Văn mẫu Ngữ Văn lớp 8: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa | Kết nối tri thức

Văn mẫu Ngữ Văn lớp 8: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa | Kết nối tri thức. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 64 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!

1
Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa
Dàn ý pn tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và tác phẩm thơ Bếp lửa
Nêu khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm: bài thơ gợi lên những
kỉ niệm sâu sắc về tuổi thơ,tình bà cháu thiêng liêng, cảm động
Hình ảnh người bà nhân hậu, giàu tình yêu thương, sự hi sinh vì con cháu
hiện lên thật giản dị, gần gũi và ấm áp
II. Thân bài
- Hình ảnh bếp lửa nơi xứ người gợi lên nỗi nhớ bà, nhớ quê hương
- Dòng hồi tưởng về bà, về tuổi thơ được khơi gợi từ hình ảnh thân thương- bếp
lửa
2
+ Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nồng đượm” ùa về trong tâm trí
người cháu hình ảnh người bà nhân hậu với tấm lòng chi chút của người nhóm
lửa
- Bếp lửa thực tự nhiên khi xa xứ đánh thức dòng cảm xúc, nỗi nhớ luôn trực
chờ trongng người cháu về bà: cháu thương bà lặng lẽ, âm thầm
- Bài thơ gợi lại kỉ niệmm áp, êm đềm của tuổi thơ khi bên
Tuổi thơ đứa cháu là những chuỗi ngày thiếu thốn, khó khăn “đói mòn
đói mỏi” dường như ám ảnh,xót xa cho người cháu mỗi khi nh lại
Nhưng có bà, cuộc sống của cháu luôn tràn ngập tình yêu thương, đầm
ấm
- Bên cạnh bếp lửa, âm thanh của tiếng tu hú gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn
, chia sẻ tình cảm nồng ấm suốt 8 năm trời
- Bà luôn ân cần đảm nhiệm nhiều vai trò khi chăm sóc cháu: biện pháp liệt kê
“bà bảo, bà chăm, bà dạy” diễn tả sâu sắc và cảm động sự nhân hậu, tình yêu
thương cháu và sự cm sóc chi chút cho cháu của bà
+ Bà trở thành chỗ dựa vững chắc cho cháu, lấp đầy những thiếu thốn về vật
chất và tinh thần của đứa cháu
- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá, bà vữngng, bình tĩnh tạo niềm tin cho
con cháu
+ Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa ấm áp từ tình thương yêu, sự hi sinh của bà đối
lập với ngọn lửa hung tàn, tiêu diệt sự sống của kẻ thù (năm giặc đốt làng cháy
tàn cháy rụi)
3
→ Mạch cảm xúc xen với lời kể, cùng hình ảnh thơ lan tỏa hiện lên rõ nét đã để
lại dấu ấn sâu đậm về người bà Những suy ngẫm về cuộc đời bà và hình tượng
bếp lửa
- Từ những hoài niệm về bà, người cháu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời
Hình ảnh của bà luôn gắn chặt với hình ảnh bếp lửa ấm áp, thân thuộc
Trong lòng bà luôn có một “ngọn lửa” “ủ sẵn”, đây là ngọn lửa của niềm
tin, ý chí, nghị lực và khát vọng sống
Điệp từ “một ngọn lửa” nhấn mạnh vào tình yêu thương cũng n tấm
lòng nhân hậu của bà dành cho cháu
Ngọn lửa đó thắp lên niềm tin, tình yêu và nghị lực sống tin tưởng vào
ngày mai cho đứa cháu
- Hình ảnh người bà tần tảo khuya sớm, là người thắp lửa, giữ lửa truyền tới thế
hệ trẻ
Mặc dù cuộc đời bà trải qua “nắng mưa” lận đận, nhưng bà luôn lạc quan,
tin tưởng và dành những điều tốt đẹp cho con cháu
Động từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định : bà chính là người
khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã
truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương
ruột thịt, sự cảm thông chia sẻ
Từ đó nhà thơ khám phá ra điều kì diệu giữa cuộc đời bình d “Ôi kì lạ và
thiêng liêng- bếp lửa
- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu khi trưởng thành, xa quê
+ Dù xa quê hương, xa bà nhưng người cháu vẫn luôn nhớ và hướng về bà với
niềm yêu thương, sự biết ơn vô hạn
4
III. Kết bài:
Tác giả xây dựng thành công hình tượng bếp lửa để làm sángn phẩm
chất đáng q của bà. Qua đó thể hiện tình cảm yêu q, kính trọng bà
của người cháu xa quê nhưng luôn nhớ và biết ơn sự hy sinh, chăm sóc,
dạy bảo của bà.
Phân tích hình tượng người bà trong Bếp lửa
Bng Việt nhà thơ xut sc ca nền thơ ca Vit Nam. Vi giọng thơ trong
sáng, chân thành, ông đã sáng c rt nhiu c phẩm ý nghĩa. Tiêu biu phi k
đến bài "Bếp la". Tác phm đã giúp nời đc cm nhận được hình ảnh người
bà chu thương, chịu khó, yêu thương và luôn chăm lo cho gia đình.
M đầu bài thơ, đc gi đưc thy hình nh ca bếp la gn vi nhng k nim
bên người bà kính yêu:
"Mt bếp la chn vờn sương sớm
Mt bếp la p iu nồng đượm
Cháu thương bà biết my nng mưa".
Câu thơ đu gi lên hình nh bếp lửa thân thương, quen thuc vào bui sm mai.
Đôi bàn tay khéo léo của bà vn ngày ngày nhóm lên bếp lửa yêu thương đ
nuôi nng cháu. Những câu thơ trên không ch th hin tình cm chân thành
ngưi cháu dành cho bà mà "nắng mưa" còn là hình nh n d gi lên nhng vt
vả, k khăn mà bà phi tri qua.
Vt v vậy, nhưng kng bao gi kêu than mà vn luôn nm lên bếp la
yêu thương nuôi nng cháu:
5
"My chc năm rồi, đến tn bây gi"
vn gi đói quen dy sm
Nhóm bếp la p iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sn ngti
Nhóm ni xôi go mi s chung vui
Nhóm dy c nhng tâm tình tui nh".
T "my chc m" đã giúp người đọc biết được quãng thi gian dài, vt v bà
đã trải qua. Dường như, đã dành c cuộc đời đ chăm lo cho gia đình.
kính yêu luôn thc dy sm, nhóm lên bếp lửa để ni nấng cháu nên người.
Bng vic s đip t "nhóm" được nhc li đu mỗi câu thơ, c gi đã nhn
mạnh hành đng nhóm la quen thuc hàng ngày ca bà. không ch chăm lo
cho gia đình mà luôn dành s quan tâm ti những người hàng xóm xung quanh.
Chi tiết "Nhóm ni xôi go mi s chung vui" th hiện tình làng nghĩa xóm thân
thiết, sn sàng chia s cho nhau những điều tưởng như nhỏ nht. Vy ch
bằng vài câu thơ, người đc có th cm nhận được cuộc đi bà phi tri qua biết
bao kkhăn nhưng vn luôn c gng dành tt c những điều tt nht cho
cháu. Qua đây, n thơ như mun gi gm tht nhiều yêu thương dành cho
ngưi bà kính yêu.
không ch chịu thương, chịu k còn ch da tinh thn vng chc cho
con cháu:
"Mày có viết thư ch ky k n
C bo nvẫn được bình n".
Và:
"Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm la",
Cháu cùng bà, bà bo cháu nghe,
6
dy cháu làm, chăm cháu hc,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc".
hậu phương vững chc cho con an m chiến đu.Trong khong thi gian
khó khăn, vn c gng lo liu chu toàn mi việc. Người ph n đó kng
mun con chiến khu phi lo lng chuyện nhà nên đã dặn cháu đng k cho
cha chuyn giặc đt làng. Không ch vậy, bà còn luôn chăm lo cho cháu tng li
tng tí, t bữa ăn, gic ng đến vic hc. Chính đã truyn cho cháu ngn la
của tình yêu thương, của ngh lc sng. Mt ngn la mãnh liệt để thp lên cho
cháu nim hi vng v một tươi lai sáng.
Bng vic s dng nhng bin pháp tu t đặc sc kết hp vi ging thơ chân
thành, tha thiết, nhà thơ Bng Việt đã làm ni bt hình ảnh người bà tn to,
chịu khó. Qua đây, tác gi mun ngi ca v đp của người ph n trong hi
thi chiến tranh. H không nhng tn to, vun vén chuyện gia đình mà còn
hậu phương vng chắc cho người lính nơi chiến trường.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 1
Hẳn ai cũng có một quá kh bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng,
hnh phúc, hoc mt tuổi thơ dữ di, đau thương,...nhưng sâu trong trái tim mi
ngưi, nhng k nim, nhng hi c v tuổi thơ luôn là th có sc ám nh sâu
sc và ln lao nht cuộc đi mà ta mãi không th quên.
Nó s đi theo ta sut nhng chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào
tâm khm và ng tr vĩnh hằng trong tim ta...Dù tui thơ ta có ngt ngào hay
cay đắng, thì vnn có mt hoc nhiều con người đã nâng đ ta, chăm sóc ta,...
và đ li du n làm k nim sng mãi theo thi gian, năm tháng....
7
Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế...Mt tui t đói khổ, đơn
nhưng lại đầy đ, m áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đ, tràn đy tình yêu
thương của bà, m áp bi s quan tâm, chăm sóc, ch che ca bà nhng ngày xa
b m và hnh pc bi...có bà!
Ông đã sáng tác bài thơBếp la” khi đang là một du hc sinh Liên Xô, theo
ng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà bên, ông tìm v
tui thơ đưc cùng bà vi dòng chy thi gian bên bếp la bp bùng nh yêu
thương m áp, theo nhp đp ca mt con tim nh nhung da diết...
”Bếp la” không ch làm m tình cảm bà cháu mà còn sưởi m một đi
người...”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện v
lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi...? Bà đang
nhóm bếp trong những dòng thơ đu ca cháu...
“Mt bếp la chn vờn sương sớm
Mt bếp la p iu nồng đượm
Cháu thương bà biết my nng mưa”
Ngay ba câu thơ đầu, điệp ng “mt bếp lửa” đã đi lin vi các t láy… gợi cho
ta cái cm giác m áp vi tình cm cha chan. Ta cm nhận được trong câu thơ
đầu, bếp la vi nhng ngn la m nóng c “chn vn” sưởi m c gian n
vào lúc sm tinh mơ mà sương sm xung but giá một mùa đông khi hai bà
cháu sng bên nhau. Bếp la là hình ảnh đu tiên mà cháu nh li khi hồi tưởng
v quá kh.
Vì có hìnhng bà luôn gn lin vi bếp lửa “rồi sm ri chiều bà nhen hay
bếp la ấy cũngm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi m
ca bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan ta c gian nhà ch
8
hai người vn lnh lo, trng vng, xoa du ni cô đơn, buồn t ca hai bà cháu
hay m c mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia...?
"Ấp iu”- gi mt bàn tay nhen nm lên ngn la vừa đủ m mt cách khéo, ân
cn. Chính vì vy, mặc dù trong hai câu tđu, bà không xut hin trc tiếp,
nhưng ta thy hình ảnh bà đã hin lên rất rõ. Bà đang ngi bên bếp lửa để nm
lên ngn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô b bà dành
cho cháu.
Để rồi đến câu thơ th hai, cháu tht lên theo dòngc cảm xót xa “Cháu
thương bà biết my nắng mưa” trong trái tim ca cháu nh v người bà gian nan,
vt v và tng tri! Ch mt t “thương” thôi cũng đ đọng lại ý thơ cho cả đon.
Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi nhng nhc nhằn, “nắng mưa”, khó
khăn, gian truân đi bà!
Cháu hiu lm và cm lm bà ơi nhng hi sinh thm lng ca cuc đời bà! Tình
thương là v mui mn của tình người, là cht keo ca mi gn bó. Ch
“thương” vn xut hin nhiều trong thơ ca tr tình và đặc bit xut hin nhiu
trong nhng tác phmi v tình yêu thương con ni.
Đối tượng của tình thương là lòng trc ẩn và như vy, mt t “thương” đã có th
thấy được biết bao cảm xúc đang sng dy trong lòng cháu, mt ni nh thương
cn o, da diết, mãnh liệt và ước ao được tr v tuổi thơ bên bà, ngi cnh
i m áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương... Hình ảnh bà “biết my
nắng mưa” c dn, t dn vi s hi sinh âm thm, lng l. T hi c dn dn
tr v i những dòng thơ của tác gi, hin ra theo bp bùng ánh la k nim,
chy v quá kh...:
“Lên bốn tui cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mi
9
B đi đánh xe, khô rạc nga gy
Ch nh khói hun nhèm mt cháu
Nghĩ lại đến gi sng mũi còn cay”
K niệm năm cháu bốn tui ám nh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Nhng
năm tháng đói khổ, người cháu cm nhn, biết được mùi khói t hi lên bốn, đó
chính là nạn đói năm 1945,i đói khng khiếp, ghê rn và dai dẳng, “đói mòn
đói mỏi”. Từ mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn
sâu vàom trí đa cháu s ám nh không th nào quên- i đói kéo dài làm con
ngưi mt mi, kit sc dần, như th t t giết chết người ta vy!
Bao trùm lên toàn xã hi lúc by gi là cái đói ghê rợn, i đói lch s ca dân
tộc ta đã làm chết hơn hai triệu người! Trong kí c của cháu, đến gi nó vn còn
ám nh dai dng lm, khng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vn làm
cay mt tác giả, như th va mới “hun nhèm” thôi! K nim ùa v ngp tràn
trong tim, trong tâm óc, và đng lại nơi khóe mắt cay cay mùi ki ca quá kh.
Cay vì khói,i đói làm nhng giọt nước mt ca đa tr thơ dại cay xè đi
trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào tng tế bào, dy lên trong c
hng và dường như là cả thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, c sn, hay là
giọt nước mt mng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tt cùng khi sắp được ăn
cho tha ni thèm, bù lp phần nào i đói dai dẳng, lúc bà đang lặng l nhóm
bếp la, tc là cháu sắp được ăn rồi đy! Trong tâm trí non nt ca đứa tr lên
bn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon, nhưng hi y là c mt th “sơn hào hi
vị” kng gì sánh bng, c một điều lớn lao, vĩ đi!
“...Cái năm đói củ rong rng luộc sượng
C nghe thơm mùi hu trắng, hương trầm”
(Đò Lèn-Nguyn Duy)
10
Vâng! Ch như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và tr thành mt k nim không
th quên ca đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái đng ca những đói kh không
ch ca có hai bà cháu tác gi mà còn ca nhiều người khác nữa! Đến người còn
không có ăn, nói chi “ngưi gầy” "khô rạc” là điềunhiên! Theo li tâm s
ca tác giả, lúc đó, đ kiếm thêm tiền ni gia đình, bố tác gi đi đánh xe
chy chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội.
Đó cũng là một k nim còn neo lại nơi tâm trí cháu, tr thành mt trong nhng
điu ám nh sut cuộc đi cháu mãi không quên! Kh thơ không nhc ti bà,
nhưng sao bà đp và lng thm thế! Bà ch che cho cháu và cho c gia đình,
cây caong c sut những ngày đói khổ, nhng giông t ập đến phũ phàng và
dai dng... Bà nh bé mà đi, lớn lao như thế đy...Trong lòng cháu...!
Tới đây, ng cảm xúc hòa vàong chy ca những câu thơ t sự, tưới đm
cht tr tình cho ging thơ, góp phn làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hin ra
rõ hơn và đẹp hơn cả:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm la
Tu kêu trên những cánh đng xa
Khi tu hú kêu bà còn nh không bà
hay k chuyn nhng ngày Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
“Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đng, ròng rã, vi bao
nhc nhằn khó khăn, vt v và c ni s hãi, niềm thương nh da diết na,...c
đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,“cháu cùng bà nhóm lửa”,
vn nhóm lên ngn la ca s sng, ca tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cu
bé hn nhiên, trong trng tui lên tám.
11
Chính hình nh bếp lửa quê hương, bếp la của tình bà cháu đó đã gi nên mt
liên tưng khác, mt hi ức khác trong tâm trí thi sĩ thu nhỏ. Đó là tiếng chim
tu kêu. Âm thanh y sao mà da diết, khc khoi, bun thương thế! Nó
ngân dài lê thê sut c kh thơ, là âm thanh ca quá kh di v hin ti, làm k
niệm như đang sống dy trong tâm hn cháu. Ôi nhng k nim y, có c đắng
và ngt, cô đơn và hnh phúc! T “tu ” được điệp li ba lần làm cho âm điu
cấu thơ thêm bi hi tha thiết, làm cho nời đc cm thấy như tiếng tu đang
t xa vng v trong tim thc ca tác gi.
Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vng t những nh đồng xa, lâng lâng trong
lòng ni cháu xa xứ. Trong văn hc ngh thut, tiếng chim tu là biu
ng ca mt s khc khoi nh nhung da diết khôn nguôi. Trong thc tế, tu
li là mt loài chim bt hnh, không biết p trng và làm t.
Hạnh pc tưởng chừng như nh bé mà li là thiêng liêng và ln lao nht ca
cuộc đi mi con người, là hạnh phúc gia đình, là phút giây sung sướng đến tt
cùng khi được trông thấy đa con-hình hài yêu du-món quà vô giá mà cuc đời
ban tng cho mình- ct tiếng khóc chào đi, là s n nguyn nhất khi có được
một căn nhà, một t m-nơi nương ta vng chãi nht trong nhng phút giây bi
quan, yếu lòng, sau mi vp n ca cuộc đi-con người ta tìm v đ đưc an i,
s chia mt cách chân thành!
y vậy mà loài chim tu hú đâu có đưc nim hnh phúc ln lao, thiêng liêng,
đẹp đẽ nht cuộc đời y! Tiếng kêu ca chúng tr vì vy tr nên khc khoi,
mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó tha thiết lắm...Ta đã từng nghe
thy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của T Hu, làm sc sôi khao khát t
do mãnh lit, bùng cháy mnh m nơi ngưi tù cách mng, khiến anh phi tht
lên:
12
“Ta nghe hè dy bên lòng
chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngt làm sao, chết ut thôi!
Con chim tu ngoài tri c kêu”
Tiếng kêu đy khao khát và khc khoi ấy cũng xut hin ni nh da diết v
quê hương và bóng ni cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô con gái tui
thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của n thi sĩ Anh Thơ:
“Ri tiếng chim tu
Vang sut nhng mùa
Con đi i thương nh
ời năm chưa v quê!”
Ta d dàng cm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khc khoi làm
cho ng k nim ca cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không
gian xa vng ca ni nh thương...Và bà ơi khi tu hú kêu, thì đó cũng là lúc “Bà
hay k chuyn hi còn Huế”. Nhng u chuyn y, rt dài rt hay, thm
thía, hơn thế nữa, nó còn được k qua cht ging m áp, chm rãi, chan cha
cảm xúc và tình yêu thương ca bà.
Có th đó là những chui ngày hạnh phúc khi gia đình Huế, bà cũng là ni
hoài nim, sâu sắc và đy suy ngẫm...Cũng có th đó là rất nhiu nhng câu
chuyn,...giống như nhng câu chuyn mà bà hay k “hi còn Huế”! Vậy ư?
Thế thì nhiu lm lm! Trong kho tàng chuyn y, có th, tuổi thơ cháu đã ưp
đậm v ngt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình vào thế gii nơi có cô Tm
tho hin, có chng Thch Sanh dũng cảm, có m con nhà Cám độc ác, tàn nhn,
có m con Lí Thông gian xảo, mưu mô,...có cái thiện cũng như cái ác.
13
Và hơn hết, cái thin bao gi ng thắng cái ác! Nhc ti tui thơ, ni ta bao
gi cũng nghĩ ngay đến nhng u chuyn c tích mà bà và m hay k cho con
tr nghe, ri bo chúng rút ra bài hc, hoặc răn dy những điều hay, l phi t
câu chuyn y! Chuyn c tích mà bà k cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn gin,
d hiu, li va sâu sc, thấm đm tình...
Bà đã ươm lên và nuôi dưng trong những suy nghĩ, tình cảm ca cháu ngay t
khi còn thơ di mt mm cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngi, nó là cái gc để phát
trin thành nhng thân, nhng nh, nhng hoa, lá, nhng qu... sau này!
“M cùng cha công tác bn không v
Cháu cùng bà, bà bo cháu nghe
dy cháu làm, chăm cháu hc
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu ơi, chẳng đến ng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Những câu ttiếp theo làm hin lên một căn nhà qunh hiu, lnh lo giữa đồng,
ch hmt có mt gmt tr. Đa tr thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì
m yếu hom hem. Bà phi xoay s ni thân mình và ni c cháu. Vy mà bà
còn “bảo cháum, chăm cháu học” bên cnh bếp la. Hình nh bếp la đây
không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hìnhnh ca một căn nấm áp, nương
náu để hai bà cháu sinh sng.
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phi rời làng đi tản cư,
b m phải đi công tác, cháu vì thế phi cùng bà trong quãng thi gian y,
nhưng dường như đối với đứa cháu như thế li là mt nim hnh phúc vô b!
Cùng bà, ngày nào cháu cũng nm bếp. Và trong cái khói bếp chp chn, m
m o o ấy, người bà như một bà tiên hin ra trong câu chuyn c huyn o
ca cháu.
14
Nếu như đi vi mi chúng ta, cha s là cánh chim đ nâng ước mơ của con vào
mt khung tri mi, m s cành hoa tươi thm nhất để con cài lên ngc áo t
đối với cháu, người bà va là cha, vam, va là nh chim, là mt cành hoa
của riêng cháu.Tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đi vi cháu.
Trong những tháng năm sống bên cnh bà, bà kng ch chăm lo cho cháu từng
miếng ăn, gic ng mà còn là người thầy đu tiên ca cháu.
Bà dy cho cháu nhng ch cái, những phép tính đầu tiên. Không ch thế, bà
còn dy cháu nhng bài hc quý giá v cách sng, đạo làm người. Nhng bài
hc đó sẽ là hành trang mang theo sut quãng đi còn li của cháu. Người bà và
tình cm bà dành cho cháu tht smt ch da vng chc v c vt cht
ln tinh thần cho đứa cháu bé bng. Cho nên khi bây gi nghĩ v bà, nhà thơ
càng thương bà hơncháu đã đi ri, bà s vi ai, ai s ngưi ng bà nhóm
la, ai s cùng bà chia s nhng câu chuyn nhng ngày Huế,...
Nhà thơ bng t hi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến cùng ?/Kêu chi hoài
trên những cánh đồng xa!”. Một li than th th hin ni nh mong bà sâu sc
của đứa cháu nơi x người khi nghĩ lại những ngày tháng đã xa...Xen ln trong
đó là một nim t hào vì mình có bà ca đứa cháu ngây thơ trưc nhng con
chim tu cứ “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” ngoài kia!
Cháu thương bà và cũng thương tu hú na! Vì cnh ng ca hai bà cháu ta sao
mà ging tu hú thế! Cũng hiu quạnh, cô đơn, cha mẹ thì “bận công tác không
về” mt rồi! “Tu hú ơi, hãy v cùng bà đi, bà s chăm sóc cho tu hú, như là bà
đã chăm sóc cho ta, và tu s không phải bơ vơ na! Tu v vi bà, thì c bà
và tu s cùng bên nhau, kng ai cô đơn c!”
Ch trong mt kh thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc li nhiu ln
gi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gn bó, qun qt không ri. Tình yêu
thương của bà dành cho cháu, ca cháu đi vi bà đã đ li trong lòng cháu
15
nhng k nim không bao gi nht phai và nó luôn sng mãi bi âm thanh tiếng
chim tu da diết ấy luôn âm vang trong tim cháu, như tiếng lòng thn thc ca
cháu luôn nh mong v bà...
Trong Bếp la tác gi đưa hình ảnh này ra đ nỗi đau riêng hòa vào nỗi đau
chung ca c dân tc, hoàn cnh chung ca c c:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy ri
Hàng xóm bn bên tr v lm li
Đỡ đn dng li túp lu tranh
Vn vng lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“B chiến khu b còn vic b
y viết thư ch ky k n
C bo n vn được bình yên!”
Cuc sống càng khó khăn, cảnh ng càng ngt nghèo, ngh lc ca bà càng bn
vng, tm lòng ca bà càng mênh mông. Qua đó, ta thy hin lên mt người
cn cù, nhn nại và giàu đc hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lu tranh ca hai bà
cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn,tài sn
ln nht ca một đời người đã b “cháy tàn cháy ri”-cháy sch sành sanh,
không còn nguyên vn mt th gì, nói đúng hơn là không còn gì đ cháy,
có đau kh thế nào cũng không dám nói ra vì s làm đa cháu bé bng ca
mình lo bun.
Bà cng rn, dắt cháu vượt qua mi kkhăn, bà không muốn đứa con đang
bn việc nước phi lo lng chuyện nhà. Điều đó ta có th thy rõ qua li dn ca
bà: “Mày có viết thư chớ k này k n/C bo nhà vẫn được bình yên!”. Li
dn ca bà nôm na gin d nhưng chất cha biết bao tình, tinh thn lm, ý chí
lm, nim tin ca bà mnh m lm, trong khi “ hàng xóm bn bên tr v lm
16
li”-cm nhận như có một sc mạnh hình nào đó cứ làm ngưi ta cúi gm,
cúi gm mt xungđau đớn đến não nề, không nói đưc mt li nào!
Gian kh, thiếu thn, bao ni nh thương con bà đều phải néno trongng đ
yên lòng người nơi tin tuyến. Hình ảnh người bà không ch còn là người bà ca
riêng cháu mà còn là mt biểu tượng rõ nét cho những người ph n Vit Nam
giàu đức hi sinh, thương con quý cháu, luôn tin tưng vào kháng chiến, vào
cách mng khi nhc cháu viết thư vn bảo nhà bình yên đ b m an tâm công
tác chiến đu.Kết thúc kh thơ, Bng Việt đã nâng hình nh bếp la tr thành
hình nh ngn, mt ngn la:
“Ri sm ri chiu li bếp la nhen
Mt ngn la lòng luôn sn,
Mt ngn la cha nim tin dai dng...”.
Bà li làm li t đu, t “lại” trong u thơ th hin s cht chiu, s bắt đầu làm
li sau những k khăn, thiếu thn! Bà vẫn “nhen” lên bếp lửa “rồi sm ri
chiều”, dù “nhen” thì khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất cũ của ngôi nhà đã b
đốt “cháy tàn cháy rụi”, bà nhen lên một s sng mi, mãnh liệt hơn, dai dng
n, bi trong lòng bà “một ngn la luôn sẵn”, “một ngn la cha nim tin
dai dẳng”!
Đó chính là ngn lửa mà bà đã truyn cho cháu-sc mnh và nim tin, đ cháu
vững lòng t qua những khó khăn, th thách đầu đi giống như bà đang cố
gắng đây! Giặc Pháp có th phá làng, đốt nhà, nhưng không th dp tắt đi ngn
la, m áp cháy mãi trong lòng bà! Ngn lửa “cha nim tin dai dẳng”, ngn
lửa mang tình yêu thương ca bà, ngn la m nồng như tình bà cháu, ngn la
đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi, ngn la hi vng vào một tương lai tốt
đẹp cho t quc, cho l sng thiêng liêng, cao đp ca c dân tc!
17
Hình nh ngn la to sáng trong câu thơ, nó có sc truyn cm mnh m. Bà
luôn nhc cháu rằng: nơi nào có ngn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn cnh cháu.
- một con người nh bé mà vĩ đại vô cùng! Bà đốt lên ngn la cháy vĩnh
hng trong tim cháu bng ngn lửa mà “lòng bà luôn sẵn”, bà sưởi m lòng
cháu trong sut những năm tháng đã qua bng ngn lửa yêu thương vô bờ!
Bà nângớc cháu đi trên con đường đời bi ngn la ca nim tin bt dit y,
bà truyền cho cháu hơi ấm tình thương và bà sáng mãi như mt ngn
la...Không bao gi tt...!Bn tui cháu biết cái đói, tám tui cháu hiu nhng
câu chuyn ca bà, ri biết chiến tranh đau kh, gian lao ca đất nước, và bt
đầu có nim tin mà bà nhen lên trong cháu...Và gi đây, cháu cảm được...:
“Lận đận đời bà biết my nắng mưa
My chục năm rồi đến tn bây gi
vn gi thói quen dy sm”
Nếu câu thơ đu ch là “Cháu thương bà biết my nắng mưa”, sau một dòng
chy dài ca cm xúc dâng trào chy theo hi ức thơu, thì gi đây u tđã
kết li bng mt s suy ngẫm sâu sa: “Lận đận đi bà biết my nắng mưa”! C
câu thơ dn vào hai t “lận đận”-làm vic gì cũng không thành, cứ long đong,
vt v và k nhọc như thế sut c một đời!
Đó phải là mt khong thi gian dài, một quá trình lâu để cm biết và hiu sâu
sc, lớn lên, có trưởng thành và tng tri thì mi thm thía, thu hiu lm
lắm như thế v cuộc đời bà. Câu thơ tuy không bộc l cm xúc như câu t
trước, song, còn ý nghĩa và sâu xa hơn thế! Ch thương như lặn vào trong trái
tim, trong đáy lòng sâu thăm thm ca cháu, khc sâu vào tâm khm cháu.
Đó là một suy ngm rất “chín” qua cách nhìn nhn ca cuộc đi c độ tui
trưởng thành ca cháu v bà, v những thăng trầm, những “mưa”, những “nắng”,
18
những “lận đận” mà đời bà đã tri qua! Và ri c như thế, bà vn hi sinh âm
thm lng lẽ, “Mấy chục năm rồi đến tn bây gi /Bà vn gi thói quen dy
sớm”. Một s vt v, k nhc mà cũng tr thành thói quen trong cuộc đi
người bà đy gian truân, trc tr y! Bà c lng thm, lng thầm như thế, đ ri:
“Nhóm bếp la p iu, nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sn ngt bùi
Nhóm ni xôi go mi s chung vui
Nhóm dy c nhng tâm tình tui nh”.
Mt ln na, hình nh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhc li cui
bài thơ như một ln na khẳng đnh li tình cm sâu sc ca hai bà cháu. Nhóm
lên bếp la ấy, người bà đã truyền cho đa cháu mt tình yêu thương nhng
ngưi rut tht và nhc cháu rng kng bao gi được quên đi những năm tháng
nghĩa tình, những năm tháng k khăn mà hai bà cháu đã sng vi nhau, nhng
năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau tng c sn, c mì.
“Nii go mi s chung vui” của bà hay là li răng dy cháu luôn phi m
lòng ra vi mọi người xung quanh, phi gn bó vi m làng, đừng bao gi
mt li sng ích k. Bà không ch là người chăm lo cho cháu đầy đ v vt cht
mà còn là người làm cho tui thơ của cháu thêm đp, thêm huyn ảo như trong
c tích, bà tô màu hng lên trênu m trong tuổi thơ cháu, “nhóm dy c
nhng tâm tình tui nh”!
Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã khơi dy, giáo dc và thc
tnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu kn lớn thành người, bà nuôi dưỡng
tâm hn cháu ngay t những ngày còn thơ dại để to gc r cho s hình thành
tốt đẹpi ti tận mai sau! Người bà kì diệu như vy y, rt gin d nhưng có
mt sc mnh kì diu t trái tim.
19
Bà làm cho k nim những năm thángy tr thành bóng tre rợp t đi theo sut
cuộc đi cháu, khiến cháu tht lên trong những xúc đng nghẹn ngào: “Ôi kì lạ
và thiêng liêng-bếp lửa!” Tình thương và lòng nhân ái, bao la của con ni mãi
m nóng, bn b tỏa sáng trường tn. Sut dọc bài thơ, mười ln xut hin hình
nh bếp lửa là mười ln tác gi nhc tới bà. Âm điu những dòng thơ nhanh
mạnh như tình cảm dâng trào lp lp sóng v vào bãi bin xanh thm lòng cháu.
Bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là ngưi quan trng nhất đi vi cháu dù bt
phương trời nào. Bà đã tr thành ngn la luôn cháy mãnh liệt và sưởi m
tim cháu! Đ ri gi đây, khi đang xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Vit
vẫn luôn hướng lòng mình v bà, cm giác nh nhung da diết cn o nhng hi
ức quá đẹp đ, m áp bên bà và hình nh b luôn thường trc trong tâm khm
của người cháu:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chngc nào quên nhc nh
Sm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Bài thơ đưc kết li trong mt câu hi tu từ. Đó là một nỗi đau đáu nh v bà!
Nhà phê bình Văn Giá nhận xét:”Trong mọi trường hp, người đàn bà dưới mái
ấm gia đình thường gn lin vi những gì thưng nht, thiết thân nht. H gi
cho ta có ch tr v sau những thăng trầm, biến c, thành bi đời.
Trong dáng hình bình d, thm lặng khiêm nhường quá đỗi y n giu mt trái
tim ln đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như nhng làn ng ht ra t
ngn la mng, gi nhc, thấm thía tâm can người đọc.” Xa vòng tay chăm
chút của bà đ đến vi chân tri mi, chính tình cm của hai bà cháu đã sưởi m
lòng tác gi trong mùa đông lạnh giá của nước Nga.
20
Đứa cháu nh của bà ngày xưa gi đã trưởng thành nhưng trong lòng vn luôn
đinh ninh nhớ vc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu s không
bao gi quên và chng th nào quên được vì đó chính là ngun cội, là nơi mà
tui thơ của cháu đã được ni dưỡng đ ln lên t đó, trong vòng tay yêu
thương chở che ca bà và trong trái tim cháy bng mt ngn la chan cha
niềm tin, tình yêu thương bà dành cho cháu...
“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thc
gia bài và tiên pht thánh thn”
(Đò Lèn-Nguyn Duy)
Nào, gi thì hãy nhm mt li mt lúc, chúng ta s thy ngay hình nh bếp la
hng và dáng ngưi bà lng l ngi bên... Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sng mãi trong
lòng bạn đc nh sc truyn cm sâu sc của nó. Bài tđã khơi dy trong lòng
chúng ta mt tình cảm cao đẹp đi với gia đình, vi những người đã tô u lên
tui thơ trong sáng ca ta. Nhng k nim thân thiết nht ca tuổi thơ luôn có
sc tỏa sáng, nâng đ con người sut hành trình dài rng ca cuộc đi!
Bà đã hin v trong từng câu thơ chan cha cm xúc, tim bà mang mt ngn la
i m cuc đời cháu.... Trong lòng cháu... Thu ấu thơ... Giờ đây... Và mãi
mãi...
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 2
Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình ng bà lam lũ
vất vả trong bài thơ “ Đò Lèn” của Nguyễn Duy:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
21
Gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “ Bếp lửa”. Nhà
văn khắc họa hình ảnh người bà với những vẻ đẹp tần tảo, đức hi sinh và niềm
tin nh liệt, qua đó thể hiện lòng kính yêu bà sâu nặng. Khơi nguồn kí ức của
người cháu khi trưởng thành nhớ về bà khi anh bắt gặp hình ảnh quen thuộc:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Người bà hiện lên chịu thương chịu khó, cần mẫn nm lửa ny nào nay ùa về
trước mắt người cháu. Hình ảnh bàn tay cần mẫn của người bà đang nâng niu,
vun vén cho ngọn lửa chập chờn, bập bùng trong mỗi sớm mai. In hằn suốt đời
bà là những vất vả, nhọc nhằn, hình ảnh ẩn dụ “ biết mấy nắng mưa” tượng
trưng cho bao nỗi cơ hàn đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Hình ảnh ấy khơi
dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu khiếnng hồi tưởng về bà rõ nét,
chân thực hơn:
“ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
...Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa ngthương bà khó nhọc,”
Khi cháu lên bốn, lên tám đó là những mốc thời gian nguy khó nhất của cuộc
chiến tranh: cái đói hoành hành, giặc tàn phá hậu phương. Bà cưu mang đứa
cháu nhỏ dại, suốt tám năm ròng “ cháu cùng bà nm lửa”. Phải chăng bà luôn
bền bỉ nhen lên hơi ấm của sự sống bền bỉ?
22
Bà không chỉ trở thành người cha, người mẹ của cháu lúc cha mẹ bận công tác
i tiền tuyến mà bà còn là người thầy hết mực bảo ban cháu. Điệp từ “ bà” lặp
đi lặp lại cùng một loạt động từ “ kể chuyện, dạy, chăm cháu học” giúp ta hình
dung bà là người khắc sâu lòng căm thù giặc trong lòng cháu qua những u
chuyện kể và bà bảo ban cháu nên người.
Khó nhọc đời bà thêm trĩu nặng khi nuôi lớn cháu trong hoàn cảnh khốn khó,
đầy thiếu thốn về vật chất. Nhà thơ khắc họa hình ảnh người bà với tình yêu
thương cháu vô bờ bến, có lẽ bà muốn bù đắp phần nào những bất hạnh trong
tuổi thơ đứa cháu bé bỏng. Không chỉ giàu tình yêu thương cháu mà bà còn giàu
đức hi sinh và lòng vị tha:
“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
y viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo n vẫn được bình yên!”
Nén nỗi khổ đau một mình bà chịu đựng tất cả nên lời căn dặn cháu “ chớ k
này, kể nọ” những gian khó ở quê nhà : “ giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, bởi
bà muốn làm yên lòng những người nơi hỏa tuyến để họ làm tốt nhiệm vụ. Lòng
vị tha giúp bà và dân làng tạo thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh
giặc. Bà luôn nuôi dưỡng, ấp một niềm tin kng bao giờ dập tắt, niềm tin nh
bé nhưng dai dẳng, được nhen lên bằng cả tấm lòng, trái tim nhân hậu:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Điệp ngữ “một ngọn lửa” ấm nồng vẫn âm ỉ cháy ngày qua ngày được bà nâng
niu biến hình ảnh bếp lửa trở thành một hình tượng giàu sức tượng trưng:
23
“Nhóm bếp lửa ấp iu nng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt i
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ
Hành động “nm” bếp điệp lại tới bốn lần nhấn mạnh thói quen thường ngày
thành nếp sống của suốt cuộc đời long đong “lận đận” của bà. Nhưng việc làm
giản đơn ấy có sức mạnhlạ. Nó thắt chặt tình nghĩa xóm làng bằng những củ
khoai sắn hay nồi xôi gạo ngọt bùi từ bếp lửa bà đun nấu. Một trời mộng
của cháu từng bị lãng quên nay bên bà những nỗi niềm ấy lại sống dậy khi được
sưởi ấm tâm hồn. Vậy bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa.
Qua dòng ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “ Bếp lửa” gửi gắm lòng biết
ơn bà sâu nặng. Nhà thơ Bằng Việt khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền
với hình tượng người bà vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao cả vừa tạo tính biểu tượng
cho hình ảnh thơ.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 3
Bạn đã bao giờ đắm cm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân
thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi
tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa
đã thấm đẫm trangức tuổi thơ.
Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”.
Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào?
Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? y thử hòa
mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những u tđầu tiên:
24
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn
sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của
người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt i của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu
nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình
yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi tbên cạnh
là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối
mặt với nạn đói năm 1945, vậy trong những mảnh ghép kíc mơ hồ ấy vẫn
lưu giữ mùi ki bếp của bà mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ
nghĩ lại “sống mũi còn cay”.
Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm
qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi
mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt na thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư
vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi
dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên
25
trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người
cháu:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu kng được sống cùng bố mẹ,
nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên
bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày
xưa. Từng việc, từng việc, nhnhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám
năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở,
và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.
Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu
thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được
Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó
nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho
cháu.
Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau
thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quê hoang tàn trong ki lửa
chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta
cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần dựng lại túp lều tranh
26
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bcòn việc bố
y có viết thư, chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo n vẫn được bình yên!”
Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng
yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Thật vậy!
Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm côngc
với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí
và nghị lực kiên ờng. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống, sẵn sàng hi sinhnh riêng để đặt tình chung lên trên.
Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến
và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người
đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đm và hi sinh lớn lao qua hình tượng
người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt
khiến chonh ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ
hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng a
Mấy chục năm rồi, đến tậny giờ
vẫn giữ thói quen dậy sớm
27
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nh
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen
lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin
cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc
động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người ph
nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn
giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.
Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều
điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!”. Mỗi u, mỗi
chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. đứa
cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc.
Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngn lửa làm nhèm
mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi c bếp của
bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm n, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
28
Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa
cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa
quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu
điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.
Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm
hồn người cháu.
Bạch Cư Dị từngi: “Cảm động lòng người trước hết kng gì bằng tình cảm
và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp
lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng
Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn
có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn
bè, thầy cô.
Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua
những vần ttha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảmc
trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương
của người bà.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 4
Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình
yêu". Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi
dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn
nhân,nghệ sĩ. Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân
Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng
mắng yêu, với hình ảnh "Tay bà khum soi trứng" thì Bằng Việt lại khiến ta nh
mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà
ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: "Bếp lửa".
29
"Bếp lửa" như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông
đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê
hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kniệm ấu thơ bên bếp
lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách
bế trong làn sương buổi sớm được đôi tay bà "ấp iu", chở che. Hình ảnh "Một
bếp lửa ấp iu nồng đượm" gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy
guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lửa cháy lên, sáng lên và
khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà
dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.
Và rồi trong ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ
niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước
phim quay chậm, đó là kỉ niệm "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Lời
thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thương, cùng điệp ngữ
"tu kêu" và câu hỏi tu từ "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?" gợi về nhiều
những u chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe. Trong những năm tháng cha mẹ
đi công tác xa, bà và cháu quấn qt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi
dưỡng, săn sóc "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu học", "bà chăm cháu làm".
Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,...Bên bà, có lẽ
cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.
Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp
lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy,
cháu nhớ như in lời dạy của bà:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
y có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo n vẫn được bình yên"
30
Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnhn trời chiếu
đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu,
phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ
cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao
đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc
và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi k khăn khốc liệt.
Tuy bà kng trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho
tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao
mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn
chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ-ôi địu con trên lưng mà vẫn g
gạo nuôi bộ đội trong "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn
Khoa Điềm,... Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca
người "anhng, bất khuất, trung hậu, đảm đang",...Bà chính là người tiêu biểu
cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay...
Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luônsẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
"Bếp lửa bà nhen" là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng
củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ
sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ
dành cho cháu, đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha. "Ngọn lửa chứa niềm
tin dai dẳng" là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt,
bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nm bếp lửa mà còn là
người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại.
31
Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng a nhưng bà vẫn "giữ
thói quen dậy sớm"- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với
cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"
Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nm lên tình yêu thương
bà đã dành cho cháu, nm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nm
lên tình đoàn kết với hàng m, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả
những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa bà nhen, cháu đã khôn ln
cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,...Từ bếp lửa thiêng
liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi
dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu.
Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về
bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Lời thơ của Bằng Việt ththỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy.
Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân
trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những
người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 5
32
Nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, những năm tháng
xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc nhà thơ viết nên bài thơ Bếp
Lửa và những cảm nhận về tình bà cháu thấm thía, sâu sắc thiêng liêng. Và hình
ảnh người bà đã sống mãi trong lòng người đọc về một người phnữ Việt Nam
âm thầm hi sinh, yêu thương cao cả và là ngọn lửa bất diệt của niềm tin cho
người cháu yêu thương của mình, ki dậy trong lòng chúng ta niềm xúc động
nghẹn ngào về tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn sương sớm, ấp iu nồng đượm gắn
liền với hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa
để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương. Người bà hiện lên với hình ảnh chắt
chiu, cẩn thận tích góp từngi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn
lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu đem tấm lòng già cả
của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước
để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua
lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nh. Bà giống n
người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi
nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt
phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà.
Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ,
đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ k
này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu
nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu
phương vững chắci tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống, sẵn ng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình
chung lên trên, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu
kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như dã thổi đến tâm hồn
33
người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình
tượng người bà.
Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho
hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm
điểm sáng của toàn bbài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà
là người nm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngn lửa ấy cháy sáng
bất diệt. Chính bà đã nm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, nng hơn hết bà
cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những
phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm
đoàn kết với tình làng nghĩa xóm. Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa
của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kniệm
ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi
có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn kn nguôi nhắc
nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.
Như vậy, bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, nhà thơ Bằng Việt đã khắc
họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất
diệt trongng người đọc. Hình ảnh người bà nhắc ta về tình bà cháu thiêng
liêng, về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam yêu nước sẵn sàng hi sinh lợi ích
cá nhân để vì tinh thần dân tộc.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 6
Bếp lửa của Bằng Việt là chuỗi những dòngức tuổi tđẹp đẽ và hơn hết
những kỉ niệm đó luôn gắn với người bà thân yêu. Chỉ với một bài thơ bảy kh
nhưng đã khắc họa những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của bà. Bà cũng chính
biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hi sinh hết lòng vì con,
cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thực nhất, đầy đủ
nhất qua những dòng thơ thấm đẫm tình yêu thương.
34
Hình ảnh bà trong dòng kí ức tuổi thơ cháu hiện lên thật gần i, thiêng liêng
với tình yêu thương vô bờ, sự che chở và bao bọc. Cứ thế qua từng câu thơ,
từng con chữ những đức tính, sự hi sinh của bà được khơi ra với lòng biết ơn, tự
hào sâu sắc của tác giả.
Ba câu thơ đầu với hình ảnh bếp lửa là mạch nguồn khơi dậy hình ảnh người bà
thân thương: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Bếp lửa với ánh lửa lung linh, bập bùng
vào sáng sớm gợi nên điều gì đó thật thân thương, gần gũi. Hai chữ ấp iu vừa
diễn tả được cái khéo léo trong công việc nhóm lửa của bà, nng đồng thời còn
cho thấy tấmng bao dung, nhân hậu toát ra từ những cử chỉ ấy. Từ hình ảnh
bếp lửa, bằng tình cảm chân thật, tự nhiên tác giả đã bật lên: Cháu thương bà
biết mấy nắng mưa. Đó là câu tdồn nén biết bao tình cảm chân thành, ẩn dụ
nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn cực nhọc trong đời bà. Đồng thời đó
cũng là nỗi ám ảnh khôn nguôi day dứt trong lòng Bằng Việt. nh ảnh bà hiện
lên thật nhẹ nhàng, u lắng và những phẩm chất đẹp đẽ của bà lần lượt hiện ra
rõ nét ở những khổ thơ tiếp theo.
Bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương, chịu khó. Trong những năm cả dân tộc
ta sống trong đói kém, cái đói đã giết chết biết bao nhiêu người dân Việt Nam,
nhưng bà vẫn tần tảo, nuôi cháu khôn lớn. Quá khứ về nhữngm đói kém ấy
hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết qua cách thể hiện ngôn từ đặc sắc đói mòn đói
mỏi và hình ảnh đầy sự ám ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Mỗi lần cháu
nghĩ lại vẫn còn cay cay nơi đầu sống mũi. Khổ thơ không một lần nhắc đến bà,
nhưng vẻ đẹp của bà vẫn hiện hữu, vẫn thật lớn lao, đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự
hi sinh thầm lặng. Bà tảo tần nuôi nấng, bà là cây cổ thụ to lớn che chở cho cháu
và cả gia đình vượt qua những giông tố cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé mà ý chí, sự
hi sinh lại lớn lao vô cùng.
35
Bà không chỉ tảo tần, chăm lo cho gia đình mà bà còn là người nuôi dưỡng, bảo
ban cháu khôn lớn trưởng thành. Bà vừa làm bà, va làm cha mẹ bao bọc, che
chở cho cháu. Tám năm cha mẹ xa nhà, bận công tác ở chiến khu là támm
cháu được sống trongng tay yêu thương, ấm áp của bà. Bà với một tình yêu
thương thầm lặng, mỗi ngày đều bảo ban, dạy dỗ cháu: Cháu ở cùng bà, bà bảo
cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Chính bà là là người đã nuôi
dưỡng tâm hồn cháu bằng việc kể những u chuyện ở Huế để nhắc nhở cháu về
truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát của dân tộc. Bà còn bảo
ban, dạy cháu từng chút từng chút một để cháu ngày một khôn lớn trưởng thành
trong suy nghĩ và nhânch. Hàng loạt các từ bà bảo, bà dạy, chăm đã diễn
tả sâu sắc tình yêu thương bao la, sự chi chút hết mình bà dành cho cháu.
Không chỉ vậy, bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là hậu phương lớn đ
con cháu yên tâm công tác. Mặc kệ Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, chiến
tranh có tàn phá khốc liệt hơn nữa, bà vẫn vữngng trước những thử thách:
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có
viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Câu thơ như lời bà
i, giản dvà chân thật biết nhường nào, nhưng nó có sức lay động lớn đối với
mỗi chúng ta. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ dại, dạy dỗ cháu học
hành mà bà còn là hậu phương vững chắc cho những đứa con ngoài chiến
trường yên tâm công tác. Hình ảnh bà gợi nhắc ta nhớ đến người bà trong bài
thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay,
bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ bà tôi đi bán trứng
ga Lèn. Trước những bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn vững vàng, tình yêu
thương, sự bao dung và tấm lòng hi sinh chính là sức mạnh giúp bà giúp
chống lại mọi khó khăn, gian khổ.
Đẹp đẽ nhất, thiêng liêng, cao cả nhất chính bà là người đã khơi dậy những mơ
ước, hi vọng, bà trao truyền sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ
36
sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Lòng bà luôn ủ sẵn một niềm tin dai
dẳng, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của kỉ niệm, tình yêu thương sẽ nâng bước,
soi sáng cho cháu trên suốt các chặng đường đời. Cùng với hình tượng “ngọn
lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”,
“chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ n
Việt Nam giữa thời chiến. Ở khổ thơ tiếp theo tác giả sử dụng hàng loạt điệp từ
nhóm: Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm
niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo sẻ mới chung vui/
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nh. Từ hành động, bà đã nm dậy những gì
thiêng liêng, cao quý nhất của con người: đó là tình yêu thương, niềm vui; sự
san sẻ trong k khăn của tình làng nghĩa xóm và đẹp đẽ nhất là những tâm
tình, ước vọng của tuổi thơ. Nhờ có bà mà cháu biết sẻ chia, gắn với m
làng, biết sống ân nghĩa thủy chung với quê hương, đất nước.
Bằng sự kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm,
giọng điệu hồi tưởng, đậm chất suy tư tác giả đã cho thấy chân dung ba thật cao
cả, đẹp đ cũng hết sức thân thương, bình dị. Bà là hình ảnh tiêu tiểu cho
người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo và giàu đức hi sinh. Đồng thời bài
thơ cùng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu thương kính trọng ông bà và
gia đình.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 7
Từ lâu, những phẩm chất tốt đẹp của những người phnữ đã khơi nguồn cảm
c dồi dào, bất tận cho biết bao những người nghệ sĩ để sáng tác lên những bài
văn hay, những bài thơ tuyệt mĩ về người bà, người mẹ. Và Bằng Việt, với bài
thơ "Bếp lửa" cũng đã góp một tiếng thơ tuyệt mĩ ấy về hình ảnh người bà
37
một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương con, thương cháu
tha thiết.
Bài thơ ra đời năm 1963, khi đó Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật bên
Liên Xô, vì thế thi phẩm là dòng hoài niệm về những kỉ niệm thời thơ ấu được
sống trong sự chăm sóc, yêu thương của bà và bên bếp lửa thân yêu. Qua đó,
người cháu thể hiện lòng kính yêu, sự trân trọng, biết ơn đối với bà, cũng là đối
với gia đình, quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh "bếp lửa" - nơi ki nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về
người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia
đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm khi còn nhỏ. dòng
cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh
một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai.
Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay
dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái
bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp
ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người
cháu về người bà người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. "Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình
38
yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng
nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.
Sống trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, biết bao gia đình phải li tán, thậm chí
là sinh li tử biệt. Và Bằng Việt, một đứa trẻ phải sống dưới làn bom, mũi súng
của kẻ thù cũng đã phải chịu cảnh xa cha, xa mẹ từ nhỏ. Bởi cha mẹ Bằng Việt
cũng tham gia cách mạng, vì thế tất cả mọi thứ ở quê nhà, Bằng Việt đều sống
trong tình yêu thương, bao bọc chở che của người bà kính yêu. Cho nên với
Bằng Việt, bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc giàu tình yêu thương,
niềm tin tưởng, ni dạy Bằng Việt khôn lớn, trưởng thành suốt những năm
ròng kháng chiến:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa ngthương bà khó nhọc,
Tu ơi! chẳng đến ở cùng bà...
Bên bếp lửa, bà kchuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ chăm cháu
học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một ch sâu sắc và
thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.
Vì thế , bà trở thành ngọn ngun ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ
ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao qcủa tình cha, nghĩa mẹ,
công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người
cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa ng
thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất
thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu
dành cho bà của mình. Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó
39
khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí
của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ
quên được dù đã lớn khôn:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
y có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo n vẫn được bình yên!"
Nỗi khổ sở, đau đn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm
bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà kng muốn người con ở chiến khu biết được
việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân n. Đó phải chẳng là phẩm
chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc
ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu
phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc
giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn của người bà vẫn
được cháu "đinh ninh" nhớ mãi trongng, được trích nguyên văn được nhắc lại
trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng q biết
bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn
của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên
mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóngp lớn lao của những người phụ nữ ở
40
hậu phương. Cho nên, đến đây chúng ta thấy tấm lòng của người thật rộng lớn
mênh mông kng chỉ dành riêng cho con cho cháu mà còn cho tất cả mọi
người, cho quê hương, đất nước tươi đẹp này.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình,
người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh
bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát.
Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản
chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành
biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng,nh liệt. Điệp ng
“một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của
ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương người bà dành cho
cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống
phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa
còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 8
Chỉ là một tiếng gà nhảy ổ giữa buổi trưa hè, một bếp lửa chờn vờn trong sương
sớm... mà biết bao tình nghĩa. Phải chăng những điều bình dị, giản đơn nhất lại
chính là chìa ka của tâm hồn, của những tình cảm thiết tha, chân thành
không một giá trị tầm thường nào có thể đổi được. Nếu như Tiếng gà trưa đánh
41
thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về bà cùng tình bà cháu cao đẹp thì Bếp
lửa lại làm sống dậy trong lòng Bằng Việt cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm, từ đó
khẳng định tình cảm thương nhớ khôn nguôi của cháu với bà. Theo mạch cảm
c của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được cái ánh sáng của bếp lửa, sự ấm áp
diệu và thiêng liêng của tình bà cháu và đặc biệt ta được thấy chân dung đẹp
đẽ, lung linh sắc màu cổ tích của người bà trong bài thơ.
Bếp lửa là lời tâm sự của người cháu ở nơi xa nhớ về bà của mình với những kỉ
niệm về tình bà cháu, thể hiện sự kính yêu, ngưỡng vọng và suy ngẫm sâu sc
về bà. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kì
niệm nâng lên thành suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về nhữngm tháng tuổi
thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà với bao nỗi vất
vả và tình yêu thương, trìu mến dành cho cháu; từ kỉ niệm, người cháu đã
trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà lẽ sống giản dị mà cao q của
bà và mong muốn gửi niềm nhớ thương sâu sắc về với bà.
Bếp lửa với bao ấm áp đã trở thànhnh ảnh ki nguồn cho dòng cảmc của
nhân vật trữ tình - người cháu. Bếp lửa khơi gợi, nhen lên, lan tỏa và cháy mãi
trong, dòng hồi tưởng về kí ức tuổi thơ, tỏa sáng chân dung của người bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Cụm từ "một bếp lửa" vang lên trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Giữa cái
sương sớm buốt lạnh, bếp lửa hiện lên làm chủ không gian trởn thật ấm áp.
"Chờn vờn sương sớm" không chỉ gợi tả hình ảnh bếp lửa quen thuộc trong mỗi
gia đình Việt Nam những sớm mai còn gợi lên hình ảnh bếp lửa chập chờn
trong kí ức tuổi thơ. Từ "ấp iu" đã gợi tả đôi tay kiên nhẫn, khéo léo và tấmng
42
rộng mở của bà. Các từ láy "chờn vờn", "ấp iu" đã kết nối và diễn tả chính xác
ng cảmc được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ sự khơi nguồn này, cả một
quá khứ đầy ắp kỉ niệm đã thức dậy trong tâm tưởng và suy ngẫm của người
cháu.
Hình ảnh người bà qua dòng hồi tưởng, suy ngẫm của nhân vật trữ tình hiện lên
với bao nỗi vất vả và phẩm chất đáng quý. Nhớ về bà, cháu nhớ về những ức
tuổi thơ với bao kniệm sống bên bà:
Lên bốn tuổi cu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Khổ thơ ngắt nhp ngắn và không ổn đnh; càng về cuối đoạn, nhịp thơ càng
chùng xuống như nhấn mạnh sự khó khăn, cơ cực mà hai bà cháu đã từng trải
qua. Hồi từ hiện tại, những kỉ niệm đã đưa cậu bé năm nào về với quá, khứ cùng
với những cảm giác rất thật "Nglại đến giờ sống mũi còn cay!". Cái cay xè
i sống mũi của hai mươi năm về trước lại bất ngờ ập đến. Phải chăng quá khứ
trong cháu vẫn còn rất sâu đậm, vẹn nguyên và chẳng thể phai na nên nó đã
hiện, lên thật sống động.
Có thể nói, tuổi thơ của cháu gắn liền với giai đoạn lịch sử đau thương mà oai
ng của dân tộc. Tuổi thơ ấy có cái gian khchung của thời kháng chiến chống
Pháp. Trong hoàn cảnh "mẹ cùng cha bận công tác không về", cháu đã sống
trong tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, dạy dỗ của bà:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
43
dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Trong hoài niệm về tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi quen thuộc luôn gắn liền
với hình ảnh người bà thân thương. Nhớ về bà là người cháu nhớ về bếp lửa,
hình ảnh bà và bếp lửa luôn gắn bó song hành. Nỗi nh da diết của người cháu
với bà cũng chính là nỗi nhớ thương gia đình, quê hương, đất nước.
Từ sự hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ, về bà và bếp lửa, người cháu đã suy
ngẫm về cuộc đời, lẽ sống của bà. Trong hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa
gần i, quen thuộc luôn gắn liền với người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó:
Lận đận đời bà biết mấy nắng a
Mấy chục năm rồi đến tận y giờ
vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, quen thuộc, cháu nhận ra những điều kì lạ và
thiêng liêng. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao tình yêu thương đã nuôi lớn cháu,
nhóm dậy những tâm tình tuổi nhỏ.
Không những vậy, bà còn là người phụ nữ giàu tình yêu thương, đức hi sinh.
là hình tượng sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Bà lặng
lẽ, âm thầm hi sinh cho Tổ quốc:
Bố ở chiến khu, bcòn việc bố,
y có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo n vẫn được bình yên.
Trong những năm tháng chiến tranh, cháu lớn lên, trưởng thành trong tình yêu
thương, đức hi sinh cao cả, sự đùm bọc, che chở của người bà:
44
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luônsẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Hình ảnh bếp lửa đã được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa của tình yêu
thương với ý nghĩa thật sâu sắc. Nếu bếp lửa là biểu hiện cuộc sống âm thầm,
lặng lẽ của hai bà cháu thì ngọn lửa rộng hơn, nó là sức sống tình yêu, là niềm
tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu.
Cuộc đời bà "lận đận" mấy chục năm, bà lặng lẽ hi sinh cho cháu, cho mọi
người:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nh
Điệp từ "nm" được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ đã khẳng định bà không
chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong người
cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực, niềm tin, giúp cháu vững bước
trên đường đời. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất
còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong
truyện cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy,
khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để mai này cháu khôn lớn thành
người. Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân
Quỳnh:
Tiếng trưa
45
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Với người cháu, ngọn lửa ấy thật kì lạ, thiêng liêng:
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!
Trong cả bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười ln tác giả nhắc
tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào của người
cháu đối với bà. Hình ảnh bếp lửa thiêng liêng, kì lạ vì bếp lửa luôn hiện hữu,
gắn , song hành cùng với hình ảnh người bà, gắn liền với những năm tháng
tuổi thơ của cháu. Bà và bếp lửa đã nuôi lớn cháu, thắp sáng niềm tin và ước
mơ, trở thành điểm tựa tinh thần của cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ sâu thẳm
tâm hồn người cháu, thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của cháu với bà cũng
như với quê hương, đất nước.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 9
Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức hi sinh cao cả, bài t
Bếp lửa của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi
thơ mỗi chúng ta. Hình ảnh người bà đôn hậu cùng với nh tượng ngọn lửa là
hai nét vẽ biểu cảm của một hồn thơ đẹp được thể hiện một cách hàm súc qua
đoạn thơ sau:Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen ... Ôi kì lạ và thiêng liêng -
bếp lửa!
Từ "bếp lửa" đã biến thành "ngọn lửa". "Bếp lửa bà nhen" mỗi sớm mỗi chiều,
ngọn lửa "lòng bà luôn ủ sẵn", ngọn lửa của "niềm tin" về ấm no, hạnh phúc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
46
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Vần thơ mang m nghĩa sâu sắc ngợi ca những phẩm chất cao cả ca người bà,
cũng là của người phụ nữ Việt Nam. Ngọn lửa của tình thương mà bà"luôn
sẵn" để dành cho con cháu. Ngọn lửa của niềm tin mãnh liệt, bền bỉ "dai dẳng"
suốt cả đời bà, được "bà nhen" mãi mãi sáng bừng bất diệt.
Lòng bà, tình thương của bà sáng bừng ngn lửa ấy. Nghệ thuật sử dụng điệp
ngữ: "rồi sớm rồi chiều", "bà nhen... bà ủ sẵn", "một ngọn lửa... một ngọn lửa..."
có giá trị thẩm mỹ đặc sắc thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn đối với đức hi
sinh, tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.
Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của hà, của mẹ là nguồn nhiên
liệu vô tận làm bừng sáng ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Bảy câu ttiếp
theoi lên những suy nghĩ của cháu đối với hà và việc hù nhóm lửa. Phần đầu
bài thơ có u: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa", ở đây, cháu lại thổ lộ:
"lận đận đời bà biết mấy nắng mưa". "Lận đận... nắng mưa" là một đời vất vả,
tần tảo, khó nhọc.
Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Chữ "lận đận" thể hiện tấm lòng đôn hậu và
đức hi sinh của bà.Bà là chỗ dựa, là mái ấm tình thương của con cháu. Thức
khuya dậy sớm vì hạnh pc của cháu con đã trở thành "thói quen" của bà trong
"mấy chục năm", trong cả đời bà:
Mấy chục năm rồi, đến tậny giờ
vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Cảm xúc dâng trào khi nhà thơ nghĩ về bà, về bếp lửa, và việc bà nhóm lửa. Một
sự tổng kết và ngợi ca về đời bà, tình bà. Bà là suối nguồn của ấm no và hạnh
47
phúc, là tình thương của tuổi thơ. Bếp lửa mà bà nhen nm một đời người là
ngọn lửa "kì lạ và thiêng liêng".
Điệp ngữ: "nm bếp lửa", "nm niềm yêu thương", "nhóm nồii gạo mới",
"nhóm dậy cả những tâm tình"... bốn lần vang lên qua vần thơ cảm thán đã khắc
sâu hình ảnh người bà, tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý ca người ph
nữ Việt Nam, biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn vô hạn. Ý tưởng sâu sắc đẹp đẽ.
Ngôn từ biểu cảm. Hình tượng người bà và bếp lửa kì vĩ, tráng lệ:
vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nh
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa
Các từ ngữ "ấp iu nồng đượm", "yêu thương", "ngọt bùi", "chung vui" thể hiện
sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm
vui, sự no ấm hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã "nm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ", nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những
khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương
ấm áp.
Nhà thơ sung sướng tự hào thốt lên: "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!Đã
nhiều thơ ca viết thật hay về người mẹ hiền. Nhưng chưa có nhiều bài thơ viết
về bà, và đạt tới độ đặc sắc như bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.Hình ảnh người
bà đôn hậu được thể hiện qua hình tượng "bếp lửa", "nm lửa" và "ngọn lửa"
rất gần i với tâm hồn mỗi chúng ta.
48
Bà thương cháu bao nhiêu thì cháu lại kính yêu và biết ơn bà by nhiêu.Bài thơ
Bếp lửa đã nói lên thật xúc động, trong sáng một nét đẹp trong gia đình Việt
Nam, trong đạo lí dân tộc, và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Câu thơ: "Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa" đã trở thành câu thơ trong trí nhớ nhiều người
gần xa…
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 10
Bằng Việt là nhà thơ cùng lứa với c nhà thơ trưởng thành trong thời k chống
Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt hàm chứa những tình cảm rộng lớn, yêu thương.
Tiêu biểu cho hồn thơ ông là bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963 khi tác giả
đang là một sinh viên ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, xa
người thân, nhữngnh cảm về tuổi thơ có điều kiện được đơm mầm, nảy nở,
được tác giả chiêm nghiệm dài lâu. Hình ảnh người bà kính trong dòng cảm xúc
miên man của người cháu được thể hiện qua những dòng thơ nhớ thương da
diết, không nguôi.
Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương, của sáng tạo nghệ thuật, ai cũng
muốn viết về tuổi thơ của mình nhưng vì thơ viết về kỷ niệm bao giờ cũng được
bao bọc không khí nhớ thương, tiếc nuối những chuyện đã qua nên thường lan
man, khó tìm thấy những chi tiết đặc sắc để lay động tâm hồn bạn đọc. Bằng
Việt cũng viết về kỷ niệm ấu thơ thuở hoa còn là nụ nhưng nhà thơ đã chọn cho
mình một chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng không phải ai cũng nhận ra: “Bếp
lửa”. Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh
người bà thương yêu một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn
lay động:
“Một bếp lửa chơi vơi sương sớm.
Một bếp lửa ấp iu nồng đưm.
49
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Lúc nào cũng vậy, bỏ qua kng gian, bỏ qua thời gian, còn lại trong nhân vật
người cháu không gì khác ngoài hình ảnh nời bà. Đầu tiên, ký ức đưa nhân
vật trở về những năm đói mòn đói mỏi. Cái đói quay đói quắt đã ám ảnh trong
văn chương một thời của ta, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn của Ngô Tất
Tố), những trăn tr về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi
nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc
đói nghèo trong rơm rợ… ”
Tuy nhiên, i đói ở đây chỉ là cái cớ để tác giả nhớ về một tuổi thơ cay cực,
thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mi
Bố đi đánh xe khô rạc người gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Là vì khói, vì khó nhọc hay vì những tình cảm của một thời chia xa? Qua đó,
nhà thơ khẳng định tuổi tmình dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ
thiếu thốn nghĩa tình.
Từ mùi ki bếp, nhân vật trữ tình lại nh về tiếng chim tu trong suốt tám
năm ròng trong tuổi thơ. Đoạn thơ không khỏi khiến ta chạnh nhớ về “Tiếng
chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: Cũng cha già, những kỷ niệm về một thời thiếu
nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một tiếng chim u uẩn,
không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bưc vào thơ như một chi tiết
để thêm yêu bà mà thôi:
50
“Cháu cùng bà, bảo cháu nghe
dy cháum, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu ơi! Chẳng đến ỏ cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Cònhơn với những chi tiết tự sự xúc động như thế? Câu thơ giản d lời ăn
tiếngi hàng ngày, không trau chuốt nhưng mới thực sự là thơ bởi đó là tiếng
i của tình cảm, của yêu thương. Bà luôn bên cháu dạy dỗ, chăm sóc cho cháu
lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu. Vậy mà bây gi cháu
cũng đi xa, để bà một mình k nhọc:
“Tu ơi! Chẳng đến cùng
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Đặc biệt, hình ảnh người bà
bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm đau thương,
vất vả. Mặc kệ “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho chiến tranh tàn phá,
kho đau chất chồng, bà lúc nào cũng “đinh ninh” dặn cháu: “Cứ bảo nhà vẫn
được bình yên!”. Bà là hiện thánh cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương
lớn. Dẫu có thế nào đi chăng nữa thì không có thể lay chuyển được niềm tin
dai dẳng” của bà vào tương lai được:
“Rồi sớm rồi chiều lại bén la bà nhen
Một ngọn lừa lòng bà luônsn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
51
Không còn là bếp nữa rồi, bây giờ ngọn lửa luôn cháy trong lòng bà. Có ngưi
i, cứ quay ngược trái tim, là tấmng, tâm hn cửa bà như bao người Việt
Nam đó. Một niềm tin bất diệt lạ lùng. Chính đức tin của bà ủ sẵn đã được
truyền sang cho cháu một cách tự nhiên như truyền lửa cho thế h mai sau.
Làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân
vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn vi nhau qua giữa các
yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ.
Chính sự kết hợp nhuần nhị, độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật gần i,
những mảng ức tuổi thơ lại hiện về sống động và chân thật, giản dị.
Qua dòng hồi tưởng tinh tế đó nhà thơ tr về với hiện tại cũng là để nhớ về bà
nhiều hơn, thương bà nhiều hơn:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa.
Mấy chục năm rồi đến tận y giờ
vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Nhà thơ khẳng định chắc chắn bếp lửa là hoá thân cụ thcủa bà và bà cũng
chính là bếp lửa sưởi ấm tâm hồn nhà thơ mà bà luôn nhóm:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nng đưm
Nhóm niềm thương yêu khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nh
Tình cảm của bà thật bao la, giản dị như khoai sắn và cũng ngọt bùi như khoai
sắn. Cuối cùng, nhà thơ khẳng định: “Ôi! kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa”, một
câu thơ có sức khái quát cao. Qua thời gian, qua bom đạn, bếp lửa vẫn bậpng
52
cháy . Nhưngn hết, nó còn là biểu tượng cho những tình cảm thiêng liêng,
những ân tình thuỷ chung trong cuộc đời mỗi người.
Hình ảnh của người bà, tình yêu của bà, niềm tin của bà qua hồi tưởng và suy
ngẫm của đứa cháu đã lớn, suy rộng ra là hình ảnh, tình yêu của quê hương, đất
nước đối với ta. Tình cảm trân trọng, yêu q đối với bà là biểu hiện cụ thể tình
yêu lớn của mỗi người đối với nơi mình sinh ra và lớn lên. Ai cũng có một tuổi
thơ như thế. Vì vậy mà bài thơ đã đưa ta về với những ngày xưa tưởng đã ngủ
yên trong quên lãng.
Phân tích hình ảnh người bà và ngọn lửa trongi Bếp lửa
Tui thơ của mi một con người đu hin din nhng hình nh rt thiêng liêng
đáng quý trong ức, đó thể bóng dáng ca người m vi nhng li ru
ngọt ngào, người cha vi nhng li dy sâu sc,... Và đi vi c gi Bng Vit
thì đó là hình ảnh người bà và bếp lửa đầy thiêng thiêng, đã nm sâu trong c
tui thơ, vi nhng nh cm kính yêu, mn nng chan cha ca người cháu
dành cho bà trong bài thơ Bếp la.
Tác gi Bng Vit, tên khai sinh là Nguyn Vit Bằng, sinh năm 1941, qti
Ni, ông mt trong những nthơ trưng thành trong kháng chiến chng
M. Phong cách t của Bng Vit giàu những suy ng, triết lun sâu sc,
giọng thơ trm bng, tâm tình, th thỉ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963,
khi tác gi chuyến đi du hc c ngoài, rời xa quê hương. Tác phẩm được
in trong tập Hương cây - Bếp la (1968) cùng chung vi tác gi Lưu Quang Vũ.
Xuyên sut một bài thơ dài như thế l hình ảnh người bà bếp la hin lên
nét thiêng liêng nht trong c, vi nhiu nhng suy ngm ca c gi
trong đoạn thơ sau:
53
"Ri sm ri chiu, li bếp la nhen,
Mt ngn la, lòng bà luôn sn,
Mt ngn la cha nim tin dai dng...
Ln đận đi bà biết my nắng mưa
My chục năm rồi, đến tny gi
vn gi thói quen dy sm
Nhóm bếp la p iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sn ngti,
Nhóm nim xôi go mi, s chung vui,
Nhóm dy c nhng tâm tình tui nh...
Ôi k l và thiêng liêng - bếp la!"
Trong 3 câu thơ đu, hình ảnh người bà hiện lên qua hành đng quen thuc, "ri
sáng, ri chiu" nhóm lên bếp la hng vi nim tin k l. Hình nh bếp la
nhen 2 tầng ý nghĩa, đu tiên lớp nghĩa t thc, ngn la ca chính
nguồn ánh sáng, hơi ấm đ s dụng trong gia đình, vi lp nghĩa n d thì
hình nh ngn la y lại chính tượng trưng cho một nim tin lc quan, bt
dit, những ước mơ, tình cảm người bà dành cho cháu lúc nào ng m
nng và sáng như ngn lửa i góc bếp của bà, nơi luôn sn. Bếp ca bà
chng bao gi ngui lnh, mà luôn hình nh ngn lửa đ rực đang bp bùng,
tựa ntấm ng ca người bà mãi dành cho ni cháu thân yêu, mong cháu
sm ngày tr v, vi mt nim tin vng chc rằng đất nước ri đây sẽ li a
bình, cháu lại bên bà n những ngày còn thơ u, cùng bà nhen lên bếp la
nng đượm m áp.
Trong những u thơ tiếp, người cháu đã có nhng suy ngm v cuc đời ca bà.
nuôi cháu nh t m lên 4, cuộc đời bà vn chất đy những k khăn cc
nhc, hin thân ca những người ph n chịu thương chịu khó, tn to
sớm trưa, hết ni con nay li ni cháu c nthế "Lận đận đi biết my
54
nắng mưa", mà chưa một ln than khó nhọc. chăm chỉ, thc khuya dy
sm, thói quen ấy dường như đã ăn sâu vào tâm hn ca bà "my chc năm ri,
đến tn bây giờ", chưa một lúc nào quên nhóm lên ngn la hng i c
bếp, nấu cho gia đình nhng bữa ăn gin d, khoai sắn nhưng đy p tình yêu
thương, bo bc. Bếp la nhóm mi sm chiu hin thân cho nhng tình
cm chan cha ca người bà dành cho cháu, s đoàn kết s chia ln nhau
trong gia đình bếp la ấy ng chính khi ngun cho nhng giấc mơ trong
tâm hn của người cháu. Bếp la ấy tưởng thân quen và bình d nhưng li
mang c nhng gtr và ý nghĩa cực k thiêng liêng sâu sc Bng Việt đã
phi tht lên "Ôi! K l và thiêng liêng-Bếp lửa". Đúng n vy, qua nhng
ngc của người cháu, ta có th nhn ra rng, bếp lửa và người bà là nhng
ức đáng q nhất trong lòng người cháu, bà giống n người gi la và
truyn la cho cháu. Ngn la trong tâm hn y tinh thần u qhương, đt
c sâu sc, nỗi khát khao được ra tin tuyến giành li t do cho dân tc, cho
bà. Và hình nh bếp la ca bà c bp bùng my chc năm trời y chính là nim
tin bt dit ca người bà cũng là của người cháu v một tương lai đất nước tươi
đẹp n, v một tương lai bà cháu đoàn t, v lại bên nhau nnhững ngày thơ
bé.
Bng nhng hình nh gin d, trong sáng và thân thuc kết hp vi giọng thơ
như th th tâm tình, nh ảnh người bà ngn la trong ký c ca tác gi đã
hin lên vi mt tình cm m áp, trân trng. Hình nh ấy ng mang nhiu ý
nghĩa sâu sắc và triết lun v nim tin chiến thng, v tình yêu thương tin tưng
của người bà dành cho đứa cháu đang chiến trường xa xôi, đó là nhng tình
cảm cao đp và trân quý nht.
Cảm nhn hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
55
Hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những
hình tượng đẹp, niềm cảm hứng sâu sắc về người bà hiền hậu, phẩm chất tốt
đẹp.
Hình ảnh "bếp lửa" là hình ảnh chủ đạo xuyên suốt bài thơ, là nơi khơi nguồn
cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu dù
không bên cạnh bà nhưng tâm trí luôn hướng về quê nhà, nơi gia đình, có bà
và có cả những kỉ niệm tuổi thơ khi còn nhỏ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa "chờn vờn sương sớm" là hình ảnh giàu chất tả thực, gợi lên
hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm
mai. Bếp lửa ngày ngày hồng đỏ rực là nhờ có bàn tay của bà và nồng đượm sự
ấp ủ, bàn tay ấy dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà.
Đồng thời, hình ảnh cái bếp lửa ấy cũng ám ảnh và theo suốt trong tâm trí n
văn, hết mực trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương
của người cháu về người bà - người nm lửa trong mỗi buổi sớm mai. Người
bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, tuy khó khăn nhưng luôn quan tâm cháu hết
mực lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm, lặng lẽ
p nhóm lửa với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấmng mình, muốn
đem những thứ tốt nhất để ni dưỡng cháu. Đến những khổ thơ tiếp theo,
người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu
còn nhỏ.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
56
dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa ngthương bà khó nhọc,
Tu ơi! chẳng đến ở cùng bà...
Bà giống như người mẹ hiền, thay vai trò của mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc và
bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm
của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che
chở của người bà. Bà chính là tổ ấm, nơi che chở vững chắc, ch dựa thoải mái,
bình yên cho cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn ngun ấm áp, vỗ về, ni nấng,
chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của cha
mẹ. Cho nên, người cháu luôn khắc ghi tình cảm thiêng liêng của bà: "Nhóm
bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chữ "thương" đã tất cả tình yêu thương, sự
kính trọng và niềm biết ơn sâu sắc, tình cảm mà người cháu dành cho bà. Bà
phải khổ cực biết bao trong những năm đất nước có chiến tranh, những k
khăn, ác liệt, và cả bao mất mát:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
y có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo n vẫn được bình yên!"
Bà dù chịu khổ nhưng không muốn cho con biết. Đó phải chẳng là phẩm chất
cao quí của những người mẹ Việt Nam anhng trong chiến tranh. Sự hi sinh
57
thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn
công lao to lớn nhất, là động lực cho những chiến sĩ mạnh mẽ đối mặt với cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược. Những dòng thơ cuối tuôn trào như nỗic
động tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà cùng bếp lửa hiện lên càng
chân thực và sống động. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến
cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt, bà cũng là người nhóm lên ngọn lửa của yêu
thương để sưởi ấm tuổi thơ cháu trong suốt cuộc đời, k niệm về bà là những k
niệm tuyệt nhất, sâu sắc nhất để rồi có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm
nhà thì cháu vẫn khôn nguôi “sớm mai này bà nm bếp lên chưa?”.
Cảm nhận người bà trongi thơ Bếp lửa
T lâu hình ảnh người ph n đã trở thành mch ngun xuyên sut nuôi dưỡng
văn hc Việt Nam. Áng tv hình nh những người bà, người m luôn chm
đến trái tim nời đc. Hình ảnh người trong “Bếp lửa” của Bng Việt cũng
là mt trong s đó.
“Bếp la” được viết năm 1963, khi tác gi đang hc tại Ucraina. Đây thi
đầu ca cuc kháng chiến chống Mĩ, còn nhiu gian khổ, khó khăn. Bài thơ
được ki ngun t hình nh bếp la gin dị, thân thương m áp, t đó song
hành cùng với người trong sut mch ngun câu chuyện. Qua đó không ch
khc ha hình ảnh người bà, người ph n Vit Nam vi nhng v đp truyn
thng còn th hin nim yêu kính, biết ơn và tình cảm đối với quê hương đt
c của người con xa x.
Hình ảnh người bà dn hin ra trong ngn la những câu thơ đầu:
“Mt bếp la chn vờn sương sớm
Mt bếp la p iu nồng đượm
Cháu thương bà biết my nng mưa.”
58
Bếp la hiện lên: “chờn vờn sương sớm”, là trong làn sương sm mai hay
trong làn sương mờ t ca kí c, ca thời gian cháu đang c ngược ng để
quay v? Ngn la y m nóng bởi tình yêu thương, bi bàn tay và tm lòng p
ca ca người nhóm: “ấp iu nng đượm”. Hai từ “ấp iuđã đủ cho ta thy s
p ủ, nâng niu và yêu thương của người nm la. Và rồi người ấy cũng hin ra:
“Cháu thương bà biết my nắng a”. Hình ảnh người bà với sương sớm”, vi
“biết my nắng a” chẳng phi là hình nh ca người ph n Vit Nam luôn
to tn, chu thương chịu khó, giàu đc hi sinh hay sao?
Nhng ngày chiến tranh lon lc, gian kh khó khăn là nhng k nim không th
nào quên đi vi cháu. Nhưng may mắn thay, trong nhng ngày tháng y, cháu
li có bà:
“M cùng cha công tác bn không v
Cháu cùng bà, bà bo cháu nghe
dy cháu làm, chăm cháu hc
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu ơi! chẳng đến cùng bà.
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”.
Tui thơ của cháu thiếu thốn tình yêu thương ca cha m nhưng li thật đủ đy
bi s bao bc ca bà. Mt loại các hành động được liệt kê: “cháu cùng bà, bà
bo, bà dạy, bà chăm” đã khc ha hình ảnh người to tn nhân hu.
Thương cháu, làm cha, làm m để bo v, dy d nuôi nâng cháu lên
ngưi. Nh bàn tay mà cháu mi được ngày hôm nay. Để ri c cuc
đời bà ch gói trong hai ch “khó nhọc”. Yêu thương vô b chẳng nghĩ cho
mình. Hai ch “khó nhc” cất lên nghe mi xa t và thm thía m sao, nó
c cuộc đi và c tình yêu của đứa cháu. Đ ri li chuyn thành nim
59
thương, hối hn khi cháu gi đây chng th cnh bà ch th nhn gi:
“Tu hú ơi chẳng đến cùng bà”.
Đặc bit hình ảnh người bà càng được khc ha sâu hơn khi:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy ri
Hàng xóm bn bên tr v lm li
Đỡ đn dng li túp lu tranh
Vn vng lòng bà dặn cháu đinh ninh
"B chiến khu, b còn vic b,
y có viết thư chớ k này, k n,
C bo n vẫn được bình yên!””
hin lên mt hậu phương vng chắc. Nơi hậu phương du vn phi chu
nhng tổn thương mất mát nhưng “vẫn vững lòng” và “dặn cháu đinh
ninh”: “Cứ bo nvẫn được bình yên”. Câu nói gin d, thân thuc ca khu
ng thường ngày thm thía bao nhiêu. Những người m Vit Nam là thế, h
không trc tiếp ra trận nhưng h người đã sinh ra những anh ng, là ni
chu gt git nước mắt riêng đ con lên đường, và quê nhà vn không
ngi lo nghĩ cho ni ngoài tin tuyến. Nhng chiến công sau này ca dân
tộc, đã in bóng bao s hi sinh thm lng ca nhng bà m Vit Nam anh ng
như thế.
Và ri, hình nh bà nhp vào ngn lửa để sáng lên:
“Ri sm ri chiu li bếp la nhen
Mt ngn la, lòng bà luôn sn
Mt ngn la cha nim tin dai dng...”
T “bếp lửa” cụ th ca câu trước sang “ngọn lửacâu sau đã mang tm khái
quát biểu tượng ln hơn rồi. Bếp la bà nhen lên mi sm mi chiu không
60
phi ch bng than, ci t nhiên còn bng c tm lòng bà “luôn sẵn”, “cha
nim tin dai dẳng”. Ngọn la kia có th cháy sut tuổi thơ của cháu chính bi vì
được nm lên bi ngn lửa yêu thương, bi nim tin trong sáng và nhân
hu trong ng bà. không ch người nhóm la, gi lửa n người
truyn la cho cháu, cho thế h mai sau.
T đó mà tác giả suy ngm v bà, v cuc đời bà:
“Lận đận đời bà biết my nắng mưa
My chục năm rồi, đến tny gi
vn gi thói quen dy sm
Nhóm bếp la p iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sn ngti
Nhóm ni xôi go mi s chung vui
Nhóm dy c nhng tâm tình tui nh
Ôi kì l và thiêng liêng - bếp lửa!”
Cm t “biết my nắng a” được lp lại nđ nhc nh li nhng gian khó,
vt v phi chịu đng. T đó làm sáng lên nhng phm cht, v đẹp cao
quý ca bà. T bàn tay ca đã nm lên “bếp la p iu nng đượm” sưởi m
cháu sut mt thi tui thơ. T bàn tay bà đã nhóm lên “niềm yêu thương khoai
sn ngt i”, rất gin dị, đơn thấm đượm ân tình. T bàn tay bà tình
làng nghĩa xóm thêm gắn bó, yêu thương: “Nhóm ni i go mi s chung
vui”. Và chính bà đã nhóm lên ưc mơ, khát vọng và tương lai ca cháu sau này.
Đip t “nhóm lại đu mi câu thơ đ khc ha hình ảnh người bà: người
nhóm lửa, người truyn ti lan tỏa yêu thương, ân nghĩa, ước và niềm tin
cho xung quanh cho cuc sng. Để ri Bng Vit phi thốt lên: “Ôi! là
thiêng liêng bếp la”. kì l và thiêng liêng vì nó đơn mà thm tình,,
gin d mà có th nm lên bao tình nghĩa, ước mơ.
61
Nh ngn la ca bà, gi đây, cháu đã nơi vùng trời ước “Có ki trăm
tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ng cuc sống đ đầy và tiện nghi nhưng
trong lòng vn khôn nguôi nh v bà, khôn nguôi câu hi: Sớm mai này bà
nhóm bếp lên chưa?”
Những câu thơ gin d, d hiểu đã khắc ha mt ch chân thc sâu sc hình
ảnh người bà, ni m Vit Nam to tn, chu thương chịu khó, giàu đc hi
sinh, nim tin ngh lực. Như hình ảnh người trong “Tiếng trưa(Xuân
Qunh), trong “Đò Lèn” (Nguyễn Duy), đó chính ci ngun sc mnh ca
mọi đa con và mi chiến thắngđại ca dân tc.
Bài thơ khép lại trong i m và ánh sáng. Ngn la ca người năm xưa đã
cháy trong tâm hn thế h độc gi t bao gi
Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
“Thương cháu nh ngày xưa
Dãi du cui ch nắng mưa sáng chiu
Biển đời đơn đc mái chèo
Thuyn bà chống đ trăm chiềuo giông”
(“Bà ơi”, Phạm Trung Dũng)
Những câu tbình d của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gi nhắc đến hình nh
ngưi bà cùng s thân thương, gần gũi và thiêng liêng trong mi quan h v tình
cảm gia đình m áp. Tình cảm cao đẹp đó n được nthơ Bng Vit tái hin
đầy c động thông qua bài thơ “Bếp lửa”. Bằng nhng vần thơ mang đm màu
sc ca qkh, hoài nim, hình ảnh người đã xut hin vi s trìu mến,
thân thương.
62
Trước hết, m đầu bài thơ, tác gi đã tái hin hình ảnh người qua những năm
tháng tui thơ thiếu thn và gian khó:
“Lên bốn tui cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mi,
B đi đánh xe, khô rạc nga gy,
Ch nh khói hun nhèm mt cháu
Nghĩ lại đến gi sng mũi còn cay!”
Tác gi đã sử dng t láy “đói mòn đói mỏi” đ miêu t hin thc chiến tranh
đau thương gn lin cùng s thiếu thn và nhc nhn - h ly ca chính sách cai
tr tàn nhn ca thực dân Pháp đi vi dân tc ta. Trong những năm tháng gian
truân đó, nh ảnh người hin lên gn vi làn ki t bếp lửa: “Chỉ nh khói
hun nhèm mắt cháu”. thời gian qua đi nhưng ấn ng v những năm tháng
đã qua vẫn còn đọng li qua vic s dng t “cay”. Và những kí c sng bên bà
hin v như một thước quay chm:
“M cùng cha công tác bn không v,
Cháu cùng bà, bà bo cháu nghe,
dy cháu làm, chăm cháu hc,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
biết bao mùa tu đi qua, nhà thơ vn không th quên được hình ảnh người
bà tn to nắng mưa. Nhng vần thơnh d nhưng giàu sức gợi đã diễn t thành
công những năm tháng tui thơ trong khói la chiến tranh. Bng ngh thut lit
kê, tác gi đã khơi gi thành ng nhng k nim sng trong vòng tay ch che
cùng s săn sóc của người bà: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”... Mi một câu t
vang lên đu cht cha nhng hi c v s hi sinh tn to của người bà. Trong
những năm tháng “M cùng cha công tác bn không về”, bà là ch da tinh thn,
là ci nguồn yêu thương cht cha s n sóc, quan tâm. Những câu thơ của nhà
63
thơ Bằng Việt đã gi nhắc đến hình ảnh người bà trong bài thơ “Tiếng gà trưa
ca n sĩ Xuân Qunh:
“Tiếng trưa
Mang bao nhiêu hnh phúc
Đêm cháu về nm mơ
Gic ng hng sc trng”
Ni tiếp mch cm c ca nhng hi ức đã qua hình ảnh người bà qua
nhng suy ngm và cm nhn chân thc ca nthơ. Hình ảnh người bà luôn
gn liền, song hành ng đôi ng nhng k nim bên bếp la tr thành biu
ng cho s m áp của tình thương yêu và chăm sóc:
“Lận đận đời bà biết my nắng mưa
My chục năm rồi, đến tny gi
vn gi thói quen dy sm”
Cuc đi chứa đựng s lận đận, vt v lo toan ca người đã được tái hin
thành công thông qua biện pháp đo ngữ, đưa tính t “lận đận” lên đu câu, kết
hp các cm t ch thời gian “đời bà”, “mấy chc năm rồi”. Xuôi dòng thi gian,
cuc sng không ngừng đổi thay, người bà vẫn “giữ thói quen dy sm” đ
nhóm lên nim tin yêu cùng nhng hi vọng trong tâm ởng người cháu. Qua
tng câu ch, chúng ta th thấy được tình cm va gin d, chân thành, va
tha thiết sâu nng của người cháu đi vi người bà. Hình ảnh người bà còn được
khc ha cùng tấm lòng và tình yêu thương “p iu nng đượm”:
“Nhóm bếp la p iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sn ngti,
Nhóm nim xôi go mi, s chung vui,
Nhóm dy c nhng tâm tình tui nh…”
64
Thông qua điệp t “nm”, hình ảnh người đã đưc tái hin va chân thc,
va cha đng ý nim n d ca s hi sinh tn tảo và thiêng liêng. Đi vi tác
giả, người chính kết tinh cao đp nht ca nh thương yêu “ấp iu nng
đượm”, là biểu tượng ngi sáng s s chia, quan m và chăm sóc “chia s ngt
i”, người bồi đp tâm hn cháu trong những năm tháng tuổi thơ. Nhng
câu thơ với âm điệu tha thiết đã khc ha thành công hình ảnh người bà luôn
hin hữu trong tâm tưởng, đng thi th hiện thái đ trân trng, biết ơn của tác
gi Bng Vit.
Như vy, bng những câu thơ bình d mang âm hưởng tha thiết, sâu lng, n
thơ đã khắc ha bức chân dung người bà gn vi hình nh bếp la trong dòng
suy tưởng, chiêm nghim chứa đựng lòng biết ơn, kính yêu và trân trng. Tng
qua hình ảnh người bà, chúng ta th thấy được những đc hi sinh, s tn to
ca những người bà, người m trong những năm tháng lửa đạn bom rơi.
| 1/64

Preview text:


Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa
Dàn ý phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa I. Mở bài
● Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và tác phẩm thơ Bếp lửa
● Nêu khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm: bài thơ gợi lên những
kỉ niệm sâu sắc về tuổi thơ,tình bà cháu thiêng liêng, cảm động
● Hình ảnh người bà nhân hậu, giàu tình yêu thương, sự hi sinh vì con cháu
hiện lên thật giản dị, gần gũi và ấm áp II. Thân bài
- Hình ảnh bếp lửa nơi xứ người gợi lên nỗi nhớ bà, nhớ quê hương
- Dòng hồi tưởng về bà, về tuổi thơ được khơi gợi từ hình ảnh thân thương - bếp lửa 1
+ Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nồng đượm” ùa về trong tâm trí
người cháu hình ảnh người bà nhân hậu với tấm lòng chi chút của người nhóm lửa
- Bếp lửa thực tự nhiên khi xa xứ đánh thức dòng cảm xúc, nỗi nhớ luôn trực
chờ trong lòng người cháu về bà: cháu thương bà lặng lẽ, âm thầm
- Bài thơ gợi lại kỉ niệm ấm áp, êm đềm của tuổi thơ khi bên bà
● Tuổi thơ đứa cháu là những chuỗi ngày thiếu thốn, khó khăn “đói mòn
đói mỏi” dường như ám ảnh,xót xa cho người cháu mỗi khi nhớ lại
● Nhưng có bà, cuộc sống của cháu luôn tràn ngập tình yêu thương, đầm ấm
- Bên cạnh bếp lửa, âm thanh của tiếng tu hú gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn
bó, chia sẻ tình cảm nồng ấm suốt 8 năm trời
- Bà luôn ân cần đảm nhiệm nhiều vai trò khi chăm sóc cháu: biện pháp liệt kê
“bà bảo, bà chăm, bà dạy” diễn tả sâu sắc và cảm động sự nhân hậu, tình yêu
thương cháu và sự chăm sóc chi chút cho cháu của bà
+ Bà trở thành chỗ dựa vững chắc cho cháu, lấp đầy những thiếu thốn về vật
chất và tinh thần của đứa cháu
- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá, bà vững lòng, bình tĩnh tạo niềm tin cho con cháu
+ Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa ấm áp từ tình thương yêu, sự hi sinh của bà đối
lập với ngọn lửa hung tàn, tiêu diệt sự sống của kẻ thù (năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi) 2
→ Mạch cảm xúc xen với lời kể, cùng hình ảnh thơ lan tỏa hiện lên rõ nét đã để
lại dấu ấn sâu đậm về người bà Những suy ngẫm về cuộc đời bà và hình tượng bếp lửa
- Từ những hoài niệm về bà, người cháu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời bà
● Hình ảnh của bà luôn gắn chặt với hình ảnh bếp lửa ấm áp, thân thuộc
● Trong lòng bà luôn có một “ngọn lửa” “ủ sẵn”, đây là ngọn lửa của niềm
tin, ý chí, nghị lực và khát vọng sống
● Điệp từ “một ngọn lửa” nhấn mạnh vào tình yêu thương cũng như tấm
lòng nhân hậu của bà dành cho cháu
● Ngọn lửa đó thắp lên niềm tin, tình yêu và nghị lực sống tin tưởng vào ngày mai cho đứa cháu
- Hình ảnh người bà tần tảo khuya sớm, là người thắp lửa, giữ lửa truyền tới thế hệ trẻ
● Mặc dù cuộc đời bà trải qua “nắng mưa” lận đận, nhưng bà luôn lạc quan,
tin tưởng và dành những điều tốt đẹp cho con cháu
● Động từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định : bà chính là người
khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã
truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương
ruột thịt, sự cảm thông chia sẻ
● Từ đó nhà thơ khám phá ra điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa
- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu khi trưởng thành, xa quê
+ Dù xa quê hương, xa bà nhưng người cháu vẫn luôn nhớ và hướng về bà với
niềm yêu thương, sự biết ơn vô hạn 3 III. Kết bài:
● Tác giả xây dựng thành công hình tượng bếp lửa để làm sáng lên phẩm
chất đáng quý của bà. Qua đó thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng bà
của người cháu xa quê nhưng luôn nhớ và biết ơn sự hy sinh, chăm sóc, dạy bảo của bà.
Phân tích hình tượng người bà trong Bếp lửa
Bằng Việt là nhà thơ xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam. Với giọng thơ trong
sáng, chân thành, ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ý nghĩa. Tiêu biểu phải kể
đến bài "Bếp lửa". Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người
bà chịu thương, chịu khó, yêu thương và luôn chăm lo cho gia đình.
Mở đầu bài thơ, độc giả được thấy hình ảnh của bếp lửa gắn với những kỉ niệm bên người bà kính yêu:
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".
Câu thơ đầu gợi lên hình ảnh bếp lửa thân thương, quen thuộc vào buổi sớm mai.
Đôi bàn tay khéo léo của bà vẫn ngày ngày nhóm lên bếp lửa yêu thương để
nuôi nấng cháu. Những câu thơ trên không chỉ thể hiện tình cảm chân thành
người cháu dành cho bà mà "nắng mưa" còn là hình ảnh ẩn dụ gợi lên những vất
vả, khó khăn mà bà phải trải qua.
Vất vả là vậy, nhưng bà không bao giờ kêu than mà vẫn luôn nhóm lên bếp lửa
yêu thương nuôi nấng cháu: 4
"Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ"
Bà vẫn giữ đói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ".
Từ "mấy chục năm" đã giúp người đọc biết được quãng thời gian dài, vất vả bà
đã trải qua. Dường như, bà đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho gia đình. Bà
kính yêu luôn thức dậy sớm, nhóm lên bếp lửa để nuôi nấng cháu nên người.
Bằng việc sử điệp từ "nhóm" được nhắc lại ở đầu mỗi câu thơ, tác giả đã nhấn
mạnh hành động nhóm lửa quen thuộc hàng ngày của bà. Bà không chỉ chăm lo
cho gia đình mà luôn dành sự quan tâm tới những người hàng xóm xung quanh.
Chi tiết "Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui" thể hiện tình làng nghĩa xóm thân
thiết, sẵn sàng chia sẻ cho nhau những điều tưởng như nhỏ bé nhất. Vậy chỉ
bằng vài câu thơ, người đọc có thể cảm nhận được cuộc đời bà phải trải qua biết
bao khó khăn nhưng bà vẫn luôn cố gắng dành tất cả những điều tốt nhất cho
cháu. Qua đây, nhà thơ như muốn gửi gắm thật nhiều yêu thương dành cho người bà kính yêu.
Bà không chỉ chịu thương, chịu khó mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho con cháu:
"Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên". Và:
"Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa",
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, 5
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc".
Bà là hậu phương vững chắc cho con an tâm chiến đấu.Trong khoảng thời gian
khó khăn, bà vẫn cố gắng lo liệu chu toàn mọi việc. Người phụ nữ đó không
muốn con ở chiến khu phải lo lắng chuyện nhà nên đã dặn cháu đừng có kể cho
cha chuyện giặc đốt làng. Không chỉ vậy, bà còn luôn chăm lo cho cháu từng li
từng tí, từ bữa ăn, giấc ngủ đến việc học. Chính bà đã truyền cho cháu ngọn lửa
của tình yêu thương, của nghị lực sống. Một ngọn lửa mãnh liệt để thắp lên cho
cháu niềm hi vọng về một tươi lai sáng.
Bằng việc sử dụng những biện pháp tu từ đặc sắc kết hợp với giọng thơ chân
thành, tha thiết, nhà thơ Bằng Việt đã làm nổi bật hình ảnh người bà tần tảo,
chịu khó. Qua đây, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội
thời kì chiến tranh. Họ không những tần tảo, vun vén chuyện gia đình mà còn là
hậu phương vững chắc cho người lính nơi chiến trường.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 1
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng,
hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,...nhưng sâu trong trái tim mỗi
người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh sâu
sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên.
Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào
tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta...Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay
cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,...
và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng.... 6
Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế...Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn
nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu
thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa
bố mẹ và hạnh phúc bởi...có bà!
Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo
dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về
tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu
thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết...
”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời
người...”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về
lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi...? Bà đang
nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu...
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy… gợi cho
ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ
đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ “chờn vờn” sưởi ấm cả gian nhà
vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa đông khi hai bà
cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ.
Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay
bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm
của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có 7
hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu
hay là ấm cả mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia...?
"Ấp iu”- gợi một bàn tay nhen nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân
cần. Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp,
nhưng ta thấy hình ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhóm
lên ngọn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho cháu.
Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa “Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian nan,
vất vả và từng trải! Chỉ một từ “thương” thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho cả đoạn.
Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, “nắng mưa”, khó
khăn, gian truân đời bà!
Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình
thương là vị muối mặn của tình người, là chất keo của mối gắn bó. Chữ
“thương” vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều
trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người.
Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ “thương” đã có thể
thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương
cồn cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi cạnh bà
dưới ấm áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương... Hình ảnh bà “biết mấy
nắng mưa” cứ rõ dần, tỏ dần với sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ hồi ức dần dần
trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ...:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi 8
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Kỉ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Những
năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi lên bốn, đó
chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và dai dẳng, “đói mòn
đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn
sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào quên- cái đói kéo dài làm con
người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy!
Bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy giờ là cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân
tộc ta đã làm chết hơn hai triệu người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn
ám ảnh dai dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm
cay mắt tác giả, như thể vừa mới “hun nhèm” thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn
trong tim, trong tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ.
Cay vì khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi
trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ
họng và dường như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, củ sắn, hay là
giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng khi sắp được ăn
cho thỏa nỗi thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng, lúc bà đang lặng lẽ nhóm
bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên
bốn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon, nhưng hồi ấy là cả một thứ “sơn hào hải
vị” không gì sánh bằng, cả một điều lớn lao, vĩ đại!
“...Cái năm đói củ rong rềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy) 9
Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ niệm không
thể quên của đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái đắng của những đói khổ không
chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác nữa! Đến người còn
không có ăn, nói chi “người gầy” "khô rạc” là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự
của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe
chạy chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội.
Đó cũng là một kỉ niệm còn neo lại nơi tâm trí cháu, trở thành một trong những
điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không quên! Khổ thơ không nhắc tới bà,
nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là
cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và
dai dẳng... Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy...Trong lòng cháu...!
Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm
chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra
rõ hơn và đẹp hơn cả:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
“Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao
nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa,...cứ
đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,“cháu cùng bà nhóm lửa”,
vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu
bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám. 10
Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một
liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim
tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn thương thế! Nó
ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ dội về hiện tại, làm kỉ
niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỉ niệm ấy, có cả đắng
và ngọt, cô đơn và hạnh phúc! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu
cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang
từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.
Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa, lâng lâng trong
lòng người cháu xa xứ. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu
tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu
hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.
Hạnh phúc tưởng chừng như nhỏ bé mà lại là thiêng liêng và lớn lao nhất của
cuộc đời mỗi con người, là hạnh phúc gia đình, là phút giây sung sướng đến tột
cùng khi được trông thấy đứa con-hình hài yêu dấu-món quà vô giá mà cuộc đời
ban tặng cho mình- cất tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được
một căn nhà, một tổ ấm-nơi nương tựa vững chãi nhất trong những phút giây bi
quan, yếu lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc đời-con người ta tìm về để được an ủi,
sẻ chia một cách chân thành!
Ấy vậy mà loài chim tu hú đâu có được niềm hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng,
đẹp đẽ nhất cuộc đời ấy! Tiếng kêu của chúng trở vì vậy trở nên khắc khoải,
mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó tha thiết lắm...Ta đã từng nghe
thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu, làm sục sôi khao khát tự
do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên: 11
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi!
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Tiếng kêu đầy khao khát và khắc khoải ấy cũng xuất hiện ở nỗi nhớ da diết về
quê hương và bóng người cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô con gái tuổi
thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh Thơ:
“Rồi tiếng chim tu hú
Vang suốt những mùa hè
Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê!”
Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải làm
cho dòng kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không
gian xa vắng của nỗi nhớ thương...Và bà ơi khi tu hú kêu, thì đó cũng là lúc “Bà
hay kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện ấy, rất dài mà rất hay, thấm
thía, hơn thế nữa, nó còn được kể qua chất giọng ấm áp, chậm rãi, chan chứa
cảm xúc và tình yêu thương của bà.
Có thể đó là những chuỗi ngày hạnh phúc khi gia đình ở Huế, bà cũng là người
hoài niệm, sâu sắc và đầy suy ngẫm...Cũng có thể đó là rất nhiều những câu
chuyện,...giống như những câu chuyện mà bà hay kể “hồi còn ở Huế”! Vậy ư?
Thế thì nhiều lắm lắm! Trong kho tàng chuyện ấy, có thể, tuổi thơ cháu đã ướp
đậm vị ngọt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình vào thế giới nơi có cô Tấm
thảo hiền, có chằng Thạch Sanh dũng cảm, có mẹ con nhà Cám độc ác, tàn nhẫn,
có mẹ con Lí Thông gian xảo, mưu mô,...có cái thiện cũng như cái ác. 12
Và hơn hết, cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác! Nhắc tới tuổi thơ, người ta bao
giờ cũng nghĩ ngay đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ hay kể cho con
trẻ nghe, rồi bảo chúng rút ra bài học, hoặc răn dạy những điều hay, lẽ phải từ
câu chuyện ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn giản,
dễ hiểu, mà lại vừa sâu sắc, thấm đẫm tình...
Bà đã ươm lên và nuôi dưỡng trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ
khi còn thơ dại một mầm cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngời, nó là cái gốc để phát
triển thành những thân, những cành, những hoa, lá, những quả... sau này!
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Những câu thơ tiếp theo làm hiện lên một căn nhà quạnh hiu, lạnh lẽo giữa đồng,
chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì
ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà
còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây
không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương
náu để hai bà cháu sinh sống.
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư,
bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy,
nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ!
Cùng bà, ngày nào cháu cũng nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ
mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu chuyện cổ huyền ảo của cháu. 13
Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào
một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì
đối với cháu, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa
của riêng cháu.Tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với cháu.
Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng
miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu.
Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà
còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài
học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và
tình cảm mà bà dành cho cháu thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất
lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ
càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm
lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,...
Nhà thơ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?/Kêu chi hoài
trên những cánh đồng xa!”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc
của đứa cháu nơi xứ người khi nghĩ lại những ngày tháng đã xa...Xen lẫn trong
đó là một niềm tự hào vì mình có bà của đứa cháu ngây thơ trước những con
chim tu hú bơ vơ cứ “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” ngoài kia!
Cháu thương bà và cũng thương tu hú nữa! Vì cảnh ngộ của hai bà cháu ta sao
mà giống tu hú thế! Cũng hiu quạnh, cô đơn, cha mẹ thì “bận công tác không
về” mất rồi! “Tu hú ơi, hãy về ở cùng bà đi, bà sẽ chăm sóc cho tu hú, như là bà
đã chăm sóc cho ta, và tu hú sẽ không phải bơ vơ nữa! Tu hú về với bà, thì cả bà
và tu hú sẽ cùng bên nhau, không ai cô đơn cả!”
Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Tình yêu
thương của bà dành cho cháu, của cháu đối với bà đã để lại trong lòng cháu 14
những kỉ niệm không bao giờ nhạt phai và nó luôn sống mãi bởi âm thanh tiếng
chim tu hú da diết ấy luôn âm vang trong tim cháu, như tiếng lòng thổn thức của
cháu luôn nhớ mong về bà...
Trong Bếp lửa tác giả đưa hình ảnh này ra để nỗi đau riêng hòa vào nỗi đau
chung của cả dân tộc, hoàn cảnh chung của cả nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền
vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà
cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà
cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn,tài sản
lớn nhất của một đời người đã bị “cháy tàn cháy rụi”-cháy sạch sành sanh,
không còn nguyên vẹn một thứ gì, nói đúng hơn là không còn gì để mà cháy, bà
dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.
Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang
bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của
bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời
dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình, tinh thần lắm, ý chí
lắm, niềm tin của bà mạnh mẽ lắm, trong khi “ hàng xóm bốn bên trở về lầm 15
lụi”-cảm nhận như có một sức mạnh vô hình nào đó cứ làm người ta cúi gắm,
cúi gằm mặt xuống vì đau đớn đến não nề, không nói được một lời nào!
Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để
yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của
riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam
giàu đức hi sinh, thương con quý cháu, luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào
cách mạng khi nhắc cháu viết thư vẫn bảo nhà bình yên để bố mẹ an tâm công
tác chiến đấu.Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành
hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”.
Bà lại làm lại từ đầu, từ “lại” trong câu thơ thể hiện sự chắt chiu, sự bắt đầu làm
lại sau những khó khăn, thiếu thốn! Bà vẫn “nhen” lên bếp lửa “rồi sớm rồi
chiều”, dù “nhen” thì khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất cũ của ngôi nhà đã bị
đốt “cháy tàn cháy rụi”, bà nhen lên một sự sống mới, mãnh liệt hơn, dai dẳng
hơn, bởi trong lòng bà “một ngọn lửa luôn ủ sẵn”, “một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”!
Đó chính là ngọn lửa mà bà đã truyền cho cháu-sức mạnh và niềm tin, để cháu
vững lòng vượt qua những khó khăn, thử thách đầu đời giống như bà đang cố
gắng đây! Giặc Pháp có thể phá làng, đốt nhà, nhưng không thể dập tắt đi ngọn
lửa, ấm áp cháy mãi trong lòng bà! Ngọn lửa “chứa niềm tin dai dẳng”, ngọn
lửa mang tình yêu thương của bà, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa
đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi, ngọn lửa hi vọng vào một tương lai tốt
đẹp cho tổ quốc, cho lẽ sống thiêng liêng, cao đẹp của cả dân tộc! 16
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Bà
luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Bà- một con người nhỏ bé mà vĩ đại vô cùng! Bà đốt lên ngọn lửa cháy vĩnh
hằng trong tim cháu bằng ngọn lửa mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, bà sưởi ấm lòng
cháu trong suốt những năm tháng đã qua bằng ngọn lửa yêu thương vô bờ!
Bà nâng bước cháu đi trên con đường đời bởi ngọn lửa của niềm tin bất diệt ấy,
bà truyền cho cháu hơi ấm tình thương và bà sáng mãi như một ngọn
lửa...Không bao giờ tắt...!Bốn tuổi cháu biết cái đói, tám tuổi cháu hiểu những
câu chuyện của bà, rồi biết chiến tranh đau khổ, gian lao của đất nước, và bắt
đầu có niềm tin mà bà nhen lên trong cháu...Và giờ đây, cháu cảm được...:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Nếu ở câu thơ đầu chỉ là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, sau một dòng
chảy dài của cảm xúc dâng trào chảy theo hồi ức thơ ấu, thì giờ đây câu thơ đã
kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu sa: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”! Cả
câu thơ dồn vào hai từ “lận đận”-làm việc gì cũng không thành, cứ long đong,
vất vả và khó nhọc như thế suốt cả một đời!
Đó phải là một khoảng thời gian dài, một quá trình lâu để cảm biết và hiểu sâu
sắc, có lớn lên, có trưởng thành và từng trải thì mới thấm thía, thấu hiểu lắm
lắm như thế về cuộc đời bà. Câu thơ tuy không bộc lộ cảm xúc như câu thơ
trước, song, còn ý nghĩa và sâu xa hơn thế! Chữ thương như lặn vào trong trái
tim, trong đáy lòng sâu thăm thẳm của cháu, khắc sâu vào tâm khảm cháu.
Đó là một suy ngẫm rất “chín” qua cách nhìn nhận của cuộc đời ở góc độ tuổi
trưởng thành của cháu về bà, về những thăng trầm, những “mưa”, những “nắng”, 17
những “lận đận” mà đời bà đã trải qua! Và rồi cứ như thế, bà vẫn hi sinh âm
thầm lặng lẽ, mà “Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy
sớm”. Một sự vất vả, khó nhọc mà cũng trở thành thói quen trong cuộc đời
người bà đầy gian truân, trắc trở ấy! Bà cứ lặng thầm, lặng thầm như thế, để rồi:
“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối
bài thơ như một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. Nhóm
lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những
người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng
nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những
năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở
lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có
một lối sống ích kỉ. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất
mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong
cổ tích, bà tô màu hồng lên trên màu xám trong tuổi thơ cháu, “nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ”!
Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã khơi dậy, giáo dục và thức
tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người, bà nuôi dưỡng
tâm hồn cháu ngay từ những ngày còn thơ dại để tạo gốc rễ cho sự hình thành
tốt đẹp mãi tới tận mai sau! Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có
một sức mạnh kì diệu từ trái tim. 18
Bà làm cho kỉ niệm những năm tháng ấy trở thành bóng tre rợp mát đi theo suốt
cuộc đời cháu, khiến cháu thốt lên trong những xúc động nghẹn ngào: “Ôi kì lạ
và thiêng liêng-bếp lửa!” Tình thương và lòng nhân ái, bao la của con người mãi
ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng trường tồn. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình
ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh
mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng cháu.
Bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất
kì phương trời nào. Bà đã trở thành ngọn lửa luôn cháy mãnh liệt và sưởi ấm
tim cháu! Để rồi giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt
vẫn luôn hướng lòng mình về bà, cảm giác nhớ nhung da diết cồn cào những hồi
ức quá đẹp đẽ, ấm áp bên bà và hình ảnh bả luôn thường trực trong tâm khảm của người cháu:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Bài thơ được kết lại trong một câu hỏi tu từ. Đó là một nỗi đau đáu nhớ về bà!
Nhà phê bình Văn Giá nhận xét:”Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái
ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thiết thân nhất. Họ giữ
cho ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, biến cố, thành bại ở đời.
Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái
tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những làn sáng hắt ra từ
ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.” Xa vòng tay chăm
chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm
lòng tác giả trong mùa đông lạnh giá của nước Nga. 19
Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn
đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không
bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà
tuổi thơ của cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó, trong vòng tay yêu
thương chở che của bà và trong trái tim cháy bỏng một ngọn lửa chan chứa
niềm tin, tình yêu thương bà dành cho cháu...
“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Nào, giờ thì hãy nhắm mắt lại một lúc, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa
hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên... Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong
lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng
chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên
tuổi thơ trong sáng của ta. Những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ luôn có
sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời!
Bà đã hiện về trong từng câu thơ chan chứa cảm xúc, tim bà mang một ngọn lửa
sưởi ấm cuộc đời cháu.... Trong lòng cháu... Thuở ấu thơ... Giờ đây... Và mãi mãi...
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 2
Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình bóng bà lam lũ
vất vả trong bài thơ “ Đò Lèn” của Nguyễn Duy:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” 20
Gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “ Bếp lửa”. Nhà
văn khắc họa hình ảnh người bà với những vẻ đẹp tần tảo, đức hi sinh và niềm
tin mãnh liệt, qua đó thể hiện lòng kính yêu bà sâu nặng. Khơi nguồn kí ức của
người cháu khi trưởng thành nhớ về bà khi anh bắt gặp hình ảnh quen thuộc:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Người bà hiện lên chịu thương chịu khó, cần mẫn nhóm lửa ngày nào nay ùa về
trước mắt người cháu. Hình ảnh bàn tay cần mẫn của người bà đang nâng niu,
vun vén cho ngọn lửa chập chờn, bập bùng trong mỗi sớm mai. In hằn suốt đời
bà là những vất vả, nhọc nhằn, hình ảnh ẩn dụ “ biết mấy nắng mưa” tượng
trưng cho bao nỗi cơ hàn đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Hình ảnh ấy khơi
dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu khiến dòng hồi tưởng về bà rõ nét, chân thực hơn:
“ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
...Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”
Khi cháu lên bốn, lên tám đó là những mốc thời gian nguy khó nhất của cuộc
chiến tranh: cái đói hoành hành, giặc tàn phá hậu phương. Bà cưu mang đứa
cháu nhỏ dại, suốt tám năm ròng “ cháu cùng bà nhóm lửa”. Phải chăng bà luôn
bền bỉ nhen lên hơi ấm của sự sống bền bỉ? 21
Bà không chỉ trở thành người cha, người mẹ của cháu lúc cha mẹ bận công tác
nơi tiền tuyến mà bà còn là người thầy hết mực bảo ban cháu. Điệp từ “ bà” lặp
đi lặp lại cùng một loạt động từ “ kể chuyện, dạy, chăm cháu học” giúp ta hình
dung bà là người khắc sâu lòng căm thù giặc trong lòng cháu qua những câu
chuyện kể và bà bảo ban cháu nên người.
Khó nhọc đời bà thêm trĩu nặng khi nuôi lớn cháu trong hoàn cảnh khốn khó,
đầy thiếu thốn về vật chất. Nhà thơ khắc họa hình ảnh người bà với tình yêu
thương cháu vô bờ bến, có lẽ bà muốn bù đắp phần nào những bất hạnh trong
tuổi thơ đứa cháu bé bỏng. Không chỉ giàu tình yêu thương cháu mà bà còn giàu
đức hi sinh và lòng vị tha:
“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nén nỗi khổ đau một mình bà chịu đựng tất cả nên lời căn dặn cháu “ chớ kể
này, kể nọ” những gian khó ở quê nhà : “ giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, bởi
bà muốn làm yên lòng những người nơi hỏa tuyến để họ làm tốt nhiệm vụ. Lòng
vị tha giúp bà và dân làng tạo thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh
giặc. Bà luôn nuôi dưỡng, ấp ủ một niềm tin không bao giờ dập tắt, niềm tin nhỏ
bé nhưng dai dẳng, được nhen lên bằng cả tấm lòng, trái tim nhân hậu:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Điệp ngữ “một ngọn lửa” ấm nồng vẫn âm ỉ cháy ngày qua ngày được bà nâng
niu biến hình ảnh bếp lửa trở thành một hình tượng giàu sức tượng trưng: 22
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”
Hành động “nhóm” bếp điệp lại tới bốn lần nhấn mạnh thói quen thường ngày
thành nếp sống của suốt cuộc đời long đong “lận đận” của bà. Nhưng việc làm
giản đơn ấy có sức mạnh kì lạ. Nó thắt chặt tình nghĩa xóm làng bằng những củ
khoai sắn hay nồi xôi gạo ngọt bùi từ bếp lửa bà đun nấu. Một trời mộng mơ
của cháu từng bị lãng quên nay bên bà những nỗi niềm ấy lại sống dậy khi được
sưởi ấm tâm hồn. Vậy bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.
Qua dòng kí ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “ Bếp lửa” gửi gắm lòng biết
ơn bà sâu nặng. Nhà thơ Bằng Việt khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền
với hình tượng người bà vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao cả vừa tạo tính biểu tượng cho hình ảnh thơ.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 3
Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân
thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi
tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa
đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ.
Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”.
Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào?
Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa
mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên: 23
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn
sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của
người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu
nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình
yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà
là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối
mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn
lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ
nghĩ lại “sống mũi còn cay”.
Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm
qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi
mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư
vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi
dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên 24
trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ,
nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên
bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày
xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám
năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở,
và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.
Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu
thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được
Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó
nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu.
Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau
thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quê hoang tàn trong khói lửa
chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta
cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 25
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng
yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Thật vậy!
Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác
với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí
và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.
Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến
và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người
đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng
người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt
khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ
hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 26
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen
lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin
vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc
động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ
nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn
giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.
Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều
điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi
chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa
cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc.
Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm
mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” 27
Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa
cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa
quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là
điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.
Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm
và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp
lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng
Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn
có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô.
Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua
những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc
trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 4
Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình
yêu". Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi
dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn
nhân,nghệ sĩ. Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân
Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng bà
mắng yêu, với hình ảnh "Tay bà khum soi trứng" thì Bằng Việt lại khiến ta nhớ
mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà
ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: "Bếp lửa". 28
"Bếp lửa" như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông
đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê
hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kỉ niệm ấu thơ bên bếp
lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách
bế trong làn sương buổi sớm được đôi tay bà "ấp iu", chở che. Hình ảnh "Một
bếp lửa ấp iu nồng đượm" gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy
guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lửa cháy lên, sáng lên và
khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà
dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.
Và rồi trong kí ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ
niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước
phim quay chậm, đó là kỉ niệm "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Lời
thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thương, cùng điệp ngữ
"tu hú kêu" và câu hỏi tu từ "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?" gợi về nhiều
những câu chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe. Trong những năm tháng cha mẹ
đi công tác xa, bà và cháu quấn quýt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi
dưỡng, săn sóc "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu học", "bà chăm cháu làm".
Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,...Bên bà, có lẽ
cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.
Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp
lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy,
cháu nhớ như in lời dạy của bà:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên" 29
Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnh màn trời chiếu
đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu,
phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ
cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao
đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc
và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi khó khăn khốc liệt.
Tuy bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho
tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao bà
mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn
chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà vẫn giã
gạo nuôi bộ đội trong "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn
Khoa Điềm,... Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca là
người "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang",...Bà chính là người tiêu biểu
cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay...
Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
"Bếp lửa bà nhen" là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng
củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nhóm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ có
sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ
dành cho cháu, bù đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha. "Ngọn lửa chứa niềm
tin dai dẳng" là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt,
bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm bếp lửa mà còn là
người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại. 30
Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng mưa nhưng bà vẫn "giữ
thói quen dậy sớm"- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với
cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"
Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nhóm lên tình yêu thương mà
bà đã dành cho cháu, nhóm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nhóm
lên tình đoàn kết với hàng xóm, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả
những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa mà bà nhen, cháu đã khôn lớn
cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,...Từ bếp lửa thiêng
liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi
dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu.
Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về
bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Lời thơ của Bằng Việt thủ thỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy.
Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân
trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những
người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 5 31
Nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, những năm tháng
xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc nhà thơ viết nên bài thơ Bếp
Lửa và những cảm nhận về tình bà cháu thấm thía, sâu sắc thiêng liêng. Và hình
ảnh người bà đã sống mãi trong lòng người đọc về một người phụ nữ Việt Nam
âm thầm hi sinh, yêu thương cao cả và là ngọn lửa bất diệt của niềm tin cho
người cháu yêu thương của mình, khơi dậy trong lòng chúng ta niềm xúc động
nghẹn ngào về tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn sương sớm, ấp iu nồng đượm gắn
liền với hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa
để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương. Người bà hiện lên với hình ảnh chắt
chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn
lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả
của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước
để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua
lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như
người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi
nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt
phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà.
Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ,
đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể
này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu
nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu
phương vững chắc nơi tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình
chung lên trên, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu
kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như dã thổi đến tâm hồn 32
người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà.
Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho
hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm
điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà
là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng
bất diệt. Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, nhưng hơn hết bà
cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những
phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm
đoàn kết với tình làng nghĩa xóm. Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa
của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm
ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi
dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc
nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.
Như vậy, bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, nhà thơ Bằng Việt đã khắc
họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất
diệt trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà nhắc ta về tình bà cháu thiêng
liêng, về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam yêu nước sẵn sàng hi sinh vì lợi ích
cá nhân để vì tinh thần dân tộc.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 6
Bếp lửa của Bằng Việt là chuỗi những dòng kí ức tuổi thơ đẹp đẽ và hơn hết
những kỉ niệm đó luôn gắn với người bà thân yêu. Chỉ với một bài thơ bảy khổ
nhưng đã khắc họa những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của bà. Bà cũng chính là
biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hi sinh hết lòng vì con, vì
cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thực nhất, đầy đủ
nhất qua những dòng thơ thấm đẫm tình yêu thương. 33
Hình ảnh bà trong dòng kí ức tuổi thơ cháu hiện lên thật gần gũi, thiêng liêng
với tình yêu thương vô bờ, sự che chở và bao bọc. Cứ thế qua từng câu thơ,
từng con chữ những đức tính, sự hi sinh của bà được khơi ra với lòng biết ơn, tự
hào sâu sắc của tác giả.
Ba câu thơ đầu với hình ảnh bếp lửa là mạch nguồn khơi dậy hình ảnh người bà
thân thương: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Bếp lửa với ánh lửa lung linh, bập bùng
vào sáng sớm gợi nên điều gì đó thật thân thương, gần gũi. Hai chữ ấp iu vừa
diễn tả được cái khéo léo trong công việc nhóm lửa của bà, nhưng đồng thời còn
cho thấy tấm lòng bao dung, nhân hậu toát ra từ những cử chỉ ấy. Từ hình ảnh
bếp lửa, bằng tình cảm chân thật, tự nhiên tác giả đã bật lên: Cháu thương bà
biết mấy nắng mưa. Đó là câu thơ dồn nén biết bao tình cảm chân thành, ẩn dụ
nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn cực nhọc trong đời bà. Đồng thời đó
cũng là nỗi ám ảnh khôn nguôi day dứt trong lòng Bằng Việt. Hình ảnh bà hiện
lên thật nhẹ nhàng, sâu lắng và những phẩm chất đẹp đẽ của bà lần lượt hiện ra
rõ nét ở những khổ thơ tiếp theo.
Bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương, chịu khó. Trong những năm cả dân tộc
ta sống trong đói kém, cái đói đã giết chết biết bao nhiêu người dân Việt Nam,
nhưng bà vẫn tần tảo, nuôi cháu khôn lớn. Quá khứ về những năm đói kém ấy
hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết qua cách thể hiện ngôn từ đặc sắc đói mòn đói
mỏi và hình ảnh đầy sự ám ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Mỗi lần cháu
nghĩ lại vẫn còn cay cay nơi đầu sống mũi. Khổ thơ không một lần nhắc đến bà,
nhưng vẻ đẹp của bà vẫn hiện hữu, vẫn thật lớn lao, đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự
hi sinh thầm lặng. Bà tảo tần nuôi nấng, bà là cây cổ thụ to lớn che chở cho cháu
và cả gia đình vượt qua những giông tố cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé mà ý chí, sự
hi sinh lại lớn lao vô cùng. 34
Bà không chỉ tảo tần, chăm lo cho gia đình mà bà còn là người nuôi dưỡng, bảo
ban cháu khôn lớn trưởng thành. Bà vừa làm bà, vừa làm cha mẹ bao bọc, che
chở cho cháu. Tám năm cha mẹ xa nhà, bận công tác ở chiến khu là tám năm
cháu được sống trong vòng tay yêu thương, ấm áp của bà. Bà với một tình yêu
thương thầm lặng, mỗi ngày đều bảo ban, dạy dỗ cháu: Cháu ở cùng bà, bà bảo
cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Chính bà là là người đã nuôi
dưỡng tâm hồn cháu bằng việc kể những câu chuyện ở Huế để nhắc nhở cháu về
truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát của dân tộc. Bà còn bảo
ban, dạy cháu từng chút từng chút một để cháu ngày một khôn lớn trưởng thành
trong suy nghĩ và nhân cách. Hàng loạt các từ bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn
tả sâu sắc tình yêu thương bao la, sự chi chút hết mình bà dành cho cháu.
Không chỉ vậy, bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là hậu phương lớn để
con cháu yên tâm công tác. Mặc kệ Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, dù chiến
tranh có tàn phá khốc liệt hơn nữa, bà vẫn vững lòng trước những thử thách:
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có
viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Câu thơ như lời bà
nói, giản dị và chân thật biết nhường nào, nhưng nó có sức lay động lớn đối với
mỗi chúng ta. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ dại, dạy dỗ cháu học
hành mà bà còn là hậu phương vững chắc cho những đứa con ngoài chiến
trường yên tâm công tác. Hình ảnh bà gợi nhắc ta nhớ đến người bà trong bài
thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay,
bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ bà tôi đi bán trứng ở
ga Lèn. Trước những bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn vững vàng, tình yêu
thương, sự bao dung và tấm lòng hi sinh chính là sức mạnh giúp bà giúp bà
chống lại mọi khó khăn, gian khổ.
Đẹp đẽ nhất, thiêng liêng, cao cả nhất chính bà là người đã khơi dậy những mơ
ước, hi vọng, bà trao truyền sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ 35
sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Lòng bà luôn ủ sẵn một niềm tin dai
dẳng, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của kỉ niệm, tình yêu thương sẽ nâng bước,
soi sáng cho cháu trên suốt các chặng đường đời. Cùng với hình tượng “ngọn
lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”,
“chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ
Việt Nam giữa thời chiến. Ở khổ thơ tiếp theo tác giả sử dụng hàng loạt điệp từ
nhóm: Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm
niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo sẻ mới chung vui/
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì
thiêng liêng, cao quý nhất của con người: đó là tình yêu thương, niềm vui; sự
san sẻ trong khó khăn của tình làng nghĩa xóm và đẹp đẽ nhất là những tâm
tình, ước vọng của tuổi thơ. Nhờ có bà mà cháu biết sẻ chia, gắn bó với xóm
làng, biết sống ân nghĩa thủy chung với quê hương, đất nước.
Bằng sự kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm,
giọng điệu hồi tưởng, đậm chất suy tư tác giả đã cho thấy chân dung ba thật cao
cả, đẹp đẽ mà cũng hết sức thân thương, bình dị. Bà là hình ảnh tiêu tiểu cho
người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo và giàu đức hi sinh. Đồng thời bài
thơ cùng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu thương kính trọng ông bà và gia đình.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 7
Từ lâu, những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ đã khơi nguồn cảm
xúc dồi dào, bất tận cho biết bao những người nghệ sĩ để sáng tác lên những bài
văn hay, những bài thơ tuyệt mĩ về người bà, người mẹ. Và Bằng Việt, với bài
thơ "Bếp lửa" cũng đã góp một tiếng thơ tuyệt mĩ ấy về hình ảnh người bà – 36
một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương con, thương cháu tha thiết.
Bài thơ ra đời năm 1963, khi đó Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật bên
Liên Xô, vì thế thi phẩm là dòng hoài niệm về những kỉ niệm thời thơ ấu được
sống trong sự chăm sóc, yêu thương của bà và bên bếp lửa thân yêu. Qua đó,
người cháu thể hiện lòng kính yêu, sự trân trọng, biết ơn đối với bà, cũng là đối
với gia đình, quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh "bếp lửa" - nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về
người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia
đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm khi còn nhỏ. Và dòng
cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh
một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai.
Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay
dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái
bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp
ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người
cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. "Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình 37
yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng
nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.
Sống trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, biết bao gia đình phải li tán, thậm chí
là sinh li tử biệt. Và Bằng Việt, một đứa trẻ phải sống dưới làn bom, mũi súng
của kẻ thù cũng đã phải chịu cảnh xa cha, xa mẹ từ nhỏ. Bởi cha mẹ Bằng Việt
cũng tham gia cách mạng, vì thế tất cả mọi thứ ở quê nhà, Bằng Việt đều sống
trong tình yêu thương, bao bọc chở che của người bà kính yêu. Cho nên với
Bằng Việt, bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc giàu tình yêu thương,
niềm tin tưởng, nuôi dạy Bằng Việt khôn lớn, trưởng thành suốt những năm ròng kháng chiến:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà...
Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu
học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và
thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.
Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ
ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ,
công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người
cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ
thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất
thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu
dành cho bà của mình. Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó 38
khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí
của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ
quên được dù đã lớn khôn:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm
bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được
việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm
chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc
ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu
phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc
giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn
được cháu "đinh ninh" nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại
trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết
bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn
của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên
mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở 39
hậu phương. Cho nên, đến đây chúng ta thấy tấm lòng của người thật rộng lớn
mênh mông không chỉ dành riêng cho con cho cháu mà còn cho tất cả mọi
người, cho quê hương, đất nước tươi đẹp này.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình,
người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát.
Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản
chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành
biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ
“một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của
ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho
cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống
phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 8
Chỉ là một tiếng gà nhảy ổ giữa buổi trưa hè, một bếp lửa chờn vờn trong sương
sớm... mà biết bao tình nghĩa. Phải chăng những điều bình dị, giản đơn nhất lại
chính là chìa khóa của tâm hồn, của những tình cảm thiết tha, chân thành mà
không một giá trị tầm thường nào có thể đổi được. Nếu như Tiếng gà trưa đánh 40
thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về bà cùng tình bà cháu cao đẹp thì Bếp
lửa lại làm sống dậy trong lòng Bằng Việt cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm, từ đó
khẳng định tình cảm thương nhớ khôn nguôi của cháu với bà. Theo mạch cảm
xúc của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được cái ánh sáng của bếp lửa, sự ấm áp
kì diệu và thiêng liêng của tình bà cháu và đặc biệt ta được thấy chân dung đẹp
đẽ, lung linh sắc màu cổ tích của người bà trong bài thơ.
Bếp lửa là lời tâm sự của người cháu ở nơi xa nhớ về bà của mình với những kỉ
niệm về tình bà cháu, thể hiện sự kính yêu, ngưỡng vọng và suy ngẫm sâu sắc
về bà. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kì
niệm nâng lên thành suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những năm tháng tuổi
thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà với bao nỗi vất
vả và tình yêu thương, trìu mến dành cho cháu; từ kỉ niệm, người cháu đã
trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà lẽ sống giản dị mà cao quý của
bà và mong muốn gửi niềm nhớ thương sâu sắc về với bà.
Bếp lửa với bao ấm áp đã trở thành hình ảnh khơi nguồn cho dòng cảm xúc của
nhân vật trữ tình - người cháu. Bếp lửa khơi gợi, nhen lên, lan tỏa và cháy mãi
trong, dòng hồi tưởng về kí ức tuổi thơ, tỏa sáng chân dung của người bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Cụm từ "một bếp lửa" vang lên trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Giữa cái
sương sớm buốt lạnh, bếp lửa hiện lên làm chủ không gian trở nên thật ấm áp.
"Chờn vờn sương sớm" không chỉ gợi tả hình ảnh bếp lửa quen thuộc trong mỗi
gia đình Việt Nam những sớm mai mà còn gợi lên hình ảnh bếp lửa chập chờn
trong kí ức tuổi thơ. Từ "ấp iu" đã gợi tả đôi tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng 41
rộng mở của bà. Các từ láy "chờn vờn", "ấp iu" đã kết nối và diễn tả chính xác
dòng cảm xúc được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ sự khơi nguồn này, cả một
quá khứ đầy ắp kỉ niệm đã thức dậy trong tâm tưởng và suy ngẫm của người cháu.
Hình ảnh người bà qua dòng hồi tưởng, suy ngẫm của nhân vật trữ tình hiện lên
với bao nỗi vất vả và phẩm chất đáng quý. Nhớ về bà, cháu nhớ về những kí ức
tuổi thơ với bao kỉ niệm sống bên bà:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Khổ thơ ngắt nhịp ngắn và không ổn định; càng về cuối đoạn, nhịp thơ càng
chùng xuống như nhấn mạnh sự khó khăn, cơ cực mà hai bà cháu đã từng trải
qua. Hồi từ hiện tại, những kỉ niệm đã đưa cậu bé năm nào về với quá, khứ cùng
với những cảm giác rất thật "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!". Cái cay xè
nơi sống mũi của hai mươi năm về trước lại bất ngờ ập đến. Phải chăng quá khứ
trong cháu vẫn còn rất sâu đậm, vẹn nguyên và chẳng thể phai nhòa nên nó đã
hiện, lên thật sống động.
Có thể nói, tuổi thơ của cháu gắn liền với giai đoạn lịch sử đau thương mà oai
hùng của dân tộc. Tuổi thơ ấy có cái gian khổ chung của thời kháng chiến chống
Pháp. Trong hoàn cảnh "mẹ cùng cha bận công tác không về", cháu đã sống
trong tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, dạy dỗ của bà:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 42
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Trong hoài niệm về tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi quen thuộc luôn gắn liền
với hình ảnh người bà thân thương. Nhớ về bà là người cháu nhớ về bếp lửa,
hình ảnh bà và bếp lửa luôn gắn bó song hành. Nỗi nhớ da diết của người cháu
với bà cũng chính là nỗi nhớ thương gia đình, quê hương, đất nước.
Từ sự hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ, về bà và bếp lửa, người cháu đã suy
ngẫm về cuộc đời, lẽ sống của bà. Trong hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa
gần gũi, quen thuộc luôn gắn liền với người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, quen thuộc, cháu nhận ra những điều kì lạ và
thiêng liêng. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao tình yêu thương đã nuôi lớn cháu,
nhóm dậy những tâm tình tuổi nhỏ.
Không những vậy, bà còn là người phụ nữ giàu tình yêu thương, đức hi sinh. Bà
là hình tượng sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Bà lặng
lẽ, âm thầm hi sinh cho Tổ quốc:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Trong những năm tháng chiến tranh, cháu lớn lên, trưởng thành trong tình yêu
thương, đức hi sinh cao cả, sự đùm bọc, che chở của người bà: 43
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Hình ảnh bếp lửa đã được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa của tình yêu
thương với ý nghĩa thật sâu sắc. Nếu bếp lửa là biểu hiện cuộc sống âm thầm,
lặng lẽ của hai bà cháu thì ngọn lửa rộng hơn, nó là sức sống tình yêu, là niềm
tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu.
Cuộc đời bà "lận đận" mấy chục năm, bà lặng lẽ hi sinh cho cháu, cho mọi người:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ "nhóm" được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ đã khẳng định bà không
chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong người
cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực, niềm tin, giúp cháu vững bước
trên đường đời. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà
còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong
truyện cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy,
khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để mai này cháu khôn lớn thành
người. Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa 44
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Với người cháu, ngọn lửa ấy thật kì lạ, thiêng liêng:
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!
Trong cả bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc
tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào của người
cháu đối với bà. Hình ảnh bếp lửa thiêng liêng, kì lạ vì bếp lửa luôn hiện hữu,
gắn bó, song hành cùng với hình ảnh người bà, gắn liền với những năm tháng
tuổi thơ của cháu. Bà và bếp lửa đã nuôi lớn cháu, thắp sáng niềm tin và ước
mơ, trở thành điểm tựa tinh thần của cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ sâu thẳm
tâm hồn người cháu, thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của cháu với bà cũng
như với quê hương, đất nước.
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 9
Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức hi sinh cao cả, bài thơ
Bếp lửa của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi
thơ mỗi chúng ta. Hình ảnh người bà đôn hậu cùng với hình tượng ngọn lửa là
hai nét vẽ biểu cảm của một hồn thơ đẹp được thể hiện một cách hàm súc qua
đoạn thơ sau:Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen ... Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Từ "bếp lửa" đã biến thành "ngọn lửa". "Bếp lửa bà nhen" mỗi sớm mỗi chiều,
ngọn lửa "lòng bà luôn ủ sẵn", ngọn lửa của "niềm tin" về ấm no, hạnh phúc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 45
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Vần thơ mang hàm nghĩa sâu sắc ngợi ca những phẩm chất cao cả của người bà,
cũng là của người phụ nữ Việt Nam. Ngọn lửa của tình thương mà bà"luôn ủ
sẵn" để dành cho con cháu. Ngọn lửa của niềm tin mãnh liệt, bền bỉ "dai dẳng"
suốt cả đời bà, được "bà nhen" mãi mãi sáng bừng bất diệt.
Lòng bà, tình thương của bà sáng bừng ngọn lửa ấy. Nghệ thuật sử dụng điệp
ngữ: "rồi sớm rồi chiều", "bà nhen... bà ủ sẵn", "một ngọn lửa... một ngọn lửa..."
có giá trị thẩm mỹ đặc sắc thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn đối với đức hi
sinh, tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.
Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của hà, của mẹ là nguồn nhiên
liệu vô tận làm bừng sáng ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Bảy câu thơ tiếp
theo nói lên những suy nghĩ của cháu đối với hà và việc hù nhóm lửa. Phần đầu
bài thơ có câu: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa", ở đây, cháu lại thổ lộ:
"lận đận đời bà biết mấy nắng mưa". "Lận đận... nắng mưa" là một đời vất vả, tần tảo, khó nhọc.
Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Chữ "lận đận" thể hiện tấm lòng đôn hậu và
đức hi sinh của bà.Bà là chỗ dựa, là mái ấm tình thương của con cháu. Thức
khuya dậy sớm vì hạnh phúc của cháu con đã trở thành "thói quen" của bà trong
"mấy chục năm", trong cả đời bà:
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Cảm xúc dâng trào khi nhà thơ nghĩ về bà, về bếp lửa, và việc bà nhóm lửa. Một
sự tổng kết và ngợi ca về đời bà, tình bà. Bà là suối nguồn của ấm no và hạnh 46
phúc, là tình thương của tuổi thơ. Bếp lửa mà bà nhen nhóm một đời người là
ngọn lửa "kì lạ và thiêng liêng".
Điệp ngữ: "nhóm bếp lửa", "nhóm niềm yêu thương", "nhóm nồi xôi gạo mới",
"nhóm dậy cả những tâm tình"... bốn lần vang lên qua vần thơ cảm thán đã khắc
sâu hình ảnh người bà, tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ
nữ Việt Nam, biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn vô hạn. Ý tưởng sâu sắc đẹp đẽ.
Ngôn từ biểu cảm. Hình tượng người bà và bếp lửa kì vĩ, tráng lệ:
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa
Các từ ngữ "ấp iu nồng đượm", "yêu thương", "ngọt bùi", "chung vui" thể hiện
sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm
vui, sự no ấm hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã "nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ", nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những
khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp.
Nhà thơ sung sướng tự hào thốt lên: "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!Đã có
nhiều thơ ca viết thật hay về người mẹ hiền. Nhưng chưa có nhiều bài thơ viết
về bà, và đạt tới độ đặc sắc như bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.Hình ảnh người
bà đôn hậu được thể hiện qua hình tượng "bếp lửa", "nhóm lửa" và "ngọn lửa"
rất gần gũi với tâm hồn mỗi chúng ta. 47
Bà thương cháu bao nhiêu thì cháu lại kính yêu và biết ơn bà bấy nhiêu.Bài thơ
Bếp lửa đã nói lên thật xúc động, trong sáng một nét đẹp trong gia đình Việt
Nam, trong đạo lí dân tộc, và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Câu thơ: "Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa" đã trở thành câu thơ trong trí nhớ nhiều người gần xa…
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 10
Bằng Việt là nhà thơ cùng lứa với các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống
Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt hàm chứa những tình cảm rộng lớn, yêu thương.
Tiêu biểu cho hồn thơ ông là bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963 khi tác giả
đang là một sinh viên ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, xa
người thân, những tình cảm về tuổi thơ có điều kiện được đơm mầm, nảy nở,
được tác giả chiêm nghiệm dài lâu. Hình ảnh người bà kính trong dòng cảm xúc
miên man của người cháu được thể hiện qua những dòng thơ nhớ thương da diết, không nguôi.
Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương, của sáng tạo nghệ thuật, ai cũng
muốn viết về tuổi thơ của mình nhưng vì thơ viết về kỷ niệm bao giờ cũng được
bao bọc không khí nhớ thương, tiếc nuối những chuyện đã qua nên thường lan
man, khó tìm thấy những chi tiết đặc sắc để lay động tâm hồn bạn đọc. Bằng
Việt cũng viết về kỷ niệm ấu thơ thuở hoa còn là nụ nhưng nhà thơ đã chọn cho
mình một chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng không phải ai cũng nhận ra: “Bếp
lửa”. Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh
người bà thương yêu – một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động:
“Một bếp lửa chơi vơi sương sớm.
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm. 48
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Lúc nào cũng vậy, bỏ qua không gian, bỏ qua thời gian, còn lại trong nhân vật
người cháu không gì khác ngoài hình ảnh người bà. Đầu tiên, ký ức đưa nhân
vật trở về những năm đói mòn đói mỏi. Cái đói quay đói quắt đã ám ảnh trong
văn chương một thời của ta, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn của Ngô Tất
Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi
nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc
đói nghèo trong rơm rợ… ”
Tuy nhiên, cái đói ở đây chỉ là cái cớ để tác giả nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc người gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Là vì khói, vì khó nhọc hay vì những tình cảm của một thời chia xa? Qua đó,
nhà thơ khẳng định tuổi thơ mình dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.
Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám
năm ròng trong tuổi thơ. Đoạn thơ không khỏi khiến ta chạnh nhớ về “Tiếng
chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: Cũng cha già, những kỷ niệm về một thời thiếu
nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một tiếng chim u uẩn,
không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ như một chi tiết
để thêm yêu bà mà thôi: 49
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ỏ cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Còn gì hơn với những chi tiết tự sự xúc động như thế? Câu thơ giản dị lời ăn
tiếng nói hàng ngày, không trau chuốt nhưng mới thực sự là thơ bởi đó là tiếng
nói của tình cảm, của yêu thương. Bà luôn bên cháu dạy dỗ, chăm sóc cho cháu
lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu. Vậy mà bây giờ cháu
cũng đi xa, để bà một mình khó nhọc:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Đặc biệt, hình ảnh người bà
bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm đau thương,
vất vả. Mặc kệ “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho chiến tranh tàn phá,
kho đau chất chồng, bà lúc nào cũng “đinh ninh” dặn cháu: “Cứ bảo nhà vẫn
được bình yên!”. Bà là hiện thánh cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương
lớn. Dẫu có thế nào đi chăng nữa thì không gì có thể lay chuyển được niềm tin
dai dẳng” của bà vào tương lai được:
“Rồi sớm rồi chiều lại bén lửa bà nhen
Một ngọn lừa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” 50
Không còn là bếp nữa rồi, bây giờ ngọn lửa luôn cháy trong lòng bà. Có người
nói, cứ quay ngược trái tim, là tấm lòng, tâm hồn cửa bà như bao người Việt
Nam đó. Một niềm tin bất diệt lạ lùng. Chính đức tin của bà ủ sẵn đã được
truyền sang cho cháu một cách tự nhiên như truyền lửa cho thế hệ mai sau.
Làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân
vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau qua giữa các
yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ.
Chính sự kết hợp nhuần nhị, độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật gần gũi,
những mảng ký ức tuổi thơ lại hiện về sống động và chân thật, giản dị.
Qua dòng hồi tưởng tinh tế đó nhà thơ trở về với hiện tại cũng là để nhớ về bà
nhiều hơn, thương bà nhiều hơn:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa.
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Nhà thơ khẳng định chắc chắn bếp lửa là hoá thân cụ thể của bà và bà cũng
chính là bếp lửa sưởi ấm tâm hồn nhà thơ mà bà luôn nhóm:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm thương yêu khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Tình cảm của bà thật bao la, giản dị như khoai sắn và cũng ngọt bùi như khoai
sắn. Cuối cùng, nhà thơ khẳng định: “Ôi! kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa”, một
câu thơ có sức khái quát cao. Qua thời gian, qua bom đạn, bếp lửa vẫn bập bùng 51
cháy . Nhưng hơn hết, nó còn là biểu tượng cho những tình cảm thiêng liêng,
những ân tình thuỷ chung trong cuộc đời mỗi người.
Hình ảnh của người bà, tình yêu của bà, niềm tin của bà qua hồi tưởng và suy
ngẫm của đứa cháu đã lớn, suy rộng ra là hình ảnh, tình yêu của quê hương, đất
nước đối với ta. Tình cảm trân trọng, yêu quý đối với bà là biểu hiện cụ thể tình
yêu lớn của mỗi người đối với nơi mình sinh ra và lớn lên. Ai cũng có một tuổi
thơ như thế. Vì vậy mà bài thơ đã đưa ta về với những ngày xưa tưởng đã ngủ yên trong quên lãng.
Phân tích hình ảnh người bà và ngọn lửa trong bài Bếp lửa
Tuổi thơ của mỗi một con người đều hiện diện những hình ảnh rất thiêng liêng
đáng quý trong ký ức, đó có thể là bóng dáng của người mẹ với những lời ru
ngọt ngào, người cha với những lời dạy sâu sắc,... Và đối với tác giả Bằng Việt
thì đó là hình ảnh người bà và bếp lửa đầy thiêng thiêng, đã nằm sâu trong ký ức
tuổi thơ, với những tình cảm kính yêu, mặn nồng chan chứa của người cháu
dành cho bà trong bài thơ Bếp lửa.
Tác giả Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê tại
Hà Nội, ông là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mỹ. Phong cách thơ của Bằng Việt giàu những suy tưởng, triết luận sâu sắc,
giọng thơ trầm bổng, tâm tình, thủ thỉ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963,
khi tác giả có chuyến đi du học ở nước ngoài, rời xa quê hương. Tác phẩm được
in trong tập Hương cây - Bếp lửa (1968) cùng chung với tác giả Lưu Quang Vũ.
Xuyên suốt một bài thơ dài như thế có lẽ hình ảnh người bà và bếp lửa hiện lên
rõ nét và thiêng liêng nhất trong ký ức, với nhiều những suy ngẫm của tác giả ở trong đoạn thơ sau: 52
"Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!"
Trong 3 câu thơ đầu, hình ảnh người bà hiện lên qua hành động quen thuộc, "rồi
sáng, rồi chiều" nhóm lên bếp lửa hồng với niềm tin kỳ lạ. Hình ảnh bếp lửa bà
nhen có 2 tầng ý nghĩa, đầu tiên là lớp nghĩa tả thực, ngọn lửa của bà chính là
nguồn ánh sáng, là hơi ấm để sử dụng trong gia đình, với lớp nghĩa ẩn dụ thì
hình ảnh ngọn lửa ấy lại chính là tượng trưng cho một niềm tin lạc quan, bất
diệt, là những ước mơ, tình cảm mà người bà dành cho cháu lúc nào cũng ấm
nồng và sáng như ngọn lửa nơi góc bếp của bà, nơi bà luôn ủ sẵn. Bếp của bà
chẳng bao giờ nguội lạnh, mà luôn có hình ảnh ngọn lửa đỏ rực đang bập bùng,
tựa như tấm lòng của người bà mãi dành cho người cháu thân yêu, mong cháu
sớm ngày trở về, với một niềm tin vững chắc rằng đất nước rồi đây sẽ lại hòa
bình, cháu lại bên bà như những ngày còn thơ ấu, cùng bà nhen lên bếp lửa nồng đượm ấm áp.
Trong những câu thơ tiếp, người cháu đã có những suy ngẫm về cuộc đời của bà.
Bà nuôi cháu nhỏ từ năm lên 4, cuộc đời bà vốn chất đầy những khó khăn cực
nhọc, bà là hiện thân của những người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo
sớm trưa, hết nuôi con nay lại nuôi cháu cứ như thế "Lận đận đời bà biết mấy 53
nắng mưa", mà bà chưa một lần than khó nhọc. Bà chăm chỉ, thức khuya dậy
sớm, thói quen ấy dường như đã ăn sâu vào tâm hồn của bà "mấy chục năm rồi,
đến tận bây giờ", bà chưa một lúc nào quên nhóm lên ngọn lửa hồng nơi góc
bếp, nấu cho gia đình những bữa ăn giản dị, khoai sắn nhưng đầy ắp tình yêu
thương, bảo bọc. Bếp lửa bà nhóm mỗi sớm chiều là hiện thân cho những tình
cảm chan chứa của người bà dành cho cháu, là sự đoàn kết sẻ chia lẫn nhau
trong gia đình và bếp lửa ấy cũng chính là khởi nguồn cho những giấc mơ trong
tâm hồn của người cháu. Bếp lửa ấy tưởng thân quen và bình dị nhưng nó lại
mang cả những giá trị và ý nghĩa cực kỳ thiêng liêng sâu sắc mà Bằng Việt đã
phải thốt lên "Ôi! Kỳ lạ và thiêng liêng-Bếp lửa". Đúng như vậy, qua những
dòng ký ức của người cháu, ta có thể nhận ra rằng, bếp lửa và người bà là những
ký ức đáng quý nhất trong lòng người cháu, bà giống như người giữ lửa và
truyền lửa cho cháu. Ngọn lửa trong tâm hồn ấy là tinh thần yêu quê hương, đất
nước sâu sắc, nỗi khát khao được ra tiền tuyến giành lại tự do cho dân tộc, cho
bà. Và hình ảnh bếp lửa của bà cứ bập bùng mấy chục năm trời ấy chính là niềm
tin bất diệt của người bà cũng là của người cháu về một tương lai đất nước tươi
đẹp hơn, về một tương lai bà cháu đoàn tụ, về lại bên nhau như những ngày thơ bé.
Bằng những hình ảnh giản dị, trong sáng và thân thuộc kết hợp với giọng thơ
như thủ thỉ tâm tình, hình ảnh người bà và ngọn lửa trong ký ức của tác giả đã
hiện lên với một tình cảm ấm áp, trân trọng. Hình ảnh ấy cũng mang nhiều ý
nghĩa sâu sắc và triết luận về niềm tin chiến thắng, về tình yêu thương tin tưởng
của người bà dành cho đứa cháu đang ở chiến trường xa xôi, đó là những tình
cảm cao đẹp và trân quý nhất.
Cảm nhận hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa 54
Hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những
hình tượng đẹp, niềm cảm hứng sâu sắc về người bà hiền hậu, phẩm chất tốt đẹp.
Hình ảnh "bếp lửa" là hình ảnh chủ đạo xuyên suốt bài thơ, là nơi khơi nguồn
cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu dù
không bên cạnh bà nhưng tâm trí luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có bà
và có cả những kỉ niệm tuổi thơ khi còn nhỏ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa "chờn vờn sương sớm" là hình ảnh giàu chất tả thực, gợi lên
hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm
mai. Bếp lửa ngày ngày hồng đỏ rực là nhờ có bàn tay của bà và nồng đượm sự
ấp ủ, bàn tay ấy dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà.
Đồng thời, hình ảnh cái bếp lửa ấy cũng ám ảnh và theo suốt trong tâm trí nhà
văn, hết mực trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương
của người cháu về người bà - người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai. Người
bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, tuy khó khăn nhưng luôn quan tâm cháu hết
mực lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm, lặng lẽ
góp nhóm lửa với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng mình, muốn
đem những thứ tốt nhất để nuôi dưỡng cháu. Đến những khổ thơ tiếp theo,
người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 55
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà...
Bà giống như người mẹ hiền, thay vai trò của mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc và
bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm
của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che
chở của người bà. Bà chính là tổ ấm, nơi che chở vững chắc, chỗ dựa thoải mái,
bình yên cho cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng,
chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của cha
mẹ. Cho nên, người cháu luôn khắc ghi tình cảm thiêng liêng của bà: "Nhóm
bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chữ "thương" đã tất cả tình yêu thương, sự
kính trọng và niềm biết ơn sâu sắc, tình cảm mà người cháu dành cho bà. Bà
phải khổ cực biết bao trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó
khăn, ác liệt, và cả bao mất mát:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"
Bà dù chịu khổ nhưng không muốn cho con biết. Đó phải chẳng là phẩm chất
cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Sự hi sinh 56
thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn
công lao to lớn nhất, là động lực cho những chiến sĩ mạnh mẽ đối mặt với cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược. Những dòng thơ cuối tuôn trào như nỗi xúc
động tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà cùng bếp lửa hiện lên càng
chân thực và sống động. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến
cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt, bà cũng là người nhóm lên ngọn lửa của yêu
thương để sưởi ấm tuổi thơ cháu trong suốt cuộc đời, kỉ niệm về bà là những kỉ
niệm tuyệt nhất, sâu sắc nhất để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm
nhà thì cháu vẫn khôn nguôi “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.
Cảm nhận người bà trong bài thơ Bếp lửa
Từ lâu hình ảnh người phụ nữ đã trở thành mạch nguồn xuyên suốt nuôi dưỡng
văn học Việt Nam. Áng thơ về hình ảnh những người bà, người mẹ luôn chạm
đến trái tim người đọc. Hình ảnh người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt cũng là một trong số đó.
“Bếp lửa” được viết năm 1963, khi tác giả đang học tại Ucraina. Đây là thời kì
đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ, còn nhiều gian khổ, khó khăn. Bài thơ
được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa giản dị, thân thương mà ấm áp, từ đó song
hành cùng với người bà trong suốt mạch nguồn câu chuyện. Qua đó không chỉ
khắc họa hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam với những vẻ đẹp truyền
thống mà còn thể hiện niềm yêu kính, biết ơn và tình cảm đối với quê hương đất
nước của người con xa xứ.
Hình ảnh người bà dần hiện ra trong ngọn lửa ở những câu thơ đầu:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.” 57
Bếp lửa hiện lên: “chờn vờn sương sớm”, là trong làn sương sớm mai hay là
trong làn sương mờ tỏ của kí ức, của thời gian mà cháu đang cố ngược dòng để
quay về? Ngọn lửa ấy ấm nóng bởi tình yêu thương, bởi bàn tay và tấm lòng ấp
ủ của của người nhóm: “ấp iu nồng đượm”. Hai từ “ấp iu” đã đủ cho ta thấy sự
ấp ủ, nâng niu và yêu thương của người nhóm lửa. Và rồi người ấy cũng hiện ra:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Hình ảnh người bà với “sương sớm”, với
“biết mấy nắng mưa” chẳng phải là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam luôn
tảo tần, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh hay sao?
Những ngày chiến tranh loạn lạc, gian khổ khó khăn là những kỉ niệm không thể
nào quên đối với cháu. Nhưng may mắn thay, trong những ngày tháng ấy, cháu lại có bà:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà.
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”.
Tuổi thơ của cháu thiếu thốn tình yêu thương của cha mẹ nhưng lại thật đủ đầy
bởi sự bao bọc của bà. Một loại các hành động được liệt kê: “cháu ở cùng bà, bà
bảo, bà dạy, bà chăm” đã khắc họa hình ảnh người bà tảo tần mà nhân hậu.
Thương cháu, bà làm cha, làm mẹ để bảo vệ, dạy dỗ và nuôi nâng cháu lên
người. Nhờ có bàn tay bà mà cháu mới có được ngày hôm nay. Để rồi cả cuộc
đời bà chỉ gói trong hai chữ “khó nhọc”. Yêu thương vô bờ mà chẳng nghĩ cho
mình. Hai chữ “khó nhọc” cất lên nghe mới xa xót và thấm thía làm sao, nó có
cả cuộc đời bà và cả tình yêu của đứa cháu. Để rồi lại chuyển thành niềm 58
thương, hối hận khi cháu giờ đây chẳng thể ở cạnh bà mà chỉ có thể nhắn gửi:
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà”.
Đặc biệt hình ảnh người bà càng được khắc họa sâu hơn khi:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!””
Bà hiện lên là một hậu phương vững chắc. Nơi hậu phương dẫu vẫn phải chịu
những tổn thương và mất mát nhưng bà “vẫn vững lòng” và “dặn cháu đinh
ninh”: “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Câu nói giản dị, thân thuộc của khẩu
ngữ thường ngày mà thấm thía bao nhiêu. Những người mẹ Việt Nam là thế, họ
không trực tiếp ra trận nhưng họ là người đã sinh ra những anh hùng, là người
chịu gạt giọt nước mắt riêng mà để con lên đường, và ở quê nhà vẫn không
nguôi lo nghĩ cho người ngoài tiền tuyến. Những chiến công sau này của dân
tộc, đã in bóng bao sự hi sinh thầm lặng của những bà mẹ Việt Nam anh hùng như thế.
Và rồi, hình ảnh bà nhập vào ngọn lửa để sáng lên:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Từ “bếp lửa” cụ thể của câu trước sang “ngọn lửa” câu sau đã mang tầm khái
quát và biểu tượng lớn hơn rồi. Bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều không 59
phải chỉ bằng than, củi tự nhiên mà còn bằng cả tấm lòng bà “luôn ủ sẵn”, “chứa
niềm tin dai dẳng”. Ngọn lửa kia có thể cháy suốt tuổi thơ của cháu chính bởi vì
nó được nhóm lên bởi ngọn lửa yêu thương, bởi niềm tin trong sáng và nhân
hậu trong lòng bà. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa cho cháu, cho thế hệ mai sau.
Từ đó mà tác giả suy ngẫm về bà, về cuộc đời bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” được lặp lại như để nhắc nhớ lại những gian khó,
vất vả mà bà phải chịu đựng. Từ đó làm sáng lên những phẩm chất, vẻ đẹp cao
quý của bà. Từ bàn tay của bà đã nhóm lên “bếp lửa ấp iu nồng đượm” sưởi ấm
cháu suốt một thời tuổi thơ. Từ bàn tay bà đã nhóm lên “niềm yêu thương khoai
sắn ngọt bùi”, rất giản dị, đơn sơ mà thấm đượm ân tình. Từ bàn tay bà mà tình
làng nghĩa xóm thêm gắn bó, yêu thương: “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung
vui”. Và chính bà đã nhóm lên ước mơ, khát vọng và tương lai của cháu sau này.
Điệp từ “nhóm” lại đầu mỗi câu thơ để khắc họa hình ảnh người bà: người
nhóm lửa, người truyền tải và lan tỏa yêu thương, ân nghĩa, ước mơ và niềm tin
cho xung quanh và cho cuộc sống. Để rồi Bằng Việt phải thốt lên: “Ôi! Kì là và
thiêng liêng – bếp lửa”. Nó kì lạ và thiêng liêng vì nó đơn sơ mà thắm tình,, nó
giản dị mà có thể nhóm lên bao tình nghĩa, ước mơ. 60
Nhờ ngọn lửa của bà, giờ đây, cháu đã ở nơi vùng trời mơ ước “Có khói trăm
tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” – có cuộc sống đủ đầy và tiện nghi nhưng
trong lòng vẫn khôn nguôi nhớ về bà, khôn nguôi câu hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Những câu thơ giản dị, dễ hiểu đã khắc họa một cách chân thực mà sâu sắc hình
ảnh người bà, người mẹ Việt Nam tảo tần, chịu thương chịu khó, giàu đức hi
sinh, niềm tin và nghị lực. Như hình ảnh người bà trong “Tiếng gà trưa” (Xuân
Quỳnh), trong “Đò Lèn” (Nguyễn Duy), đó chính là cội nguồn sức mạnh của
mọi đứa con và mọi chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Bài thơ khép lại trong hơi ấm và ánh sáng. Ngọn lửa của người bà năm xưa đã
cháy trong tâm hồn thế hệ độc giả từ bao giờ…
Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
“Thương bà cháu nhớ ngày xưa
Dãi dầu cuối chợ nắng mưa sáng chiều
Biển đời đơn độc mái chèo
Thuyền bà chống đỡ trăm chiều bão giông”
(“Bà ơi”, Phạm Trung Dũng)
Những câu thơ bình dị của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gợi nhắc đến hình ảnh
người bà cùng sự thân thương, gần gũi và thiêng liêng trong mối quan hệ về tình
cảm gia đình ấm áp. Tình cảm cao đẹp đó còn được nhà thơ Bằng Việt tái hiện
đầy xúc động thông qua bài thơ “Bếp lửa”. Bằng những vần thơ mang đậm màu
sắc của quá khứ, hoài niệm, hình ảnh người bà đã xuất hiện với sự trìu mến, thân thương. 61
Trước hết, mở đầu bài thơ, tác giả đã tái hiện hình ảnh người bà qua những năm
tháng tuổi thơ thiếu thốn và gian khó:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tác giả đã sử dụng từ láy “đói mòn đói mỏi” để miêu tả hiện thực chiến tranh
đau thương gắn liền cùng sự thiếu thốn và nhọc nhằn - hệ lụy của chính sách cai
trị tàn nhẫn của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Trong những năm tháng gian
truân đó, hình ảnh người bà hiện lên gắn với làn khói từ bếp lửa: “Chỉ nhớ khói
hun nhèm mắt cháu”. Dù thời gian qua đi nhưng ấn tượng về những năm tháng
đã qua vẫn còn đọng lại qua việc sử dụng từ “cay”. Và những kí ức sống bên bà
hiện về như một thước quay chậm:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Dù biết bao mùa tu hú đi qua, nhà thơ vẫn không thể quên được hình ảnh người
bà tần tảo nắng mưa. Những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi đã diễn tả thành
công những năm tháng tuổi thơ trong khói lửa chiến tranh. Bằng nghệ thuật liệt
kê, tác giả đã khơi gợi thành công những kỉ niệm sống trong vòng tay chở che
cùng sự săn sóc của người bà: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”... Mỗi một câu thơ
vang lên đều chất chứa những hồi ức về sự hi sinh tần tảo của người bà. Trong
những năm tháng “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà là chỗ dựa tinh thần,
là cội nguồn yêu thương chất chứa sự săn sóc, quan tâm. Những câu thơ của nhà 62
thơ Bằng Việt đã gợi nhắc đến hình ảnh người bà trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của nữ sĩ Xuân Quỳnh: “Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Nối tiếp mạch cảm xúc của những hồi ức đã qua là hình ảnh người bà qua
những suy ngẫm và cảm nhận chân thực của nhà thơ. Hình ảnh người bà luôn
gắn liền, song hành sóng đôi cùng những kỉ niệm bên bếp lửa và trở thành biểu
tượng cho sự ấm áp của tình thương yêu và chăm sóc:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Cuộc đời chứa đựng sự lận đận, vất vả lo toan của người bà đã được tái hiện
thành công thông qua biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “lận đận” lên đầu câu, kết
hợp các cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm rồi”. Xuôi dòng thời gian,
dù cuộc sống không ngừng đổi thay, người bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để
nhóm lên niềm tin yêu cùng những hi vọng trong tâm tưởng người cháu. Qua
từng câu chữ, chúng ta có thể thấy được tình cảm vừa giản dị, chân thành, vừa
tha thiết sâu nặng của người cháu đối với người bà. Hình ảnh người bà còn được
khắc họa cùng tấm lòng và tình yêu thương “ấp iu nồng đượm”:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…” 63
Thông qua điệp từ “nhóm”, hình ảnh người bà đã được tái hiện vừa chân thực,
vừa chứa đựng ý niệm ẩn dụ của sự hi sinh tần tảo và thiêng liêng. Đối với tác
giả, người bà chính là kết tinh cao đẹp nhất của tình thương yêu “ấp iu nồng
đượm”, là biểu tượng ngời sáng sự sẻ chia, quan tâm và chăm sóc “chia sẻ ngọt
bùi”, là người bồi đắp tâm hồn cháu trong những năm tháng tuổi thơ. Những
câu thơ với âm điệu tha thiết đã khắc họa thành công hình ảnh người bà luôn
hiện hữu trong tâm tưởng, đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, biết ơn của tác giả Bằng Việt.
Như vậy, bằng những câu thơ bình dị mang âm hưởng tha thiết, sâu lắng, nhà
thơ đã khắc họa bức chân dung người bà gắn với hình ảnh bếp lửa trong dòng
suy tưởng, chiêm nghiệm chứa đựng lòng biết ơn, kính yêu và trân trọng. Thông
qua hình ảnh người bà, chúng ta có thể thấy được những đức hi sinh, sự tần tảo
của những người bà, người mẹ trong những năm tháng lửa đạn bom rơi. 64