Văn mẫu lớp 8: Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô Ngữ Văn 8 | Cánh diều

Văn mẫu lớp 8: Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô Ngữ Văn 8 | Cánh diều. Tài liệu được biên soạn và tổng hợp các kiến thức chọn lọc hay nhất giúp cho các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

Dàn ý phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích.
II. Thân bài:
a. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong mục đích của việc dời đô:
- "chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho
con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay
đổi".
Đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai,
hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây dựng một
đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng thái bình,
thịnh trị.
- Việc dời đô không phải là ý muốn của riêng cá nhân Lý Thái Tổ, mà đó là một
quyết định tuân theo tưởng "mệnh trời", dưới lại thuận theo ý kiến của dân,
đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
- Để củng cố và bổ sung cho mục đích và ý nghĩa chính đáng của việc dời đô về
Đại La:
+ Tác giả đã chỉ ra trong quá khứ, nhà Thương đã đến 5 lần dời đô, nhà Chu
cũng có đến 3 lần => Vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh.
+ Chê trách hai nhà Đinh, Lê khi "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời",
không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi,
trăm họ phải hao tốn".
1
=> Chứng minh được rằng việc dời đô hoàn toàn hợp lý, cần thiết nhất trong
giai đoạn này.
b. tưởng yêu nước thể hiện việc Công Uẩn đưa ra những lợi thế
của thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ:
- Bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải
thiện vận mệnh đất nước và dân tộc.
- Vị trí địa "thuộc vào nơi trung tâm trời đất", "địa thế rộng bằng, đất đai
cao lại thoáng" thể giúp nhân dân an lạc nghiệp tránh khỏi những nạn
thiên tai lũ lụt.
- Lịch sử "vốn là kinh đô cũ của Cao Vương".
- Phong thủy: thế đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông
tây, lại tiện hướng nhìn sông tựa núi", mà với quan niệm của người xưa thì với
thế đất ấy Đại La thật xứng đáng nơi của bậc vương giả, "kinh đô của đế
vương muôn đời".
- Thái Tổ cũng bộc lsự anh minh, sáng suốt tấm lòng yêu nước thương
dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham khảo, hỏi ý thần dân
rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế
nào?".
=> Sự kết hợp chặt chẽ giữa tình làm cho bản chiếu dễ đi vào lòng người,
đem đến hiệu quả thuyết phục mạnh mẽ và sự đồng thuận của dân chúng.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 1
2
Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Công Uẩn
một vị trí quan trọng. áng văn khởi đầu cho nền văn học thời - Trần.
Hơn nữa, áng văn đầu tiên thể hiện khát vọng về một đất nước độc lập,
thống nhất, hùng cường khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn
mạnh.
Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải
hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như
hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn
rã của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại
cáo. Đây hoàn cảnh đất nước đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mong
manh, nguy giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải hết. Đây thời điểm
dân tộc ta đã giành được chủ quyền, núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các
triều đại Đinh- Tiền nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong.
Nhà thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ
Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha
ông đã giành được? làm thế nào để phát triển đất nước ngày càng hùng cường?
Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ (Lí Công Uẩn),
và bài Chiếu đã ra đời.
Hơn ai hết, Công Uẩn hiểu do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời
đô. Trong lịch sử nhân loại, đã không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa
lạ, chỉ riêng một quốc gia cận kề với Đại Việt Trung Hoa, chỉ hai triều đại
thôi cũng đã tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương đến vua Bàn
Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc
dời đô của các vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu những việc làm tùy
tiện, theo ý riêng của mình. Đó những việc làm suy tính đến sự thiệt hơn,
đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, tắc, đến hạnh phúc lâu dài của
trăm họ, muôn dân. Thật một việc làm trên theo mệnh trời,ới theo ý dân,
đáng là tấm gương để đời sau noi theo. Từ bài học của các đế vương Trung Hoa,
3
đi sâu vào thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy bức xúc, trăn trở: Kinh Đô
của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng
đâu phải nơi thuận tiện cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước thể
lâu dài, phong tục thể phồn vinh như các triều đại Thương, Chu bên Trung
Quốc? thực tế số vận của hai nhà Đinh, không được lâu bền, số vận
ngắn ngủi trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi chẳng
phải điều đang diễn ra đó sao? Không chỉ bức xúc, trăn trở, nhà vua còn cảm
thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm chân thành của ông khát vọng về đất
nước độc lập, thống nhất, hùng cường.
Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời. Bắt nguồn từ
một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông
rộng của một bậc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc
ta một địa danh tưởng để định đô lâu dài. Đó thành Đại La (Hà Nội ngày
nay). Nhà vua chỉ rõ các bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những
lợi thế cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt
có được. Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng
cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa
núi. Địa thế rộng bằng, đất đai cao thoáng. Dân khỏi phải chịu cảnh
khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Thứ hai, về
chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Đóng đô một nơi như thế hỏi làm sao
vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được
thích nghi? Chắc chắn vận nước sẽ được lâu dài, phong tục sẽ được phồn
vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi còn
mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp.
Khát vọng của Thái Tổ cũng khát vọng của những người dân Đại Việt lúc
ấy cả sau này. Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một
đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường của cả dân tộc nên nó được mọi người
4
nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời tồn tại vĩnh viễn. Chiếu
dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, còn thể hiện được khí phách
của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức
để đối phó với nạn ngoại xâm nếu định đô đồng bằng, nên hai nhà Đinh,
phải chọn Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương
triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa lớn mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họ
phải hao tổn lẽ đương nhiên. Nhưng nay, nhà sự kế tục sự nghiệp của
các triều đại cha anh,có thế đã lớn mạnh hơn. Nhưng lớn mạnh hơn hay
chưa thực sự lớn mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ cũng đã
khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững
tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương đầu tiên của nhà Lí cũng
là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà lớn mạnh.
Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta
càng thấy thấm thía sự sáng suốt quyết định đúng đắn của một bậc đế vương
hào kiệt, càng thêm biết ơn ông đã đặt nền móng cho sự bền vững, hưng thịnh
lâu dài của đất nước, càng thêm cảm phục và quý mến ông.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 2
Trong Chiếu dời đô, Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa
về Đại La để đóng đô nơi “trung tâm trời đất,mưu toan nghiệp lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như
vậy, tưởng yêu nước đã được thể hiện việc gắn liền sự bền vững của một
triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất
đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật
không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất ớc đem lại hạnh
phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô trung tâm về văn hoá , chính trị của
một đấtớc . Nhìn vào thủ đô nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ
đô có ý nghĩa rất lớn . Dường như lịch sử của các nước nền văn minh lâu đời
5
đều các cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời một thử thách của cả dân tộc.
Đó phải là quyết định của người đầu óc ưu tú nhất thời đại . thể nói, với
trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về
lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát
triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận
tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội t trọng
yếu của bốn phương đất nước,cũng nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn
đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất
nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó thống nhất giang sơn về một mối.
Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ
“kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài
tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác gitiếng nói của nhân dân, của thời đại
khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự
cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh .
Tiếp theo triều đại nhà rất vẻ vang với sự khởi thuỷ vị vua anh minh
Thái Tổ ,ớc Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình thời
đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời
này đều ghi tên mình vào sử sách . Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ”
một dụ . Đọc “Hịch Tướng Sĩ” -một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như
được nghe tiếng nói của cha ông , của non nước . nồng nàn một tinh thần
yêu nước ,nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc , một ý chí quyết chiến
quyết thắng quân thù không chỉ của riêng Trần Quốc Tuấn kết tụ trong
đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai họa đang đến gần: quân
Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy chưa từng thấy
hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới ngựa của 50
vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng một lòng , chuẩn
bị đương đầu với cuộc chiến sống còn . Những lời lẽ đanh thép chan chứa
tình cảm , những lẽ sắc bén đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần
trách nhiệm ý thức dân tộc các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất
6
nước, chỉ ra cho tướng thấy tội ác của bọn sứ giặc, những việc cần làm để
chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn
bút, thống thiết sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống
máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính nỗi đau
của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, tinh thần của một
thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng của cả dân tộc Đại Việt
anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ hành động sai trái của
tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao
cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên”. Đó xác định duy nhất một
con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 3
Công Uẩn sinh năm 974, quê Từ Sơn(Bắc Ninh). người chí lớn lại
khoan từ nhân thứ(lời Vạn Hạnh), nên sau khi Long Đĩnh mất, vua kế vị
còn nhỏ không thể đảm đương trọng trách gánh vác giang sơn tắc, ông đã
được các vị đại thần trong triều tôn lên ngôi hoàng đế.
Vốn thông minh bẩm sinh lại nhập thân văn hóa một vùng đất văn minh, văn
hiến, là con nuôi của các vị cao tăng xuất chúng, Công Uẩn thực sự người
con ưu của dân tộc. Ông đã cùng triều làm rạng danh nước Đại Việt, viết
nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.
Lý Công Uẩn(tức Lý Thái Tổ) khởi đầu sự nghiệp trị vì đất nước của mình bằng
việc dời đô từ Hoa về Đại La. Việc dời đô vốn một sự kiện quan trọng
việc dời đô của Thái Tổ càng in đậm dấu ấn trong lịch sử mở ra một
giai đoạn phát triển phồn vinh của đất nước, hơn nữa nó lại gắn với một áng văn
chương bất hủ: Chiếu dời đô.
7
Tiếp xúc với áng văn chương kiệt tác này, không những ta được sống trong hào
khí của một khát vọng cao cả một khí phách anh hùng, còn được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của ánh sáng nhân văn.
Để hiểu giá trị nhân văn cao đẹp của bài Chiếu, ta cần suy ngẫm kỹ xem
sao Thái Tổ quyết định rời đô? Việc dời đô của ông xuất phát từ những ý
nguyện và quyền lợi của ai và nhằm mục đích gì?
Vậy mà vì sao mà Lý Thái Tổ quyết định dời đô?
Khi Lý Công Uẩn được suy tôn lên ngôi hoàng đế, triều đình vẫn còn đang đóng
đô Hoa Lư. Kinh đô Hoa nằm một vùng đất hẹp(thuộc tỉnh Ninh Bình
ngày nay), Địa thế hiểm trở chỉ tiện cho việc chống giữ không dễ bề phát
triển. Với trí tuệ nhạy cảm, Lý Thái Tổ cảm nhận một cách sâu sắc thấm thía
những cái bất lợi của việc đóng đô ở đây.
Nhìn lại hai triều trước, nhà Đinh chỉ tồn tại 12 năm(968-980), nhà chỉ
tồn tại có 29 năm(980-1009). Số vận của họ mới ngắn ngủi làm sao! Số vận của
một vương triều, đâu chỉ vấn đề riêng của một dòng họ, quan hệ mật
thiết tới sự suy thịnh, tồn vong của một quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, nó còn quan
hệ mật thiết với phận của trăm dân, muôn họ. Triều đình suy thì trăm họ cũng
phải hao tổn. Điều đó khiến Thái Tổ cùng đau xót: Trẫm rất đau xót về
việc đó.
Nỗi lòng tình cảm của hoàng đế Thái Tổ chính tình cảm yêu nước thương
dân tha thiết, sâu nặng của ông. Tấm lòng ấy khiến ông đi đến một quyết định
đúng đắn và dứt khoát: dời đô!
Như vậy, do dời đô của Thái Tổ xuất phát từ sự lo lắng cho sự an nguy,
tồn vong, suy thịnh của giang sơn tắc, lo lắng cho số phận hạnh phúc của
nhân dân. Tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân, chẳng phải biểu hiện của
tư tưởng nhân văn đó sao?
8
Với một trí tuệ hiếm tầm nhìn khác thường, hoàng đế Thái Tổ thấy lợi
thế to lớn của thành Đại La. Đó là một vùng đất vừa thuận lợi về mặt địa để
có thể phát triển kinh tế giàu mạnh khiến cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc:
huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất,
được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng bằng, đất đai cao thoáng. Dân khỏi
phải chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.
Đồng thời cũng nơi thuận tiện cho việc xây dựng phát triển chính trị, văn
hóa: Thật chốn hội tụ của bốn phương đất nước, cũng nơi kinh đô bậc nhất
của đế vương muôn đời.
Mục đích dời đô của Thái Tổ không chỉ quyền lợi của dòng họ mình, cao
hơn nữa quyền lợi của quốc gia, dân tộc, nhân dân. Mục đích đó thật cao đẹp
và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc!
thể nói, Chiếu dời đô đã phản ánh được khát vọng của nhân dân ta về một
đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường. chính khát vọng ấy làm cho bài
Chiếu thấm đẫm tinh thần tinh thần nhân văn cao cả. Để tận hôm nay, ánh sáng
nhân văn trong bài Chiếu vẫn tỏa sáng.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 4
Công Uẩn (974-1028), một vị vua anh minh, lỗi lạc nhiều công lao
trong việc xây dựng một Đại Việt hùng mạnh, độc lập tự cường, với tấm lòng
yêu nước thương dân sâu sắc, đặc biệt tầm nhìn xa trông rộng của một đấng
minh quân trong việc ra các quyết định quan trọng quyết định vận mệnh dân
tộc, đất nước. Một trong số những dấu ấn lớn nhất trong suốt những năm tháng
trị vì của Lý Thái Tổ ấy là sự kiện dời đô từ Hoa Lư về Đại La năm 1010, khẳng
định ý chí sức mạnh tự cường của dân tộc sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
Sự kiện này được ghi lại trong một tác phẩm rất nổi tiếng ấy Thiên đô chiếu
9
(Chiếu dời đô), không chỉ đơn thuần là sự ban hành mệnh lệnh từ một vị vua mà
còn đan xen những yếu tố tâm tình , vừa đơn thoại cũng lại đối thoại, trao
đổi. Bên cạnh nội dung ban bố một mệnh lệnh quan trọng thì những lập luận,
dẫn chứng thuyết phục sắc bén trong bản chiếu này cũng thể hiện một
tưởng rất rõ ràng ấy chính là tinh thần yêu nước sâu sắc.
Trước hết tưởng yêu nước được thể hiện trong cách tác giả đưa ra do
phải dời đô từ Hoa Lư về Đại La ấy "chỉ muốn đóng đô trung tâm, mưu
toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo
ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi". Như vậy mục đích chính của việc dời
đô chính là để đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong
tương lai, hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây
dựng một đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng
thái bình, thịnh trị. Thêm vào đó việc dời đô không phải ý muốn của riêng
nhân Lý Thái Tổ, mà đómột quyết định tuân theo tưởng "mệnh trời", dưới
lại thuận theo ý kiến của dân, dân chúng đồng lòng thì mới thực hiện, tức
vẫn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. thể nói rằng tưởng yêu nước,
thương dân đã thể hiện một cách ràng trong phần mục đích của việc dời đô.
Bên cạnh đó, để củng cố bổ sung cho mục đích ý nghĩa chính đáng của
việc dời đô về Đại La, Lý Thái Tổ đã tinh tế dẫn ra những bằng chứng xác thực
từ trong lịch sự của Trung Hoa - quốc gia ảnh hưởng nhiều đến Đại Việt
cả những dẫn chứng từ trên chính lịch sử nước nhà. Tác giđã chỉ ra trong quá
khứ, nhà Thương đã đến 5 lần dời đô, nhà Chu cũng đến 3 lần, sau
những lần dời dời đô ấy vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh. Trái
lại Thái Tổ cũng ý chê trách hai nhà Đinh, khi "theo ý riêng mình,
khinh thường mệnh trời", không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được
lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". bài học trước mắt từ các
triều đại cũ, khiến Lý Công Uẩn nhanh chóng nhận thức được cần thiết của việc
dời đô, để tránh xảy ra những cớ sự đau xót, khi triều đại kém phát triển, liên
tục gặp phải tai ương, nhân dân khốn đốn. Nhìn nhận từ việc Công Uẩn dẫn
10
chứng từ những triều đại của Trung Hoa, cùng với lịch sử hai triều đại Đinh,
kết hợp với tưởng mệnh trời, đã chứng minh được rằng việc dời đô hoàn
toàn hợp lý, cần thiết nhất trong giai đoạn này, khi đất nước đã ổn định, không
còn thù trong giặc ngoài, thì việc kiến thiết xây dựng đất nước cần một kinh
đô trung tâm, hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước.
Tư tưởng yêu nước không chỉ được thể hiện ở mục đích chính đáng của việc dời
đô về Đại La, còn thể hiện việc Công Uẩn đưa ra những lợi thế của
thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ. Điều đó bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu
nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải thiện vận mệnh đất nước dân
tộc, mong cho nhân dân có được cuộc sống sung túc, phồn thịnh. Ông đã nghiên
cứu và tìm hiểu rất kỹ về kinh đô mới, khi lần lượt đưa ra các lợi thế nổi bật của
thành Đại La về nhiều phương diện. Về vị trí địa lý "thuộc vào nơi trung tâm
trời đất" chỗ tập trung nhân mạch giao thương buôn bán, thuận lợi cho việc di
chuyển, thêm vào đó "địa thế rộng bằng, đất đai cao lại thoáng" thể giúp
nhân dân an lạc nghiệp tránh khỏi những nạn thiên tai lụt. Về mặt lịch sử
"vốn kinh đô của Cao Vương", Cao Vương xưa vốn một viên quan của
Trung Quốc nhận mệnh sang nước ta cai trị vùng đất Giao Chỉ đã chọn Đại La
làm chỗ đặt sở cai trị, chứng tỏ một điều rằng Đại La một vùng đất
nhiều thuận lợi. Xét về phương diện phong thủy thì nơi đây lại được cái thế
đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng
nhìn sông tựa núi", với quan niệm của người xưa thì với thế đất ấy Đại La
thật xứng đáng là nơi ở của bậc vương giả, là "kinh đô của đế vương muôn đời".
Đặc biệt sau khi đưa ra những lẽ khẳng định sự phù hợp của Đại La với vai
trò một kinh đô mới, Thái Tổ cũng bộc lộ sự anh minh, sáng suốt tấm
lòng yêu nước thương dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham
khảo, hỏi ý thần dân rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở.
Các khanh nghĩ thế nào?". thể thấy rằng, bản chiếu để ban hành một
mệnh lệnh tính chất bắt buộc, quyết định lời nói của đế vương, thế nhưng
11
trong Chiếu dời đô của Công Uẩn, tác giả còn đan xen thêm cả những câu
văn bộc lộ cảm xúc, lời tâm tình rất đỗi chân thành, dễ đi vào lòng người, đem
đến hiệu quả thuyết phục mạnh mẽ và sự đồng thuận của dân chúng.
Tổng kết lại, tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô của Công Uẩn bao gồm
mấy phương diện chính sau đây: Thứ nhất ý chí khát vọng mạnh mẽ của dân
tộc Đại Việt trong việc xây dựng một đất nước hùng cường, độc lập tự do, thể
hiện rất trong quyết định dời đô từ Hoa về Đại La. Thứ hai tưởng
nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm sở chính để thay đổi ra những
quyết định trọng yếu. Và cuối cùng tấm lòng tâm huyết, chân thành, tầm nhìn
xa trông rộng, luôn cố gắng thay đổi vận mệnh dân tộc của Thái Tổ cũng
một biểu hiện rất rõ nét của tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc.
12
| 1/12

Preview text:

Dàn ý phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích. II. Thân bài:
a. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong mục đích của việc dời đô:
- "chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho
con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi".
→ Đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai,
hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây dựng một
đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng thái bình, thịnh trị.
- Việc dời đô không phải là ý muốn của riêng cá nhân Lý Thái Tổ, mà đó là một
quyết định tuân theo tư tưởng "mệnh trời", dưới lại thuận theo ý kiến của dân,
đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
- Để củng cố và bổ sung cho mục đích và ý nghĩa chính đáng của việc dời đô về Đại La:
+ Tác giả đã chỉ ra trong quá khứ, nhà Thương đã có đến 5 lần dời đô, nhà Chu
cũng có đến 3 lần => Vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh.
+ Chê trách hai nhà Đinh, Lê khi "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời",
không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". 1
=> Chứng minh được rằng việc dời đô là hoàn toàn hợp lý, cần thiết nhất trong giai đoạn này.
b. Tư tưởng yêu nước thể hiện ở việc Lý Công Uẩn đưa ra những lợi thế
của thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ:
- Bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải
thiện vận mệnh đất nước và dân tộc.
- Vị trí địa lý "thuộc vào nơi trung tâm trời đất", "địa thế rộng mà bằng, đất đai
cao lại thoáng" có thể giúp nhân dân an cư lạc nghiệp tránh khỏi những nạn thiên tai lũ lụt.
- Lịch sử "vốn là kinh đô cũ của Cao Vương".
- Phong thủy: thế đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông
tây, lại tiện hướng nhìn sông tựa núi", mà với quan niệm của người xưa thì với
thế đất ấy Đại La thật xứng đáng là nơi ở của bậc vương giả, là "kinh đô của đế vương muôn đời".
- Lý Thái Tổ cũng bộc lộ sự anh minh, sáng suốt và tấm lòng yêu nước thương
dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham khảo, hỏi ý thần dân
rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?".
=> Sự kết hợp chặt chẽ giữa lí và tình làm cho bản chiếu dễ đi vào lòng người,
đem đến hiệu quả thuyết phục mạnh mẽ và sự đồng thuận của dân chúng. III. Kết bài: - Nêu cảm nhận.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 1 2
Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có
một vị trí quan trọng. nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí - Trần.
Hơn nữa, nó là áng văn đầu tiên thể hiện khát vọng về một đất nước độc lập,
thống nhất, hùng cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải là
hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như
hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn
rã của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại
cáo. Đây là hoàn cảnh đất nước đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mong
manh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết. Đây là thời điểm
dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các
triều đại Đinh- Tiền Lê nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong.
Nhà Lí thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ
Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha
ông đã giành được? làm thế nào để phát triển đất nước ngày càng hùng cường?
Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ (Lí Công Uẩn),
và bài Chiếu đã ra đời.
Hơn ai hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời
đô. Trong lịch sử nhân loại, đã có không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa
lạ, chỉ riêng một quốc gia cận kề với Đại Việt là Trung Hoa, chỉ ở hai triều đại
thôi cũng đã có tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương đến vua Bàn
Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc
dời đô của các vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu là những việc làm tùy
tiện, theo ý riêng của mình. Đó là những việc làm có suy tính đến sự thiệt hơn,
đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, đến hạnh phúc lâu dài của
trăm họ, muôn dân. Thật là một việc làm trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân,
đáng là tấm gương để đời sau noi theo. Từ bài học của các đế vương Trung Hoa, 3
đi sâu vào thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy bức xúc, trăn trở: Kinh Đô
của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng
đâu phải là nơi thuận tiện cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước có thể
lâu dài, phong tục có thể phồn vinh như các triều đại Thương, Chu bên Trung
Quốc? Và thực tế là số vận của hai nhà Đinh, Lê không được lâu bền, số vận
ngắn ngủi và trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi há chẳng
phải là điều đang diễn ra đó sao? Không chỉ bức xúc, trăn trở, nhà vua còn cảm
thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm chân thành của ông là khát vọng về đất
nước độc lập, thống nhất, hùng cường.
Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời. Bắt nguồn từ
một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông
rộng của một bậc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc
ta một địa danh lí tưởng để định đô lâu dài. Đó là thành Đại La (Hà Nội ngày
nay). Nhà vua chỉ rõ các bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những
lợi thế vô cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt
có được. Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng
cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa
núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh
khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Thứ hai, về
chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Đóng đô ở một nơi như thế hỏi làm sao
vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được
thích nghi? Chắc chắn là vận nước sẽ được lâu dài, phong tục sẽ được phồn
vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi có còn
mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp.
Khát vọng của Lí Thái Tổ cũng là khát vọng của những người dân Đại Việt lúc
ấy và cả sau này. Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một
đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường của cả dân tộc nên nó được mọi người 4
nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn. Chiếu
dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách
của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức
để đối phó với nạn ngoại xâm nếu định đô ở đồng bằng, nên hai nhà Đinh, Lê
phải chọn Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương
triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa lớn mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họ
phải hao tổn là lẽ đương nhiên. Nhưng nay, nhà Lí là sự kế tục sự nghiệp của
các triều đại cha anh,có thế đã lớn mạnh hơn. Nhưng dù có lớn mạnh hơn hay
chưa thực sự lớn mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ Lí cũng đã
khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững
tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương đầu tiên của nhà Lí cũng
là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà lớn mạnh.
Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta
càng thấy thấm thía sự sáng suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương
hào kiệt, càng thêm biết ơn ông đã đặt nền móng cho sự bền vững, hưng thịnh
lâu dài của đất nước, càng thêm cảm phục và quý mến ông.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 2
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa Lư
về Đại La để đóng đô ở nơi “trung tâm trời đất,mưu toan nghiệp lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như
vậy, tư tưởng yêu nước đã được thể hiện ở việc gắn liền sự bền vững của một
triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất
đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật
không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất nước là đem lại hạnh
phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của
một đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ
đô có ý nghĩa rất lớn . Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời 5
đều có các cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời là một thử thách của cả dân tộc.
Đó phải là quyết định của người có đầu óc ưu tú nhất thời đại . Có thể nói, với
trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về
lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát
triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận
tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội tụ trọng
yếu của bốn phương đất nước,cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn
đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất
nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó là thống nhất giang sơn về một mối.
Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ
là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài là tư
tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác giả là tiếng nói của nhân dân, của thời đại và
khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự
cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh .
Tiếp theo triều đại nhà Lý rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lý
Thái Tổ , nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời
đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời kì
này đều ghi tên mình vào sử sách . Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ” là
một ví dụ . Đọc “Hịch Tướng Sĩ” -một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như
được nghe tiếng nói của cha ông , của non nước . Nó nồng nàn một tinh thần
yêu nước ,nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc , một ý chí quyết chiến
quyết thắng quân thù không chỉ là của riêng Trần Quốc Tuấn mà là kết tụ trong
đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai họa đang đến gần: quân
Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy mô chưa từng thấy
hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50
vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một lòng , chuẩn
bị đương đầu với cuộc chiến sống còn . Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa
tình cảm , những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần
trách nhiệm và ý thức dân tộc ở các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất 6
nước, chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc, và những việc cần làm để
chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn
bút, thống thiết và sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống
máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính là nỗi đau
của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, là tinh thần của một
thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng là của cả dân tộc Đại Việt
anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ và hành động sai trái của
tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao
cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên”. Đó là xác định duy nhất một
con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 3
Lý Công Uẩn sinh năm 974, quê ở Từ Sơn(Bắc Ninh). Là người có chí lớn lại
khoan từ nhân thứ(lời sư Vạn Hạnh), nên sau khi Lê Long Đĩnh mất, vua kế vị
còn nhỏ không thể đảm đương trọng trách gánh vác giang sơn xã tắc, ông đã
được các vị đại thần trong triều tôn lên ngôi hoàng đế.
Vốn thông minh bẩm sinh lại nhập thân văn hóa ở một vùng đất văn minh, văn
hiến, là con nuôi của các vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người
con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết
nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.
Lý Công Uẩn(tức Lý Thái Tổ) khởi đầu sự nghiệp trị vì đất nước của mình bằng
việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc dời đô vốn là một sự kiện quan trọng và
việc dời đô của Lý Thái Tổ càng in đậm dấu ấn trong lịch sử vì nó mở ra một
giai đoạn phát triển phồn vinh của đất nước, hơn nữa nó lại gắn với một áng văn
chương bất hủ: Chiếu dời đô. 7
Tiếp xúc với áng văn chương kiệt tác này, không những ta được sống trong hào
khí của một khát vọng cao cả và một khí phách anh hùng, mà còn được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của ánh sáng nhân văn.
Để hiểu rõ giá trị nhân văn cao đẹp của bài Chiếu, ta cần suy ngẫm kỹ xem vì
sao Lý Thái Tổ quyết định rời đô? Việc dời đô của ông xuất phát từ những ý
nguyện và quyền lợi của ai và nhằm mục đích gì?
Vậy mà vì sao mà Lý Thái Tổ quyết định dời đô?
Khi Lý Công Uẩn được suy tôn lên ngôi hoàng đế, triều đình vẫn còn đang đóng
đô ở Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư nằm ở một vùng đất hẹp(thuộc tỉnh Ninh Bình
ngày nay), Địa thế hiểm trở chỉ tiện cho việc chống giữ mà không dễ bề phát
triển. Với trí tuệ nhạy cảm, Lý Thái Tổ cảm nhận một cách sâu sắc và thấm thía
những cái bất lợi của việc đóng đô ở đây.
Nhìn lại hai triều trước, nhà Đinh chỉ tồn tại có 12 năm(968-980), nhà Lê chỉ
tồn tại có 29 năm(980-1009). Số vận của họ mới ngắn ngủi làm sao! Số vận của
một vương triều, đâu chỉ là vấn đề riêng của một dòng họ, nó có quan hệ mật
thiết tới sự suy thịnh, tồn vong của một quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, nó còn quan
hệ mật thiết với phận của trăm dân, muôn họ. Triều đình suy thì trăm họ cũng
phải hao tổn. Điều đó khiến Lý Thái Tổ vô cùng đau xót: Trẫm rất đau xót về việc đó.
Nỗi lòng và tình cảm của hoàng đế Thái Tổ chính là tình cảm yêu nước thương
dân tha thiết, sâu nặng của ông. Tấm lòng ấy khiến ông đi đến một quyết định
đúng đắn và dứt khoát: dời đô!
Như vậy, lý do dời đô của Lý Thái Tổ xuất phát từ sự lo lắng cho sự an nguy,
tồn vong, suy thịnh của giang sơn xã tắc, lo lắng cho số phận và hạnh phúc của
nhân dân. Tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân, há chẳng phải là biểu hiện của
tư tưởng nhân văn đó sao? 8
Với một trí tuệ hiếm có và tầm nhìn khác thường, hoàng đế Thái Tổ thấy rõ lợi
thế to lớn của thành Đại La. Đó là một vùng đất vừa thuận lợi về mặt địa lí để
có thể phát triển kinh tế giàu mạnh khiến cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc:
huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất,
được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi
phải chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.
Đồng thời cũng là nơi thuận tiện cho việc xây dựng và phát triển chính trị, văn
hóa: Thật là chốn hội tụ của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất
của đế vương muôn đời.
Mục đích dời đô của Lý Thái Tổ không chỉ vì quyền lợi của dòng họ mình, cao
hơn nữa là quyền lợi của quốc gia, dân tộc, nhân dân. Mục đích đó thật cao đẹp
và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc!
Có thể nói, Chiếu dời đô đã phản ánh được khát vọng của nhân dân ta về một
đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường. chính khát vọng ấy làm cho bài
Chiếu thấm đẫm tinh thần tinh thần nhân văn cao cả. Để tận hôm nay, ánh sáng
nhân văn trong bài Chiếu vẫn tỏa sáng.
Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 4
Lý Công Uẩn (974-1028), là một vị vua anh minh, lỗi lạc có nhiều công lao
trong việc xây dựng một Đại Việt hùng mạnh, độc lập tự cường, với tấm lòng
yêu nước thương dân sâu sắc, đặc biệt là tầm nhìn xa trông rộng của một đấng
minh quân trong việc ra các quyết định quan trọng quyết định vận mệnh dân
tộc, đất nước. Một trong số những dấu ấn lớn nhất trong suốt những năm tháng
trị vì của Lý Thái Tổ ấy là sự kiện dời đô từ Hoa Lư về Đại La năm 1010, khẳng
định ý chí và sức mạnh tự cường của dân tộc sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
Sự kiện này được ghi lại trong một tác phẩm rất nổi tiếng ấy là Thiên đô chiếu 9
(Chiếu dời đô), không chỉ đơn thuần là sự ban hành mệnh lệnh từ một vị vua mà
còn đan xen những yếu tố tâm tình , vừa là đơn thoại cũng lại là đối thoại, trao
đổi. Bên cạnh nội dung ban bố một mệnh lệnh quan trọng thì những lập luận,
dẫn chứng thuyết phục và sắc bén trong bản chiếu này cũng thể hiện một tư
tưởng rất rõ ràng ấy chính là tinh thần yêu nước sâu sắc.
Trước hết tư tưởng yêu nước được thể hiện trong cách mà tác giả đưa ra lý do
phải dời đô từ Hoa Lư về Đại La ấy là "chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu
toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo
ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi". Như vậy mục đích chính của việc dời
đô chính là để đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong
tương lai, hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây
dựng một đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng
thái bình, thịnh trị. Thêm vào đó việc dời đô không phải là ý muốn của riêng cá
nhân Lý Thái Tổ, mà đó là một quyết định tuân theo tư tưởng "mệnh trời", dưới
lại thuận theo ý kiến của dân, dân chúng có đồng lòng thì mới thực hiện, tức là
vẫn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Có thể nói rằng tư tưởng yêu nước,
thương dân đã thể hiện một cách rõ ràng trong phần mục đích của việc dời đô.
Bên cạnh đó, để củng cố và bổ sung cho mục đích và ý nghĩa chính đáng của
việc dời đô về Đại La, Lý Thái Tổ đã tinh tế dẫn ra những bằng chứng xác thực
từ trong lịch sự của Trung Hoa - quốc gia có ảnh hưởng nhiều đến Đại Việt và
cả những dẫn chứng từ trên chính lịch sử nước nhà. Tác giả đã chỉ ra trong quá
khứ, nhà Thương đã có đến 5 lần dời đô, nhà Chu cũng có đến 3 lần, mà sau
những lần dời dời đô ấy vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh. Trái
lại Lý Thái Tổ cũng có ý chê trách hai nhà Đinh, Lê khi "theo ý riêng mình,
khinh thường mệnh trời", không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được
lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". Có bài học trước mắt từ các
triều đại cũ, khiến Lý Công Uẩn nhanh chóng nhận thức được cần thiết của việc
dời đô, để tránh xảy ra những cớ sự đau xót, khi triều đại kém phát triển, liên
tục gặp phải tai ương, nhân dân khốn đốn. Nhìn nhận từ việc Lý Công Uẩn dẫn 10
chứng từ những triều đại của Trung Hoa, cùng với lịch sử hai triều đại Đinh, Lê
kết hợp với tư tưởng mệnh trời, đã chứng minh được rằng việc dời đô là hoàn
toàn hợp lý, cần thiết nhất trong giai đoạn này, khi đất nước đã ổn định, không
còn thù trong giặc ngoài, thì việc kiến thiết xây dựng đất nước cần có một kinh
đô trung tâm, hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.
Tư tưởng yêu nước không chỉ được thể hiện ở mục đích chính đáng của việc dời
đô về Đại La, mà còn thể hiện ở việc Lý Công Uẩn đưa ra những lợi thế của
thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ. Điều đó bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu
nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải thiện vận mệnh đất nước và dân
tộc, mong cho nhân dân có được cuộc sống sung túc, phồn thịnh. Ông đã nghiên
cứu và tìm hiểu rất kỹ về kinh đô mới, khi lần lượt đưa ra các lợi thế nổi bật của
thành Đại La về nhiều phương diện. Về vị trí địa lý "thuộc vào nơi trung tâm
trời đất" chỗ tập trung nhân mạch giao thương buôn bán, thuận lợi cho việc di
chuyển, thêm vào đó "địa thế rộng mà bằng, đất đai cao lại thoáng" có thể giúp
nhân dân an cư lạc nghiệp tránh khỏi những nạn thiên tai lũ lụt. Về mặt lịch sử
"vốn là kinh đô cũ của Cao Vương", Cao Vương xưa vốn là một viên quan của
Trung Quốc nhận mệnh sang nước ta cai trị vùng đất Giao Chỉ đã chọn Đại La
làm chỗ đặt cơ sở cai trị, chứng tỏ một điều rằng Đại La là một vùng đất có
nhiều thuận lợi. Xét về phương diện phong thủy thì nơi đây lại có được cái thế
đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng
nhìn sông tựa núi", mà với quan niệm của người xưa thì với thế đất ấy Đại La
thật xứng đáng là nơi ở của bậc vương giả, là "kinh đô của đế vương muôn đời".
Đặc biệt sau khi đưa ra những lý lẽ khẳng định sự phù hợp của Đại La với vai
trò là một kinh đô mới, Lý Thái Tổ cũng bộc lộ sự anh minh, sáng suốt và tấm
lòng yêu nước thương dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham
khảo, hỏi ý thần dân rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở.
Các khanh nghĩ thế nào?". Có thể thấy rằng, dù bản chiếu là để ban hành một
mệnh lệnh có tính chất bắt buộc, quyết định là lời nói của đế vương, thế nhưng 11
trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, tác giả còn đan xen thêm cả những câu
văn bộc lộ cảm xúc, lời tâm tình rất đỗi chân thành, dễ đi vào lòng người, đem
đến hiệu quả thuyết phục mạnh mẽ và sự đồng thuận của dân chúng.
Tổng kết lại, tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn bao gồm
mấy phương diện chính sau đây: Thứ nhất là ý chí khát vọng mạnh mẽ của dân
tộc Đại Việt trong việc xây dựng một đất nước hùng cường, độc lập tự do, thể
hiện rất rõ trong quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Thứ hai là tư tưởng vì
nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở chính để thay đổi và ra những
quyết định trọng yếu. Và cuối cùng là tấm lòng tâm huyết, chân thành, tầm nhìn
xa trông rộng, luôn cố gắng thay đổi vận mệnh dân tộc của Lý Thái Tổ cũng là
một biểu hiện rất rõ nét của tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc. 12
Document Outline

  • Dàn ý phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô
  • Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 1
  • Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 2
  • Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 3
  • Phân tích tư tưởng yêu nước trong Chiếu dời đô - Mẫu 4