lâu đời ai trong chúng ta cũng nên tự hào về
điều này. Lịch sử là không thể xóa bỏ mà phải công nhận vì thực tế:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Ngoài khẳng định về lịch sử, Nguyễn Trãi còn khẳng định nhân dân ta chủ
quyền, mỗi miền Bắc Nam đều phong tục tập quán riêng. Nền độc lập của
Đại Việt cùng vững vàng, được xây dựng bằng những trang sử hào hùng của
ông cha thời trước.
39
Nếu phương bắc Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt Triệu, Đinh,
Lý, Trần, bao đời hùng cứ từng bên, không tranh giành nhau:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Phân tích Nước Đại Việt ta để thấy so với “Sông núi nước Nam” Bản tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Đoạn trích vừa kế thừa, vừa phát huy và hoàn
thiện với nhiều lẽ lập luận mới chắc chắn, chi tiết hơn. “Sông núi nước
Nam”, độc lập dân tộc được khẳng định bằng ranh giới lãnh thổ chủ quyền
nước Nam. Còn Nước Đại Việt ta cũng khẳng định độc lập bằng 2 yếu tố này
nhưng lại bổ sung nhiều hơn, phát triển sâu sắc toàn diện hơn. Những yếu tố
bổ sung thể thấy trong bài cáo là: nên văn hiến lâu đời, truyền thống lịch
sử vẻ vang, phong tục tập quán khác biệt hoàn toàn so với phương Bắc. thể
nói bản tuyên ngôn độc lập thế kỉ XV đã toàn diện sâu sắc hơn rất nhiều bản
tuyên ngôn trước đó.
Về mặt từ ngữ diễn đạt, trong đoạn trích Nước Đại Việt ta, Nguyễn Trãi sử
dụng nhiều từ ngữ mang tính chất khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, tồn tại lâu
đời của Đại Việt đó là: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,…Tác giả
sử dụng biện pháp so sánh giữa hai nước phương Nam phương Bắc, đạt
Trung Hoa ngang hàng với Đại Việt về các phương diện văn hóa chính
trị,..Những khẳng định của tác giả được củng cố một cách chắc chắn, ràng
thông qua việc sử dụng các câu văn biền ngẫu, chúng chạy song song và tiếp nối
với nhau thành một mạch hoàn chỉnh. Từ đó tạo nên một bản tuyên ngôn độc
lập thứ 2 hùng hồn và đanh thép của lịch sử nước nhà.
Phân tích Nước Đại Việt ta, để thấy đoạn trích tuy phần mở đầu của “Bình
Ngô đại cáo” nhưng Nguyễn Trãi đã bao hàm được toàn bộ những ý tứ, nội
dung của toàn bài cáo. Đoạn trích khẳng định lòng yêu thương, thương dân của
những bậc lãnh đạo trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Song song với đó sự
40
khẳng định vị thế, chủ quyền của Đại Việt qua nhiều phương diện, thể hiện lòng
yêu nước, tự hào dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
41
| 1/41

Preview text:

Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi
Sơ đồ tư duy Nước Đại Việt ta
Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta Dàn ý 1 1. Mở bài 1 
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi- là một vị tướng tài của dân tộc,
thêm nữa còn là một nhà thơ là một nhà yêu nước nồng nàn. 
Bài “Nước Đại Việt ta” – một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ
quyền dân tộc và nêu rõ rằng nước ta hoàn toàn tự chủ, độc lập, tự cường. 2. Thân bài
a. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa
“Yên dân”- làm cho nhân dân được hưởng thái bình, hạnh phúc 
“Trừ bạo”: Diệt mọi thế lực tàn bạo để giữ yên cuộc sống cho nhân dân
⇒ Nhân nghĩa là lo cho dân vì dân, là yêu nước, chống quân xâm lược là ngăn
chặn mọi thế lực có thể làm hại đến dân, cho nhân dân hưởng thái bình hạnh phúc
b. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền
Lời thơ khẳng định chân lí về sự độc lập của dân tộc thông qua việc chứng minh
đất nước ta là một đất nước có:  Có nền văn hiến riêng  Có lãnh thổ riêng  Có phong tục riêng  Có lịch sử riêng 
Có chế độ, chủ quyền riêng
⇒ Chứng cứ hùng hồn giàu sức thuyết phục, lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của
dân tộc, lời văn biền ngẫu nhịp nhàng => khẳng định Đại Việt là một quốc gia
có độc lập chủ quyền, là một nước tự lực tự cường, có thể vượt mọi thử thách để đi đến độc lập
c. Sức mạnh của nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc 2
Sức mạnh làm cho kẻ thù thất bại thảm hại, sức mạnh ấy đập tan mọi khó khăn mọi thử thách
⇒ Đó là hậu quả của những kẻ xâm lược phi nghĩa làm trái mệnh trời, những kẻ
dám làm tổn hại đến dân tộc ta chắc chắn không có kết quả tốt đẹp. 3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nghệ thuật, nội dung của văn bản: Bài Cáo của
Nguyễn Trãi có thể nói như một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định rõ
ràng chủ quyền dân tộc. 
Liên hệ bản thân: Cần cố gắng giữ gìn bảo vệ đất nước, cố gắng khẳng
định đất nước trên đấu trường quốc tế với bạn bè năm châu. Dàn ý 2 1. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" và đoạn trích "Nước Đại Việt ta": 
Tác phẩm "Bình ngô đại cáo" được viết bằng chữ Hán và được xem là
áng văn mẫu mực nhất về ý chí quật cường và tinh thần yêu nước lớn lao
cùng lòng tự hào dân tộc sâu sắc. 
Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện rõ điều đó. 2. Thân bài
- Tư tưởng nhân nghĩa là điều cốt yếu của một dân tộc → Vì yên dân mà trừ bạo
- Khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước ta:  Nền văn hiến lâu đời  Có lãnh thổ riêng 
Phong tục, truyền thống tốt đẹp 3 
Lịch sử lâu dài qua các triều đại 
Hào kiệt, nhân tài khắp mọi nơi
- Đại bại, tiêu vong của kẻ thù
- Cửa Hàm Tử, sông Bạch Bằng trở thành nhân chứng hùng hồn cho chiến thắng của nhân dân ta 3. Kết bài
Khẳng định giá trị đoạn trích: "Nước Đại Việt ta" như bản hoan ca về đất nước,
con người phương Nam. Lòng tự hào về truyền thống dân tộc cùng ngòi bút tài
năng đã giúp Nguyên. Trãi viết nên những vần thơ sắc bén và lập luận chính xác, thuyết phục. Dàn ý 3 A. Mở Bài:
● Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Bình Ngô đại cáo” là một trong những tác
phẩm nổi tiếng nhất của vị anh hùng dân tộc - danh nhân văn hóa thế giới - Nguyễn Trãi.
● Khái quát nội dung tác phẩm: Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” trích trong
“Bình Ngô đại cáo” đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ dân tộc về mọi mặt
với những tư tưởng tiến bộ, sâu sắc của Nguyễn Trãi. B. Thân bài:
Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa
- Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với tư tưởng yêu nước, thương dân.
● Cốt lõi của nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo”. Đây là tư tưởng lấy dân
làm gốc, “dân vi bản”. 4
● Trong tư tưởng nho giáo xưa, nhân nghĩa là phạm trù cá nhân, chỉ đạo lí,
cách ứng xử, tình cảm giữa người với người.
⇒ Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mới mẻ, tiến bộ, phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử và truyền thống đạo lí của dân tộc.
Luận điểm 2: Quan niệm về quốc gia, dân tộc
- Nguyễn Trãi đưa ra 5 phạm trù quan trọng để xác lập một quốc gia, dân tộc:
● Thứ nhất là nền văn hiến: Nước ta có nền văn hiến nghìn năm, đây là điều
mà không phải quốc gia nào cũng có được. Lịch sử văn hiến ấy là bằng
chứng rõ nhất cho sự tồn tại toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc.
● Thứ hai là phạm vi lãnh thổ: Lãnh thổ nước ta được giới hạn bởi đường
biên giới, được chia cách từ thuở sơ khai dựng nước.
● Thứ ba là phong tục tập quán
● Thứ tư là lịch sử triều đại: Tác giả liệt kê một loạt các triều đại nước ta,
đặt ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc ⇒ khẳng định vị trí, vị
thế của ta so với Trung Quốc và thế giới
● Thứ năm là anh hùng hào kiệt: Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, hào
kiệt chính là bằng chứng cho linh khí, long mạch của một đất nước. Q
⇒ uan niệm về quốc gia, dân tộc được mở rộng, tiến bộ và sâu sắc.
- Trong quan niệm của Lý Thường Kiệt, ông chỉ nhắc đến 2 phạm trù, đó là
phạm vi lãnh thổ và chủ quyền độc lập. Còn đối với Nguyễn Trãi, một quốc gia
phải được định danh rõ ràng qua nền văn hiến riêng, lãnh thổ riêng, phong tục
riêng, lịch sử triều đại và truyền thống dân tộc. G
⇒ iọng điệu hào hùng, khí thế, khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc.
Luận điểm 3: Lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc 5
● Liệt kê một loạt những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc ta cũng như
những thất bại thảm hại của những kẻ dám xâm phạm nước ta, sử dụng
các động từ mạnh “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết tươi”…
● Qua đó khẳng định sức mạnh dân tộc và là lời cảnh cáo, đe dọa đầy sức
nặng đến những kẻ tham lam có định xâm chiếm nước ta.
Luận điểm 4: Nghệ thuật
● Thể cáo đầy trang trọng, có tính chất tuyên bố đến toàn dân thiên hạ.
● Lập luận chặt chẽ, chứng cứ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
● Giọng điệu linh hoạt, khi thì tự hào, hào sảng, khi thì dứt khoát, hùng hồn
● Sử dụng câu văn biền ngẫu cùng các biện pháp so sánh, đối lập giúp tăng
nhịp điệu, sức thuyết phục C. Kết bài:
● Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Không chỉ thành công ở nghệ thuật văn
chính luận, đoạn trích “Nước Đại Việt ta” còn có giá trị to lớn về nội
dung tư tưởng, mang đậm hào khí dân tộc.
● Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Nước Đại Việt ta được đánh giá là một bản
tuyên ngôn độc lập bất hủ.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 1
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật
toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Nguyễn Trãi đã từng thay
Lê Lợi viết "Bình Ngô đại cáo" – một áng thiên cổ hùng văn tuyên cáo độc lập
dân tộc. Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" thuộc phần đầu của bài cáo, là đoạn trích
có vị trí quan trọng – làm tiền đề cho bài cáo.
Năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay Lê
Lợi viết bài cáo công bố trước toàn dân Bình Ngô đã thắng lợi. Đoạn trích 6
"Nước Đại Việt ta" có ý nghĩa như một lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền độc
lập nêu lên nguyên lý nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền dân tộc thiêng liêng
của dân tộc Đại Việt.
Ở hai câu đầu tác giả đưa ra quan niệm "nhân nghĩa" theo Nho giáo:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Theo Nho giáo, "nhân" là lòng thương người, "nghĩa" là hành động hợp lẽ phải,
biết làm điều thiện. Nhưng cốt lõi tư tưởng "nhân nghĩa" của Nguyễn Trãi là
"yên dân", hành động nhân nghĩa là "trừ bạo". "Yên dân" là làm cho dân được
sống yên ổn, thái bình. "Trừ bạo là diệt thế lực bạo tàn. Trong hoàn cảnh đất
nước lúc bấy giờ, "dân" là con dân nước Đại Việt, "bạo" là quân Minh bạo tàn,
"quân điếu phạt" nghĩa là quân Lam Sơn. Như vậy, với Nguyễn Trãi "nhân
nghĩa" là yêu nước, chống quân xâm lược Nhưng "nhân nghĩa" không chỉ bó
hẹp trong mối quan hệ giữa người với người mà còn là quan hệ giữa dân tộc và
dân tộc. Đây chính là sự phát triển trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
so với nho giáo. Cách mở đề rất cô đong, ngắn gọn như một câu tục ngữ, một
mệnh đề triết học đã nêu bật được ý nghĩa giặc Minh xâm lược nước ta là trái
nhân nghĩa, ta đứng lên chống giặc Minh là thuận nhân nghĩa, ta thắng giặc Minh là tất yếu.
Sau khi nêu nguyên lí nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định về sự tồn tại độc
lập chủ quyền của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập, 7
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nguyễn Trãi đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền: quốc hiệu,
nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử, nhân tài hào kiệt,... Tác giả
đưa yếu tố "văn hiến" lên đầu bởi phong kiến phương Bắc luôn tìm cách phủ
nhận nền văn hiến của ta, từ đó phủ nhận tư cách độc lập của ta. Nhưng dân tộc
ta vẫn giữ vững bản sắc riêng cho dù nền phong kiến có thay đổi, lịch sử có lúc
thăng lúc trầm nhưng văn hiến, phong tục tập quán, nhân tài hào kiệt không bao giờ thay đổi.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn thể hiện niềm tự hào dân tộc qua từ "đế". Phong
kiến phương Bắc chỉ nước ta là một nước chư hầu, chỉ phong vương cho ta
nhưng cách xưng "đế" khẳng định rằng Đại Việt có chủ quyền, ngang hàng với
phương Bắc. Để tăng sức thuyết phục, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mang
tính hiển nhiên, vốn có: "đã lâu, đã chia, cũng khác, cũng có". Như vậy, nước
Đại Việt đã có lịch sử lâu đời và có chiều sâu văn hiến.
Để làm sáng tỏ sức mạnh nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập dân tộc,
Nguyễn Trãi đưa ra những dẫn chứng trong lịch sử: "Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã"
Hai chữ "vậy nên" đã diễn đạt một quan hệ nhân quả: kẻ nào xâm phạm đến
chính nghĩa sẽ chuốc lấy thất bại. Các dẫn chứng được nêu trong trình tự thời
gian, từ Lưu Cung - vua Nam Hán đến Triệu Tiết - tướng nhà Tống đến Toa Đô, 8
Ô Mã Nhi - tướng nhà Nguyên. Cách nêu dẫn chứng linh hoạt, có khi nhấn
mạnh thất bại quân giặc, có khi ca ngợi chiến thắng của ta. Lời khẳng định:
"Việc xưa xem xét / Chứng cứ còn ghi" một lần nữa nhấn mạnh sức mạnh chính
nghĩa là chân lý về độc lập dân tộc không gì thay đổi được.
Bài cáo với lập luận chặt chẽ, kết hợp hài hòa giữa lý trí và tình cảm, lời lẽ và
thực tiễn, giọng văn hùng hồn. Đoạn trích mở đầu bài "Bình Ngô đại cáo" sáng
ngời chính nghĩa được viết bởi trí tuệ sắc sảo của một trái tim yêu nước thương
dân. Đoạn văn đã khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào về lịch sử dân
tộc của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Đoạn văn mở đầu bài "Bình Ngô đại cáo" ngắn gọn, cô đọng, xúc tích, là điểm
tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Đoạn văn vừa là lời nghiêm khắc răn dạy
vừa mang chiều sâu thấm thía tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của đạo làm người.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 2
Lòng yêu nước là một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học
Việt Nam. Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai
thác thể hiện lòng tự hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta có thể kể đến các
tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của
Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,... Và không
thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Trích đoạn sau đây
của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của tác
giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân .... Chứng cớ còn ghi". 9
Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu năm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa
quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt họa đô hộ
cùng những chính sách dã man, những hành động tàn bạo mà giặc Minh gây ra
cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá
trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân
Lam Sơn; những nỗi đau mà dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy
hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi
đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước và giương cao
lòng nhân nghĩa trong nhân gian.
Nếu “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản
tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại
Việt ta” chính là đoạn trích thể hiện rõ nhất nội dung tuyên ngôn ấy. Mở đầu
đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Điều ấy có nghĩa là việc nhân nghĩa trên đời cốt ở việc giữ sự bình yên cho dân
chúng, quân đội binh lính việc trước tiên là lo trừ bạo, trừ giặc cho dân. Hai câu
văn ấy đã khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc “dĩ dân vi bản” đầy tiến bộ.
Trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, tư tưởng nhân nghĩa thường bó
hẹp trong cách hiểu là làm điều thiện giúp đỡ người khác. Như trong “Truyện
Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, việc nhân nghĩa là việc cứu người bị
nạn: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư cứu Lục Vân Tiên... “Dốc
lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. 10
Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng -
nhà vua Lê Lợi, ông đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng,
bản chất của nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống
yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng
bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến. Song trong trích đoạn này,
Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả nhất của quân
đội là “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng ấy chỉ có thể có ở một
bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.
Và cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi có một lòng
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả
bài thơ “thần” đã khẳng định nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh
thổ, đất,đai và bộ máy quyền lực. Nay, Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh
những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
“Nước Đại Việt ta từ trước” đã vốn có nền văn hiến từ lâu. Văn hiến là những
giá trị tinh thần mà con người đã sáng tạo ra, đó là tín ngưỡng, là tư tưởng, là 11
đạo đức... Phải là một dân tộc có bề dày lịch sử, có trí tuệ, có chiều dài phát
triển lâu bền mới xây dựng được cho mình một nền văn hiến riêng biệt. Nói
cách khác, văn hiến là dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ có sự riêng biệt về
nền văn hiến của dân cư, xét về cương vị lãnh thổ nước ta cũng có biên giới
riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu văn này gợi đến cái hồn của câu thơ
“thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách
trời”. Núi sông bờ cõi và cương vực lãnh thổ của đất nước đã được phân chia
rạch ròi trong lịch sử, trong tiềm thức của mỗi người dân hai quốc gia.
Và chính điều tâm niệm thiêng liêng ấy đã tạo nên ý thức xây dựng, bảo tồn,
phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai đất nước: “Phong tục Bắc
Nam cũng khác”. Phong tục tập quán là những thói quen trong đời sống, sinh
hoạt đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. Có thể nói, cùng với
nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán đã cùng góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt
trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự
độc lập về bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:
"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó
khẳng định vị thế ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ
“đế” trong câu thứ hai “mỗi bên xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”.
Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình là “thiên tử” (con trời), họ tự xưng
“đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài cáo này, Nguyễn Trãi đầy 12
tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng là “đế” sánh ngang hàng với vua
chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hề có quan hệ
nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm.
Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước
ta lên trước. Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc:
nó khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả nói riêng và mỗi người Việt Nam nói chung.
Bên cạnh những ông vua hiền và các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta
cũng có những anh tài hào kiệt. Dù rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi
cũng không phóng đại những ưu điểm và không giấu giếm những giai đoạn suy
thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định
của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người
nghe về những yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền
độc lập thiêng liêng ấy mà mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân vì đất
nước và dẫu kẻ thù có mạnh đến đâu cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được
khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ linh thiêng... Bởi vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi” 13
Những dẫn chứng cụ thể của đoạn trích về những thất bại của giặc đanh thép
như một bản cáo trạng. Hàng loạt tên của giặc được liệt kê: Lưu Cung, Triệu
Tiết, Toa Đô, Ô Mã liền theo đó là những địa danh lẫy lừng gắn với thất bại thê
thảm của giặc và cũng là chiến thắng vang dội của ta: cửa Hàm Tử, sông Bạch
Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có nhịp câu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn
và đanh hơn; các câu lại đối nhau rất chặt “Lưu Cung” - "Triệu Tiết", "tham
công” - "thích lớn", "nên thất bại" - "phải tiêu vong", "Cửa Hàm Tử" - "Sông
Bạch Đằng", "bắt sống Toa Đô” - "giết tươi Ô Mã",... Những yếu tố đó khiến
đoạn văn giống như lời cảnh cáo đối với những âm mưu xâm lược của kẻ thù
đồng thời nêu cao niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông.
Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn
lòng yêu nước thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân
đồng thời bày tỏ niềm tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền
thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị,
tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm xúc của mỗi chúng ta về nơi
mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành động lực để
chúng ta phấn đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 3
Nguyễn Trãi tên hiệu ức Trai, Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà
văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong
kiến. Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động: nhà Trần suy vi, Hồ
Quý Ly lập nghiệp chưa được bao lâu thì giặc Minh xâm lược. Cha bị bắt,
Nguyễn Trãi muốn làm tròn đạo hiếu nhưng nghe lời cha dặn đã quay về báo
thù cho nước, rửa nhục cho cha. Bị giam lỏng ở thành Đông Quan, Nguyễn Trãi
bỏ trốn tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi dâng Bình Ngô sách. Từ
đó, Nguyễn Trãi trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi, đưa cuộc kháng chiến
mười năm chống quân Minh giành thắng lợi. Mùa xuân năm 1428, Nguyễn Trãi 14
thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo – một áng Thiên cổ hùng văn tuyên cáo độc
lập dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta thuộc phần đầu của bài cáo, là đoạn
trích có vị trí quan trọng – làm tiền đề cho bài cáo.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như một lời tuyên bố hùng hồn về chủ
quyền độc lập. Hai nội dung chính của đoạn trích là nguyên lý nhân nghĩa và
chân lí về chủ quyền dân tộc thiêng liêng của dân tộc Đại Việt.
Mở đầu đoạn trích, tác giả viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo."
Có thể coi hai câu thơ này là cốt lõi tư tưởng của Nguyễn Trãi nói riêng và của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung.
Nhân là quan niệm đạo đức có từ lâu đời mà ý nghĩa ban đầu của nó chỉ bó hẹp
trong sự tương thân, tương ái giữa người với người. Chữ nhân trong chính sách
cai trị của vua biểu hiện ở khuynh hướng coi trọng dân chúng, lấy dân làm gốc:
Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nhân nghĩa trong đạo lí được mở
rộng thành lòng thương người và những việc tốt đẹp nên làm.
Nguyên lí nhân nghĩa là nền tảng cơ bản để Nguyễn Trãi triển khai nội dung bài
Bình Ngô đại cáo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi biểu hiện cụ thể qua
hành động yên dân, trừ bạo. Yên dân là vỗ về, an ủi, làm cho dân chúng được
hưởng cuộc sống ấm no, thái bình. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, tức là tiêu
diệt mọi thế lực bạo tàn làm khổ dân.
Đặt trong hoàn cảnh lịch sử Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo thì dân mà tác
giả nói tới là người dân Đại Việt phải chịu cảnh đau thương, tang tóc dưới ách
thống trị của quân xâm lược; còn kẻ bạo tàn chính là giặc Minh mà tác giả gọi
một cách khinh bỉ là quân cuồng Minh. 15
Với Nguyễn Trãi việc nhân nghĩa gắn liền với hành động cứu nước, cứu dân.
Nội dung nhân nghĩa không còn bó hẹp trong phạm vi quan hệ giữa người với
người như trong quan niệm của Nho giáo mà nó đã liên quan tới vận mệnh của
dân tộc, giữa mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là sự phát triển cao độ
của tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi.
Sau khi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí bất di
bất dịch về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt trong tám câu tiếp theo:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có."
Tác giả đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền độc lập của dân
tộc Đại Việt. Đó là nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ rõ ràng, phong tục
tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Văn hiến nghĩa là gốc dùng để chỉ sách vở,
chỉ người hiền tài; nghĩa khái quát là nền văn hóa, văn minh của một quốc gia,
dân tộc. Dựa trên những yếu tố này, Nguyễn Trãi đã nêu lên một quan niệm đầy
đủ được người đời sau đánh giá là kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc. Sơ
với thời Lí, học thuyết đó phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của
nó. Quan niệm về quốc gia, dân tộc trong Nam quốc sơn hà được xác định chủ
yếu qua hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Đến Bình Ngô đại cáo, thêm ba yếu 16
tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Ông khẳng định
mạnh mẽ điều mà kẻ xâm lược phương Bắc luôn tìm cách phủ định là nước
Nam không có nền văn hiến.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 4
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo, được
công bố vào đầu năm 1428. Tác phẩm là một bài cáo có ý nghĩa trọng đại của
một bản tuyên ngôn độc lập. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” đã nêu lên một
Tuyên ngôn mang ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, khẳng định nước ta là
một nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ, phong tục, chủ quyền, và kẻ xâm
lược và phản nhân nghĩa, nhất định sẽ phải chuốc lấy thất bại.
Mở đầu đoạn trích, cũng chính là phần mở đầu của bài “Bình Ngô đại cáo”, có
nghĩa nó cũng là nêu tiền đề cho toàn bài. Khi nêu tiền đề, tác giả đã góp phần
khẳng định những chân lí không bao giờ thay đổi: “Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nguyễn Trãi đã nêu lên cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa, đó chính là “cốt ở yên
dân”, nghĩa là dân là trên hết. Cuộc sống của người dân thái bình thịnh trị, no đủ
chính là việc quan trọng nhất. “Nhân nghĩa” vốn được hiểu là khái niệm đạo
đức của Nho giáo, đó chính là đạo lý, là cách ứng xử chuẩn mực, bày tỏ tính
thương yêu giữa con người với con người. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng
này, luôn hướng đến lợi ích của nhân dân, đó là lấy dân làm gốc. Một chí lớn
của kẻ sĩ ở đời, là phải đem lại được cuộc sống yên ổn cho nhân dân, đó là việc
nhân nghĩa nhất. Và xuất phát từ tình yêu với nhân dân, thì đánh kẻ có tội, kẻ 17
gây ra lầm than cho nhân dân sẽ bị đánh dẹp. Kẻ bạo ngược mà tác giả muốn
nói tới ở đây chính là quân Minh xâm lược.
Để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào rất nhiều yếu tố,
đó chính là những dẫn chứng hùng hồn và chặt chẽ nhất:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”
Tác giả đã nêu ra dẫn chứng Nước ta là một nước có nền văn hiến từ rất lâu đời,
“núi sông bờ cõi đã chia/phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là chỉ ra việc
rạch ròi về lãnh thổ giữa Trung Quốc và nước ta. Mỗi nước có lãnh thổ riêng,
cho nên phong tục cũng sẽ khác nhau, có chủ quyền rõ ràng. Nước ta có truyền
thống lịch sử lâu đời, văn hóa mang bản sắc Đại Việt. Tác giả nêu tên các triều
đại trước đây của ta, và song hành cùng đó, ngang hàng với các triều đại phong
kiến phương Bắc, điều đó ám chỉ mỗi nước có lãnh thổ riêng, không ai xâm
phạm đến ai. Tác giả còn nêu lên truyền thống đánh giặc ngoại xâm anh hùng của dân tộc ta”
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Đó chính là niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc ta. Cho nên, tác giả đã nêu lên một khí chất anh hùng của 18
cả dân tộc, cũng như một lời cảnh báo đến quân thù, luôn mang âm mưu thôn tính nước ta: “Vậy nên
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét.
Chứng cớ còn ghi”
Tác giả đã nêu lên các danh tướng của các triều đại Trung Quốc, khi mang quân
sang xâm lược nước ta đều bị đánh bại một cách thảm hại, đơn giản vì đó là
hành động phi nghĩa, trái với Sách trời, cho nên ắt phải chuốc lấy thất bại. Tác
giả đã nêu lên chân lí: kẻ có âm mưu xâm lược nước khác, và đem quân xâm
lược nước khác, chính là kẻ phản nhân nghĩa, chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi chính là ở chỗ kết hợp giữa lí
lẽ và thực tiễn. Qua đoạn trích trên, ta càng thấy được Nguyễn Trãi đã lập luận
một cách chặt chẽ và chứng cứ hùng hồn, nêu lên được hào khí dân tộc, khẳng
định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Đại Việt ta.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 5
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy
lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa
Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó. 19
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè
lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của
dân tộc, khẳng định nền độc lập tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức
của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng
đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực,
có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí
về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân
là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước
hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những
người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc
Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu
nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở
đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bè lũ xâm lược nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia 20
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu
tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử
riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái
niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa
lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin
khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng
ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương
Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang
sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các
triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân
tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta 21
thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền
độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai
phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức
dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý
thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là
nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh
hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện
hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn
đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ
trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh
kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả
đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ
chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên
tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn
khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”
của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước,
thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn
trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng
tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 6
Nguyễn Trãi là một nhà thơ trữ tình, một nhà văn chính luận, một anh hùng dân
tộc và là một danh nhân văn hóa nổi tiếng trên thế giới. Tên tuổi Nguyễn Trãi
gắn liền với cuộc chiến đấu vĩ đại trong công cuộc kháng chiến chống quân
Minh xâm lược ở thế kỉ XV. Sau khi kết thúc thắng lợi, thừa lệnh vua Lê Thái
Tổ, ông đã viết nên bài "Bình Ngô đại cáo" (Tuyên bố rộng rãi về việc dẹp yên 22
giặc Ngô). Tác phẩm không những là văn kiện lịch sử quý giá, tổng kết quá
trình đấu tranh gian khổ của quân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh mà
văn bản còn được coi như một bản Tuyên ngôn độc lập, một "áng thiên cổ hùng
văn" của dân tộc ta. Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" trích trong "Bình Ngô đại
cáo" là một trong những đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, đã cho
thấy sự phát triển vượt bậc về mặt tư tưởng yêu nước của dân tộc ta ở thế kỉ XV.
Tháng 12/1427, giặc Minh thua trận, rút quân về nước. Tháng 1/1428, Nguyễn
Trãi thay vua Lê viết bài "Bình Ngô đại Cáo". Bài thơ được viết theo thể cáo –
một thể văn cổ, có tính chất quan phương hành chính, dành cho vua chúa hoặc
thủ lĩnh viết, nhằm trình bày một chủ trương, công bố kết quả một sự nghiệp
trọng đại cho toàn dân được biết. Về hình thức, Cáo thường được viết theo lối
văn biền ngẫu, có tính chất hùng biện nên lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết
cấu chặt chẽ, logic, mạch lạc. Bố cục bài cáo gồm bốn phần thì đoạn trích
"Nước Đại Việt ta" nằm ở phần đầu có vai trò: nêu luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
Trước hết, hai câu thơ mở đầu nêu cao tư tưởng "nhân nghĩa" gắn liền với tư
tưởng yêu nước chống giặc ngoại xâm: Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
"Nhân nghĩa" vốn là khái niệm đạo đức của Nho giáo, nói về cách ứng xử và
tình thương giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã kế thừa tư
tưởng đó của Nho giáo và phát triển tư tưởng đó theo hướng lấy lợi ích từ việc
đề cao nhân dân, dân tộc làm gốc. Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng
phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui 23
cho nhân dân (yên dân), đó là việc làm "nhân nghĩa". Như vậy, người đọc nhận
thấy, đây là một bước phát triển vượt bậc về mặt nhận thức của Nguyễn Trãi về
đất nước: đất nước gắn liền với nhân dân. Nếu trước đây, khi nhắc tới đất nước
là thường gắn liền với vua chúa, bảo vệ đất nước là bảo vệ sự cai trị của vua
chúa (điều này xuất phát từ quan niệm trung quân ái quốc: Nam quốc sơn hà
nam đế cư) thì nay, Nguyễn Trãi lại có một quan niệm hoàn toàn khác: nước
gắn liền với dân (dân ở đây là những lớp dân đen, con đỏ, thậm chí là những
người khốn cùng trong xã hội, điều này sẽ được Nguyễn Trãi nhắc tới ở đoạn
sau). Cho nên yêu nước phải gắn liền với việc yêu dân, yên dân, làm cho nhân
dân trong nước được yên bình, cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Và để làm được
điều đó thì phải lo trừ bạo ngược, phải đánh giặc, cứu dân, cứu nước: "triết lí
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân. Cái nhân
nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập
của đất nước, hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn Đồng).
Trên cơ sở của lập trường "nhân nghĩa", Nguyễn Trãi đi vào khẳng định độc lập
chủ quyền của dân tộc Đại Việt trên các phương diện rất cụ thể, rõ ràng:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có. 24
Trong bản tuyên ngôn lần thứ nhất của dân tộc ta trong bài thơ thần "Nam quốc
sơn hà", tác giả cũng đã nêu ra những yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền dân
tộc: có hoàng đế riêng, có lãnh thổ riêng, có "sách trời" (thần linh) bảo hộ, công
nhận và có đưa ra lời chân lí khẳng định: quân xâm lược sẽ thất bại nếu cứ cố
tình xâm phạm tới Đại Cồ Việt. Và đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa hai yếu tố
để khẳng định chủ quyền dân tộc: có hoàng đế và có lãnh thổ riêng biệt. Đồng
thời, ông còn bổ sung thêm những yếu tố mới , không dựa vào thần linh (yếu tố
siêu nhiên) như trước nữa mà căn cứ vào những sự thật hoàn toàn có thật để làm
tăng tính khách quan, chân thực, và thuyết phục cho văn bản. Những yếu tố đó
có vai trò quan trọng, khẳng định vị thế vững chắc, tồn tại bất biến với thời
gian, năm tháng: đó là đất nước ta có nền văn hiến lâu đời; có cương vực lãnh
thổ rõ ràng, riêng biệt; có phong tục tập quán, lối sống riêng; có lịch sử gắn liền
với các triều đại phong kiến đã qua; có nhân tài hào kiệt đời nào cũng có. Tất cả
những yếu tố này đều được Nguyễn Trãi đặt sánh ngang tầm với Trung Quốc
(phương Bắc) cho thấy được sự tự tôn dân tộc mạnh mẽ, đồng thời khẳng định
Đại Việt xứng đáng là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, dù bất kì kẻ thù có
lớn mạnh tới bao nhiêu thì khi đem dã tâm xâm lược tới đều sẽ bị chuốc lấy bại
vong. Vì thế, lời thơ không chỉ là lời khẳng định mà còn là lời thề nguyền quyết
tâm sẽ giữ vững nền chủ quyền độc lập dân tộc của nhân dân ta ở thế kỉ XV.
Từ đó, tác giả đi đến những dẫn chứng cụ thể, đầy thuyết phục về sức mạnh của
dân tộc ta đã kinh qua nhiều thử thách và lịch sử đã từng ghi lại bao chiến công
lừng lẫy của cha ông ta: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt,
Ô Mã bị giết. Chúng ta thấy dẫn chứng được đưa ra một cách dồn dập theo hình
thức liệt kê, cho thấy sức thuyết phục càng cao; đồng thời thấy rõ được niềm tự
hào dân tộc sâu sắc của tác giả khi đứng trước những chiến công đó.
Đoạn trích có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập không chỉ bởi nội dung
của bài Cáo mà còn bởi sức thuyết phục của nghệ thuật lập luận chặt chẽ, mạch
lạc, logic; chứng cứ hùng hồn, lí lẽ sắc bén. Hào khí chiến thắng, niềm tự hào 25
dân tộc như căng tràn trong từng câu chữ, những nhịp điệu tiết tấu của âm biền
ngẫu tạo thành một sự cộng hưởng ngân vang, dồn dập, có sức lay động mạnh
mẽ tới tình cảm người đọc... Tất cả đã làm nên sức thành công của đoạn trích và
toàn bộ tác phẩm, xứng đáng với danh hiệu: áng thiên cổ hùng văn, tràn đầy tinh
thần tự hào dân tộc sâu sắc.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 7
Như ta biết, Cáo cùng với Hịch, Chiếu là những văn bản có tính chất công vụ
hành chính từ trên ban truyền hoặc trình bày, giải thích một chủ trương hoặc
công bố một sự kiện. Ở đây, Nguyễn Trãi dùng từ đại cáo vì sự kiện mà bài văn
nói đến là một sự kiện lớn: công cuộc bình Ngô. Đòi hỏi ở một bài cáo nói
riêng, một bài văn nghị luận nói chung phải là sự chặt chẽ đã đành, trong trường
hợp này, tác giả vừa lược thuật chiến tranh vừa bàn luận về chiến tranh. Nó vừa
là lịch sử vừa là tư tưởng. Làm thế nào phối hợp được cái bề nổi và chiều sâu
hàm ẩn ấy, điều này quả không đơn giản chút nào. Hiện diện bằng câu chữ thì
bài văn gồm có bốn phần: chân dung quốc gia Đại Việt; tội ác của quân thù;
cuộc dấy binh thắng lợi; một trang sử mới mở ra, ấy là theo trình tự của loại văn
miêu tả, tự sự thông thường. Dựa vào đó mà phân tích không phải là không có
lí. Nhưng bài văn còn một tầng nghĩa thứ hai là chuyên chở tư tưởng của người
viết. Chính tư tưởng (mạch chìm) của người viết mới tạo ra cho bài văn cái ý
nghĩa kép làm cho câu, chữ toả sáng, lung linh, rung động lòng người từ đó đến
nay, xứng đáng là một "thiên cổ hùng văn" mà người xưa ca ngợi.
Đặt đoạn một của bài văn trong kết cấu chung, vấn đề cần phân tích để rút ra: sự
tồn tại của quốc gia Đại Việt là một chân lí vĩnh hằng. Quốc gia ấy có tư tưởng
riêng, có sức mạnh riêng, nghĩa là những yếu tố tinh thần nằm trong một hệ
thống song hành cùng với các yếu tố vật chất như địa lí, đất đai. Vậy, tư tưởng
riêng ấy là gì? Đừng vội trả lời rằng đó là đạo lí nhân nghĩa, dù câu văn trong
bài cáo là "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Bởi nhân nghĩa vốn là học thuyết 26
của Nho gia nói về quan hộ đối xử giữa con người với con người. Nhưng đến
Nguyễn Trãi, nó được nâng lên, được mở rộng ra trong một quan hệ khác: giữa
các quốc gia, dân tộc với nhau. Cũng như sau này, cách Nguyễn Trãi năm thế
kỉ, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập đã "suy rộng ra" ("Suy rộng ra, câu
ấy có nghĩa là..."). Từ quyền sống của con người cá thể, từ đạo lí mà con người
cá thể ấy nên theo mà "suy rộng ra" như vậy là hợp lí với logic của tư duy, nhất
là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta, một dân tộc vốn là đối tượng
nhòm ngó của bao nhiêu thế lực bên ngoài từ đông sang tây, từ nam đến bắc.
Nhân nghĩa là trái với bạo ngược. Nhân nghĩa là tình thương và lẽ phải hướng
về phía nhân dân. "Trừ bạo" vì "yên dân" là nhân nghĩa, đó là nói chung. Còn
nói riêng, khi đất nước bị xâm lăng, vì thương dân (nhân), vì việc phải, nên làm
(nghĩa), quân đội ấy trở thành "quân điếu phạt". Nhân nghĩa không còn là một
khái niệm khoan dung mà là trừ ác, có trừ ác mới đạt được cái đích yên dân.
Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật hẳn' lên giữa hai khía cạnh tướng như đối
lập mà thống nhất. Hai câu văn như hàm súc một chân lí thiêng liêng, là người
nói mà như là trời nói, nghĩa là cùng một thứ "sách trời" (hai chữ thiên thư trong
Nam quốc sơn hà). Chính sự mở rộng về khái niệm nhân nghĩa này, Nguyễn
Trãi đã đưa được nó vào một khái niệm rộng hơn : nền văn hiến. Đất nước có
chủ quyền không chỉ dựa vào yếu tố lịch sử, đất đai, mà chủ yếu là đất nước ấy
thực sự có một nền văn hiến. Đó là dấu hiệu của một nền văn minh. Nền văn
hoá phi vật thể này chính là sự bổ sung quan trọng cho tinh thần dân tộc. Quốc
gia Đại Việt không chỉ có "Núi sông bờ cõi đã chia" (dùng lại ý trong bài Nam
quốc sơn hà) mà còn có "Phong tục Bắc Nam cũng khác". Cái khác ấy phải
chăng là ở chỗ chúng ta, dân tộc ta đã nâng khái niệm nhân nghĩa thành lẽ sống,
thành đạo lí, thành bản lĩnh, cốt cách riêng của mình. Bức chân dung tinh thần
của quốc gia Đại Việt có phần chìm chính là ở chỗ đó. Và cũng chính là vì lẽ đó
mà Nguyễn Trãi có thể tự hào: một nước nhỏ mà có thể sánh vai, ngang hàng với một nước lớn:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập, 27
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.
So với câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" đời Lí, niềm tự hào, tự tôn đã
nâng lên một bậc, nâng lên bằng một ý thức văn hoá hẳn hoi. Cái linh, cái hồn
vía của "địa linh" đã tạo ra "nhân kiệt" là lẽ đương nhiên như thế. Cách nhìn vào
lịch sử dân tộc bằng cái nhìn như thế là có chiều sâu, đảm bảo được sức sống
trường tồn không gì khuất phục được. Đoạn văn trần thuật, đúng hơn là tự thuật
ấy nếu hiểu sâu xa thì có đến hai lớp nghĩa: giữa các triều đại phương Nam và
phương Bắc không chỉ có sự tồn tại ngang hàng mà còn có lí do để có sự tồn tại
ngang hàng. Muốn tồn tại ngang hàng, quốc gia Đại Việt đã trả bằng máu của
mình, nhưng dù có thế, chúng ta đã "thà hi sinh tất cả" (chữ của Hồ Chí Minh)
để đánh đổi lấy chủ quyền, độc lập, tự do. Còn một điều nữa: nếu tính toán, cân
đong một cách máy móc, bình quân thì lịch sử của mảnh đất phương Nam làm
sao có độ dài tương đương lịch sử vùng đất phương Bắc ? Điều mà Nguyễn Trãi
nói là "bao đời xây nền độc lập", hay "Như nước Đại Việt ta từ trước", hoặc
"Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" thực thì chỉ mấy trăm năm làm sao có thể sánh
vai với lịch sử mấy ngàn năm tính từ thời Xuân thu - Chiến quốc ? Sự thiếu hụt
về độ dài vật lí ấy đã có niềm kiêu hãnh về tâm lí bù vào để cán cân không còn
nghiêng lệch. Nó có đủ độ cân bằng. Đoạn văn không hề có ý định chứng minh
(vì chỉ có mục đích trần thuật) mà có tác dụng như một sự tự phản biện (hỏi và
đáp) một cách hùng hồn, ấy là do âm vang của lòng yêu nước tự thân lên tiếng.
Ấy là tiếng nói tự bên trong, cái ý ở ngoài lời, lặn sâu dưới mặt bằng câu chữ.
Đoạn văn thực sự có mục đích chứng minh bắt đầu từ hai chữ "Vậy nên": Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong...
Nhưng nó chứng minh cho cái gì? Có lẽ cả hai, cả tư tưởng nhân nghĩa, một đạo
lí làm người, ngọn cờ của đội quân "điếu phạt", cả chủ quyền dân tộc dựa trên
tư tưởng ấy, nghĩa là dựa trên nền tảng của một "nền văn hiến đã lâu". Cuộc 28
dụng đầu lịch sử giữa kẻ phi nghĩa, bất nhân với quốc gia Đại Việt là trên tinh
thần ấy. Kẻ thù "thất bại", "tiêu vong" vì động cơ ích kỉ, vì "thích lớn", "tham
công". Dựa vào tướng giỏi, quân đông, không "lấy nhân nghĩa làm gốc", mà chỉ
lấy "trí dũng làm cành", hậu quả ấy không thể nào tránh khỏi. Ở đây vừa có cái
nguyên cớ của sự bại vong, có cả chứng tích của sự bại vong như những hiện
vật trong viện bảo tàng, với kẻ địch là một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa,
tiếng xấu còn ghi, còn với ta, đó là minh chứng cho một lẽ phái hùng hồn mà
dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó (tất nhiên còn là tinh thần xả thân,
ý thức và hành động xả thân - như cách nói của Trần Quốc Tuấn ("Dẫu cho trăm
thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa"). Bạch Đằng,
Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những dấu son chói lọi làm phấn chấn lòng
người bao nhiêu thì cũng những địa danh đó, với kẻ địch, bao nhiêu tham vọng,
danh dự bị vĩnh viễn chôn vùi. Nhưng còn đáng nói thêm : lời tiên tri (hai câu
đầu bài cáo) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo (nhân nào quả ấy) tức thời. Cái
chết của Ô Mã, của Toa Đô với chúng là đột ngột, bất ngờ, không sao hiểu nổi.
Ngược lại cái chết "bất đắc kì tử" ấy, chỉ chúng ta hiểu: điều gì xảy ra tất phải
xảy ra theo luật định, mệnh trời.
Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đại cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa,
là nền móng lí luận cho toàn bài. Nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kẻ
dẫn đường từ nơi xuất phát. Đoạn vãn ấy có sức khái quát rất cao: biến những gì
đã xảy ra thành những quy luật vận hành. Người thắng kẻ thua là do nghĩ và làm
thuận chiều hay ngược chiều với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu "Việc xưa
xem xét - Chứng cớ còn ghi", Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của mình thành
lời của người chép sử, biến cái chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng
cá biệt thành quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người hãy soi mình
vào đó. Bể nổi của lời văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thía
một đạo lí, một tư tưởng, một lẽ phải làm người: nhân nghĩa.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 8 29
Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, không chỉ có tài quân sự mà ông
còn là một nhà thơ, nhà văn lớn. Ông để lại sáng tác đồ sộ trên cả hai mảng sáng
tác chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm thơ cũng như văn chính luận của ông
đều đạt đến độ xuất sắc. Trong sự nghiệp văn học đồ sộ của Nguyễn Trãi ta
không thể không nhắc đến Bình ngô đại cáo. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là
phần đầu của bài cáo này, đã phần nào cho thấy tài năng của Ức Trai.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đã dẹp yên giặc Minh.
Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi, soạn bài đại cáo tổng kết hành trình mười lăm
năm chống Minh xâm lược đầy gian khổ mà hào hùng của nhân dân ta. Tác
phẩm là áng thiên cổ hùng văn, là bản anh hùng ca hào sảng của cả dân tộc,
khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến và mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta nằm ở phần đầu của bài cáo, nên
lên luận đề nhân nghĩa đồng thời khẳng định chủ quyền vốn có của dân tộc Đại
Việt. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nên lên luận đề nhân nghĩa, đây chính là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ văn bản:
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chính là làm cho nhân dân có cuộc sống được
yên ổn, hạnh phúc, và để làm được điều đó cần phải diệt giặc tàn bạo. Trong bối
cảnh nước ta lúc bấy giờ, trừ bạo ở đây chính là đánh tan quân Minh. Hai mặt
này gắn bó chặt chẽ, khăng khít với nhau, không trừ được bạo ngược chắc chắn
sẽ không thể đem đến cuộc sống yên ổn cho nhân dân. Đây chính là nguyên lí
cơ bản, làm cơ sở để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ luận đề phía sau. Sau khi
nêu lên luận đề nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng, chân lí về
sự tồn tại độc lập của dân tộc ta:
Như nước Đại Việt ta từ trước 30
Vốn xưng nên văn hiến đã lâu ….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Các yếu tố được Nguyễn Trãi đưa ra để khẳng định chủ quyền dân tộc hết sức
đa dạng và có chiều sâu. Nếu như ở bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên Nam quốc
sơn hà, mới chỉ dừng lại khẳng định trên hai phương diện là chủ quyền và lãnh
thổ, thì đến đây Nguyễn Trãi đã đưa thêm các yêu tố khác: phong tục, tập quán,
lịch sử và chế độ riêng. Những yếu tố được bổ sung thuộc về chiều sâu văn hóa
mà phải mất hàng nghìn năm bồi đắp và sang lọc mới có được. Với những yếu
tố đó, Nguyễn Trãi đã hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là một
bước chuyển mình lớn, sâu sắc hơn so với bản tuyên ngôn trước đó. Qua đây, ta
thấy được nhận thức sâu sắc, đúng đắn của Nguyễn Trãi đối với vấn đề chủ quyền của nước nhà.
Trong đoạn thơ trên, bản tuyên ngôn có sức thuyết phục rất lớn đối với người
đọc khi Nguyễn Trãi đã sử dụng linh hoạt các từ ngữ mang tính chất hiển nhiên,
sẵn có: từ nghe, vốn xưng, đã lâu, đã chia,… để khẳng định sự tồn tại độc lập
của đất nước. Ông còn sư dụng linh hoạt biện pháp so sánh, so sánh các triều
đại của ta với các triều đại Trung Quốc. Ngoài ra còn kết hợp với giọng văn
đanh thép, dõng dạc càng khẳng định hơn nữa ý thức về độc lập, chủ quyền của
dân tộc. Đoạn thơ cuối nêu lên sự thất bại thảm hại của kẻ thù khi sang xâm
lược nước ta. Đó là Lưu Công, Triệt Tiết,… những kẻ nghịch lỗ, lai xâm phạm
Đại Việt đều phải chịu kết cục hết sức bi thảm. Hai câu thơ cuối ngắn gọn, súc
tích nhưng lại có sức nặng lơn, một lần nữa khẳng định chân lí tồn tại độc lập của dân tộc ta. 31
Với trình tự lập luận chặt chẽ, giọng văn đanh thép, sắc sảo, Nước Đại Việt ta
xứng đáng là áng văn chính luận, bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc. Đằng sau
giọng văn hùng hồn, dẫn chứng chân thực là một lòng yêu nước nồng nàn, lòng
tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 9
Nhắc đến văn học trung đại nước nhà không thế không nhắc tới đại thi hào
Nguyễn Trãi. Ông sinh năm 1830 tại Hải Dương, là một người năng lực chính
trị tài ba, lỗi lạc và một tác giả lớn của văn học dân tộc. Ông có nhiều tác phẩm
nổi tiếng cả về chữ Hán và chữ Nôm có thể kể đến như "Ức trai thi tập", "Quốc
âm thi tập". Tác phẩm "Bình ngô đại cáo" được viết bằng chữ Hán và được xem
là áng văn mẫu mực nhất về ý chí quật cường và tinh thần yêu nước lớn lao
cùng lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Đoạn trích " Nước Đại Việt ta " đã thể hiện rõ điều đó.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
"Việc nhân nghĩa" là những việc vì con người, cách đối xử giữa người với
người, hành động theo chính nghĩa. "Yên dân" là mang đến sự yên ổn, thái bình
cho nhân dân, để dân không phải lo lắng về giặc xâm lược. Tác giả đã mở rộng
tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng thân dân, đó là lý tưởng lấy nhân dân làm trọng,
coi dân yên là điều cốt yếu. Dân là gốc là điều cốt yếu của một dân tộc, dân yên
thì đất nước mới thịnh. Muốn dân yên trước tiên phải lo trừ bọn ngoại xâm, bạo
ngược, đó là lẽ tất yếu. Không một quốc gia nào có thể sống an yên trên sự hống
hách, bóc lột bạo tàn của kẻ thù, đặc biệt là giặc Minh.
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu 32
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ triệu Đinh Lý Trần
Bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên
mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước ta. Dân tộc
Đại Việt vốn có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng với bao phong tục,
truyền thống tốt đẹp. Không chỉ vậy, nước Đại Việt còn trải qua lịch sử lâu bền
qua bao thời kỳ dựng nước và đấu tranh giữ nước. Đặt các Triều đại của nước
nhà sánh ngang với các triều đại nhà phương Bắc như một lần nữa khẳng định
sức mạnh và chủ quyền của quốc gia đại Việt. Một yếu tố không thể thiếu của
một đất nước thịnh trị, vững bền đó là hào kiệt, nhân tài, vai trò quan trọng của
nhân dân, của những cơn người yêu nước, đấu tranh hết mình vì dân tộc.
Bằng ý thức và lòng tự tôn dân tộc, Nguyễn Trãi đã minh chứng hùng hồn
phương Nam vốn dĩ là lãnh thổ độc lập, không ai có quyền xâm phạm. Những
kẻ đạo tặc "trời không dùng, đất không tha" chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại bởi
những việc làm phi nghĩa của chúng.
"Vậy: Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô 33
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã"
Thất bại của quân thù là điều tất yếu. Nước Nam bằng sức mạnh đoàn kết của
nhân dân, bằng tinh thần anh dũng quật cường và nêu cao chính nghĩa đã giành
lấy thắng lợi. Những trang lịch sử chói lọi ghi những địa danh diễn ra chiến trận
khiến bao kẻ bị thất bại, bắt sống, tiêu vong. Những cửa Hàm Tử, sông Bạch
Bằng trở thành nhân chứng hùng hồn cho chiến thắng của nhân dân ta được sử sách lưu danh muôn đời. "Việc xưa xem xét Chứng cứ còn ghi"
Nước Đại Việt ta" như bản hoan ca về đất nước, con người phương Nam. Lòng
tự hào về truyền thống dân tộc cùng ngòi bút tài năng đã giúp Nguyễn Trãi viết
nên những vần thơ sắc bén và lập luận chính xác, thuyết phục như thế. Qua
đoạn trích, em thêm tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc mình, quyết tâm
học tập để xứng đáng với sự hi sinh của cha ông cho hoà bình hôm nay.
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 10
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô
đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với
tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết
thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu
thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo
đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung
tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng,
gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới
ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình 34
Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản
tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự
chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối
năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi. Mở đầu bài
Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau
đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có. 35
Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước
Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định
một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam.
Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và
sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được
tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả
một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân
vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay.
Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và
nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở
hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy
được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại
Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có
núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc
lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ là một dân tộc có độc lập
và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một
nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. 36
Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ
lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa
dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý
chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm
trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi,
tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ
và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc được ánh sáng tư
tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì: Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa
khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn
Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá
trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha
anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với
hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình
muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí
phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn
còn ngời sáng đến muôn đời. 37
Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 11
“Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm ra đời sau chiến thắng chống quân xâm lược
nhà Minh của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo như một lời tuyên bố sự
chiến thắng của dân tộc Việt, khẳng định nền độc lập tự do của đất nước. Đồng
thời thể hiện thái độ nghiêm khắc, cảnh tỉnh quân địch đối với âm mưu xâm lược nước ta.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta là đoạn mở đầu của bài cáo, tuy chỉ có vài câu
tương đối ngắn gọn nhưng đoạn trích đã thể hiện rõ nét những vấn đề cơ bản
nhất của bài cáo. Khẳng định quan điểm, ý nghĩa của toàn bộ bài cáo. Đó là
chân lý về độc lập tự do và chủ quyền dân tộc của nước Đại Việt thời bấy giờ.
Mở đầu văn bản là hai câu thơ vừa nhân nghĩa lại vừa mang ý khẳng định nghĩa vụ của quân vương:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai từ “yên dân” và
“trừ bạo”. Nhân nghĩa ở đây là yêu dân, nếu yêu dân phải khiến dân được hạnh
phúc, hưởng thái bình. Muốn yên dân thì trước hết bậc quân vương phải trừ bạo.
“Dân” ở đây chính là những người lao động, người dân của nước Đại Việt đang
sống trong cảnh lầm than dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh. Như vậy,
phân tích Nước Đại Việt ta để thấy, nhân nghĩa mà tác giả nhắc đến chính là
lòng yêu nước, yêu quốc gia, yêu dân tộc. Kẻ tàn bạo là tất cả những kẻ xâm
lược nói chung và giặc Minh nói riêng ở thời bấy giờ.
Tiếp nối đoạn trích là những câu văn chất chứa niềm tự hào sâu sắc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước 38
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã đưa các yếu tố: Đại Việt có nền văn hiến đã lâu, lãnh thổ đã
được phân định rõ ràng, có lịch sử hình thành riêng, có phong tục tập quán, có
lãnh đạo riêng ( Triệu, Đinh, Lý, Trần,.. bao đời xây nền độc lập) để khẳng định
chủ quyền của nước ta. Từ đó ta có thể thấy được một khái niệm đầy đủ về quốc gia, dân tộc.
Sự khẳng định chủ quyền này đầy sức thuyết phục vì Nguyễn Trãi đã kết hợp vô
cùng hoàn hảo giữa lý lẽ và thực tiễn. Đây là sự thật hiển nhiên ! Vì Đại Việt
thật sự đã có một nền văn hiến lâu đời và ai trong chúng ta cũng nên tự hào về
điều này. Lịch sử là không thể xóa bỏ mà phải công nhận vì thực tế:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Ngoài khẳng định về lịch sử, Nguyễn Trãi còn khẳng định nhân dân ta có chủ
quyền, mỗi miền Bắc – Nam đều có phong tục tập quán riêng. Nền độc lập của
Đại Việt vô cùng vững vàng, được xây dựng bằng những trang sử hào hùng của ông cha thời trước. 39
Nếu phương bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh,
Lý, Trần, bao đời hùng cứ từng bên, không tranh giành nhau:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Phân tích Nước Đại Việt ta để thấy so với “Sông núi nước Nam” – Bản tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Đoạn trích vừa kế thừa, vừa phát huy và hoàn
thiện với nhiều lý lẽ lập luận mới chắc chắn, chi tiết hơn. Ở “Sông núi nước
Nam”, độc lập dân tộc được khẳng định bằng ranh giới lãnh thổ và chủ quyền
nước Nam. Còn Nước Đại Việt ta cũng khẳng định độc lập bằng 2 yếu tố này
nhưng lại bổ sung nhiều hơn, phát triển sâu sắc và toàn diện hơn. Những yếu tố
bổ sung có thể thấy rõ trong bài cáo là: nên văn hiến lâu đời, truyền thống lịch
sử vẻ vang, phong tục tập quán khác biệt hoàn toàn so với phương Bắc. Có thể
nói bản tuyên ngôn độc lập thế kỉ XV đã toàn diện và sâu sắc hơn rất nhiều bản tuyên ngôn trước đó.
Về mặt từ ngữ diễn đạt, trong đoạn trích Nước Đại Việt ta, Nguyễn Trãi sử
dụng nhiều từ ngữ mang tính chất khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, tồn tại lâu
đời của Đại Việt đó là: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,…Tác giả
sử dụng biện pháp so sánh giữa hai nước phương Nam và phương Bắc, đạt
Trung Hoa ngang hàng với Đại Việt về các phương diện văn hóa chính
trị,..Những khẳng định của tác giả được củng cố một cách chắc chắn, rõ ràng
thông qua việc sử dụng các câu văn biền ngẫu, chúng chạy song song và tiếp nối
với nhau thành một mạch hoàn chỉnh. Từ đó tạo nên một bản tuyên ngôn độc
lập thứ 2 hùng hồn và đanh thép của lịch sử nước nhà.
Phân tích Nước Đại Việt ta, để thấy đoạn trích tuy là phần mở đầu của “Bình
Ngô đại cáo” nhưng Nguyễn Trãi đã bao hàm được toàn bộ những ý tứ, nội
dung của toàn bài cáo. Đoạn trích khẳng định lòng yêu thương, thương dân của
những bậc lãnh đạo trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Song song với đó là sự 40
khẳng định vị thế, chủ quyền của Đại Việt qua nhiều phương diện, thể hiện lòng
yêu nước, tự hào dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi. 41
Document Outline

  • Phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi
  • Sơ đồ tư duy Nước Đại Việt ta
  • Dàn ý phân tích bài thơ Nước Đại Việt ta
    • Dàn ý 1
    • Dàn ý 2
    • Dàn ý 3
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 1
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 2
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 3
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 4
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 5
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 6
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 7
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 8
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 9
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 10
  • Phân tích Nước Đại Việt ta - Mẫu 11