-
Thông tin
-
Quiz
Vật chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Vật chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
CÂU 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
-Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan tồn tại bên ngoài
không phụ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức của con người đem lại cho con người trong cảm giác và được chép lại, chụp lại, phản
ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.
Thứ nhất: Vật chất quyết định ý thức
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, nội dung này được hiểu theo hai ý sau đây:
+ Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau:
Ý thức là ý thức của con người, không tách rời con người, nhưng sự ra đời của con người cũng
có giới hạn còn thế giới vật chất thì tồn tại vĩnh viễn, vô hạn. Do đó có thể khẳng định rằng thế
giới vật chất là cái có trước con người, vì vậy thế giới vật chất phải có trước ý thức.
Vd:Con người xuất hiện trên trái đất này chỉ có lịch sử hơn 6 triệu năm, bản thân thế giới vật
chất vĩ mô hơn con người có lịch sử 4,5 tỷ năm. Trong khi đó quan điểm về thế giới vật chất là
vô cùng, vô tận không do ai sinh ra, cũng không ai làm mất đi thế giới khách quan, chúng ta
không thể nào đếm được điểm khởi đầu của thế giới vật chất cũng như dự đoán được điểm kết
thúc của thế giới vật chất. Vì những lý lẽ trên cho thấy thế giới vật chất phải có trước ý thức, vũ
trụ phải có trước trái đất, trái đất phải có trước con người và có con người rồi mới có ý thức.
Vì vậy, vai trò của vật chất với ý thức được thể hiện ở chỗ vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
+ Vật chất là nguồn gốc của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức bao gồm cả nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó nguồn gốc
tự nhiên của ý thức gồm có bộ não người và thế giới khách quan cùng với quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo giữa chúng, tác động qua lại giữa chúng. Nguồn gốc xã hội của ý thức đó
chính là lao động và ngôn ngữ.
Khi phân tích nguồn gốc của ý thức, chúng ta thấy bộ óc người thực ra là một dạng vật chất có tổ
chức cao, chứa đựng trong nó hàng tỷ noron thần kinh có khả năng sao lại, chụp lại, chép lại và
phản ánh thế giới khách quan bằng một cách năng động, sáng tạo. Như vậy, yếu tố tạo nên ý thức
là bộ não người là một dạng vật chất.
Thế giới khách quan thực chất là thế giới vật chất. Bản chất của ý thức chỉ là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Nếu không có thế giới khách
quan, bộ óc con người sẽ không có đối tượng để phản ánh và do đó chắc chắn không có ý thức.
Lao động chính là hoạt động vật chất, mang tính tất yếu nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của con người. Nhờ lao động mà con người có thể chủ động, tác động vào thế giới khách quan
làm cho nó bộc lộ những thuộc tính, kết cấu bản chất, quy luật vận động qua đó phản ánh vào bộ
óc người, hình thành những tri thức về tự nhiên, về xã hội.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất nhưng mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ chính là lớp vỏ vật chất của tư duy.
– Vật chất quyết định nội dung và mọi sự biến đổi của ý thức.
Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Ý thức tác động vào vật chất theo hai hướng:
– Hướng tích cực khi con người có tri thức đúng đắn, có nghị lực, ý chí và tình cảm tích cực thì
con người có khả năng hành động hợp quy luật khách quan.
– Hướng tiêu cực khi con người không có tri thức đúng đắn, thiếu tình cảm, ý chí cách mạng sẽ
nhận thức sai lầm và hành động trái quy luật.
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc
sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý
thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố
khách quan và điều kiện khách quan.
CÂU 3: Ý NGHĨA ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊ NIN
-Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất của thời đại về khoa học
tự nhiên, khoa học xã hội và những thành tựu về lý luận trong triết học, kinh tế chính trị và tư
tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Vật chất theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái quyết định ý thức; là
cái tác động lại vật chất; và nó có quan hệ biện chứng qua lại với nhau.
Ý nghĩa của việc Lênin tìm ra khái niệm vật chất:
- Định nghĩa của Lênin đã trả lời được câu hỏi: Vật chất có trước hay ý thức có trước?" Vật chất
chính là cái có trước ý thức có sau. Vật chất chính nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức
con người. Ý thức phản ánh thực tại khách quan đó và con người có khả năng nhận thức thế giới.
- Định nghĩa về vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù của vật chất với sự
phát hiện ra vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức và là nguồn gốc
khách quan của cảm giác.
- Định này có khắc phục được tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật đưa ra thời trước Mác.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủa nghĩa duy vật tầm thường vật chất
và coi ý thức cũng là một dạng vật chất.
- Định nghĩa về vật chất của Lênin đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy
vật lịch sử để thành một thể thống nhất (vật chất trong tự nhiên, trong xã hội đều là những dạng
cụ thể của vật chất, đều là thực tại khách quan).
Tóm lại định nghĩa vật chất của Lênin ở trên có những ý nghĩa sau:
-Việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất chính là thuộc tính tồn tại khách quan đã
giúp cho chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa phạm trù vật chất với phạm
trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được những hạn chế trong các quan niệm
của những nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những gì thuộc và
không thuộc về vật chất.
-Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề cơ bản của triết học, đó là vật chất là cái có trước và
ý thức là cái có sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó có thể thấy rằng con người có thể
nhận thức được thế giới quan thông qua sự sao chép, chụp lại và phản ánh đối với thực tại khách
quan. Định nghĩa vật chất của Lênin đã tạo ra cơ sở nền tảng, tiền đề để có thể xây dựng quan
niệm duy vật về xã hội.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát
huy tính năng động, chủ quan của mình. Nếu không tôn trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan.
– Ý có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn,
sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai
và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ
dễ dẫn đến bệnh bi quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ bệnh bảo thủ trì
trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
– Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan
Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
– Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác
– Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác.
CÂU 4: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Quan điểm toàn diện là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận triết học. Khi các
nhìn nhận phải được thể hiện một cách toàn diện. Quan điểm này mang đến tính đúng đắn trong
hoạt động xem xét hay đánh giá một đối tượng nhất định. Các nhà nghiên cứu chỉ ra tính hợp lý
cần thiết trong nhu cầu phản ánh chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó mà các đánh giá mới
mang đến tính chất khách quan, hiệu quả. Trên thực tế, quan điểm này giữ nguyên giá trị của nó.
Khi mà những cần thiết trong đánh giá hay phán xét đối tượng.
Quan điểm này thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích trên đối tượng. Khi nghiên cứu
và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc. Chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả
khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan đến sự vật. Tức là tất cả những tác động có thể lên chủ
thể đang quan tâm. Không chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cả xúc. Mà phải
là những tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đáng giá chuyên môn. Như vậy các hướng
tác động mới nếu có mới mang đến hiệu quả.
Nguồn gốc quan điểm:
Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các hiện tượng, sự vật trên
thế giới. Với các tính chất trong tác động và phản ánh kết quả khác nhau. Bởi phải có quan điểm
toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật, sự việc. Không có bất cứ sự vật nào tồn
tại một cách riêng biệt, hay chỉ chịu tác động từ duy nhất một yếu tố. Có khả năng tồn tại cô lập,
độc lập với các sự vật khác. Tính chất trong những ảnh hưởng từ chủ quan và khách quan là rất
đa dạng. Nghiên cứu và phân tích cho thấy rằng, nếu muốn đánh giá chủ thể một cách hiệu quả
nhất, cần nhìn nhận vào toàn diện và bày tỏ quan điểm.
-Ví dụ: Khi đang chạy xe trên đường tôi vô tình thấy một cuộc tranh cãi giữa một cô gái đi wave
và anh chàng đi ôtô. Cuộc tranh cãi diễn ra ngày càng quyết liệt hơn khiến tình trạng ùn tắc giao
thông ngày càng đông. Xe của cô gái bị hư hại nhiều hơn của người thanh niên kia nhưng chàng
thanh niên ấy còn có thái độ động tay với cô. Dựa vào quan điểm toàn diện tôi sẽ đánh giá sự
việc theo từng góc độ khác nhau.
+TH1: Do cô gái đi ẩu nên đã va phải vào chiếc oto của người này nhưng vẫn không chịu nhận
lỗi về mình mà đổ lỗi cho chàng trai.
+TH2: Do chàng trai đã lấn đường đi ẩu khiến tông phải xe của cô dẫn đến thiệt hại và không có
thái độ nhận lỗi và bồi thường.
Qua đó căn cứ vào từng góc độ trên ta mới có cách giải quyết phù hợp.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Quan điểm này được thể hiện từ cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Với các tính chất thể hiện trong tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa
dạng của các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Sự tác động lẫn nhau này giúp cách sự vật được phản ánh với tính chất đa dạng trong
thực tế. Một sự vật được nhìn nhận theo các yếu tố tác động và những tác động nên yếu tố khác.
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng, những phản ánh trên sự vật đều được giải thích và đều cần
phải giải thích. Khi những nguyên nhân luôn tồn tại và sự vật tác động lẫn nhau. Khi đó, việc
nhìn nhận và đánh giá muốn mang đến hiệu quả phải dựa trên những tính chất phản ánh đầy đủ
nhất. Xác định đúng đắn mới mang đến hiệu quả trong quan điểm thể hiện. Do đó mà tính chất
toàn diện là tính chất cần thiết, quan trọng.
Trong tính chát duy vật biện chứng, những nhìn nhận và đánh giá phải được xây dựng từ nhiều
chiều. Nó giải thích cho những phản ánh kết quả tồn tại trên thị trường. Những nguyên nhân
được tìm ra có nguyên nhân trực tiếp hay tác động không trực tiếp. Và phản ánh năng lực, khả
năng và cái nhìn nhiều chiều của một chủ thể.
Liên hệ bản thân: Từ việc đánh giá nhìn nhận sự việc qua từng góc độ khác nhau ta mới có thể
giải quyết suôn sẻ, thấu đáo mọi chuyện. Qua đó ta thấy được quan điểm toàn diện rất quan trọng
trong đời sống, giúp chúng ta nhận thức đúng đắn và tránh những phiền phức không đáng có.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách
quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Bên cạnh đó thì
khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng
của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một
hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định.
Câu 5: Phân tích quan điểm phát triển, nguyên lí về sự phát triển
Nguyên lý về sự phát triển
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát
triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật)
Quan điểm siêu hình, nói chung, phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hoá mặt ổn định của sự vật,
hiện tượng. Phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp
đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và
nguồn gốc của sự "phát triển" đó nằm ngoài chúng. Phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa quan
điểm siêu hìnhvà quan điểm biện chứng về sự phát triển V.I.Lênin viết: "Hai quan niệm cơ bản
(...) về sự phát triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và
sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành
những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy) ... Quan
niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động ... cho ta chìa
khoá của sự "tự vận động" của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của
những "bước nhảy vọt", của sự "gián đoạn của tính tiệm tiến", của sự "chuyển hoá thành mặt đối
lập", của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới" . 57
Như vậy, quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ, nó coi sự
phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện tượng cũ
mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế; nó chỉ ra nguồn gốc bên trong của sự vận động,
phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng
của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa không ngừng. Cơ sở của sự vận
động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập
trong mỗi sự vật, hiện tượng. Vì thế, V.I.Lênin cho rằng, học thuyết về sự phát triển của phép
biện chứng duy vật là "hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện". Do vậy, quan điểm này
được xây dựng thành khoa học nhằm phát hiện ra các quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau mà sự vận động đó có thể là vận động từ thấp lên cao,vận động
từ đơn giản đến phức tạp và vận động từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Đặc điểm chung
của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp lại sự vật,
hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa có những bước
nhảy vọt...làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi
tương đối trong sự tiến lên. Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là một trường hợp đặc
biệt của vận động, nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vật,
hiện tượng mới trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại
của các tổ chức vật chất cụ thể, mà "phát triển" thể hiện khác nhau. -
Cũng như mối liên hệ phổ biến, phát triển có tính khách quan(Ví d : H ụ t lúa, ạ h t đầầu ạ khi có n c,
ướđầất, chầất dinh d ng
ưỡ , ánh sáng dù không có con ng i
ườ nhưng nó vầẫn phát triể n ) thể
hiện ở chỗ, nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không
phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan
của con người. Phát triển có tính phổ biến: sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các
lĩnh vực tự nhiên(Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí
hậu thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.), xã hội và tư duy. Phát triển có
tính kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định
sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng
mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, vì vậy trong sự vật,
hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp
với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ
đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục phát triển. Phát triển có tính đa dạng, phong phú;
tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật,
hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của
sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác
động lên sự phát triển đó...
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất, nắm
được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải tự giác tuân thủ nguyên tắc phát
triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu.
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của
nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù
hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó
. Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát
triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố
tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Tóm lại, muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần "phải
xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động... trong sự biến đổi của nó"
Câu 6: Phân tích cách thức phát triẻn của sự vật hiện tượng (Qui luật
lượng đổi chất đổi)
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng
nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự
vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan. Chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành của sự vật,
hiện tượng, làm cho sự vật là nó chứ không phải cái khác. (trả lời cho câu hỏi sự vật, hiện
tượng đó là gì? và giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Đặc điểm cơ bản của chất là
nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là khi nó chưa chuyển hoá thành
sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá
trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như
vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy phạm khách quan vốn có cảu sự vật,
hiện tượng, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính của nó.. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài
hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động
nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt... Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì
nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại
trong thời gian nhất định. Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là
yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự
vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. Trong tự nhiên và phần
nhiều trong xã hội, lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong một số trường hợp của xã hội và
nhất là trong tư duy lượng khó đo được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng
năng lực trừu tượng hóa. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ theo từng
mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng trong mối quan hệ này, lại có
thể là chất trong mối quan hệ khác.
Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện tượng là một thể
thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự
vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một ; nhưng cũng trong độ
phạm vi độ đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắt
đầu từ lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng
không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay đổi đến
giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo
điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời.
Các khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy, xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chất và lượng.
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là
giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay
đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng khác.
Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật,
hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút
. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự
ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ m i và điểm nút m i. Bước nhảy
là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện
tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về
lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận
động liên tục của sự vật, hiện tượng.
Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện tượng đó
lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự
vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một
đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật
lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình, nó
tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng.
Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về
lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là
mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành
với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm
nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tuỳ vào
sự vật, hiện tượng, tuỳ vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự
thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước
nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố... của sự vật, hiện tượng thay đổi.
Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự
phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của
quá trình thay đổi về lượng.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy
tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau
chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng
cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường
hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.
Câu 7. Phân tích khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng
Trong quá trình vận động và phát triển vô tận của các sự vật và hiện tượng, cái mới xuất hiện phủ
định cái cũ, nhưng rồi nó lại bị cái mới hơn phủ định => Quy luật:” phủ
định của phủ định ” ,
vạch ra khuynh hướng phát triển tất yếu của sự vật và hiện tượng.
-Vị trí của quy luật: Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật,nó p/ánh về khuynh hướng chung của sự vận động phát triển và
tiến lên thông qua 1 chu kì phủ định biện chứng thì sự vật hiện tượng
mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện tượng cũ nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ.
-Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng
+Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
+Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân,
là mắt khâu của quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay
tư duy diễn ra thông qua những sự thay thế, trong đó có sự thay thế chấm
dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề
cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện,
tiền đề cho qúa trình phát triển của sự vất thì gọi là phủ định biện chứng
+Nội dung quy luật” Phủ định của phủ định”
-Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả
đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật -
giữa mặt khẳng định và phủ định.
-Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối
lập với mình (cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là
tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định là
cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái
bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu khỳ
phủ định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới
sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ
định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung
nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
-Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển
biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
-Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng
hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định
ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư
cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn,
phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
-Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự
vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như
vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
-Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của
sự vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng
mà theo đường "xoáy ốc".
-Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của
quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại,
tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại,
nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận
của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ
dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc"
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng; sự
thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi trải qua các mắt xích
chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển
Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá trình diễn ra
quanh co phức tạp, không đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với
quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về sự phát triển. Trong tự nhiên sự xuất hiện của sự
vật hiện tượng mới diễn ra tư phát; nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới đó gắn với nhận thức và
hạnh động có ý thức của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào đó sự
vật, hiện tượng cũ mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hienej tượng mới, tạo điều kiện cho nó
phât triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật hiện
tượng cũ, làm cho nó phù hợp với xu thế phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
*Liên hệ bài học cho bản thân: -
Luôn kế thừa có chọn lọc những yếu tố tiến bộ, cái gì lỗi thời phải kiên quyết gạt bỏ -
Luôn tin tưởng, ủng hộ cái mới, cái mới nhất định sẽ chiến thắng -
Nhận thức rõ được sự quanh co, phức tạp trong cuộc sống, học tập. Từ đó “thắng không
kiêu, bại không nản”. Ví dụ đạt được điểm cao trong học tập thì phải lấy đó làm động lực
để tiếp tục học… Sự vận động phát triển luôn là vô tận, khi bản thân không cố gắng sẽ trở
nên lỗi thời, lạc hậu. Khuynh hướng phát triển giúp cho em nhận thức đúng đắn hơn về
sự vận động, phát triển của thế giới, vì vậy cần không ngừng vận động phấn đấu để theo kịp sự phát triển.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc sự phát triển của sự vật hiện tượng
Quy luật “ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập”( Quy luật “ Mâu Thuẫn”) chỉ
ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
*Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn:
-Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa
những mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
-Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau
nhưng đồng thời là điều kiện, tiền đề để tồn tại lẫn nhau.
Các tính chất chung của mâu thuẫn + Tính khách quan + Tính phổ biến + Tính đa dạng
Quá trình vận động của mâu thuẫn: vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn
nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
(Thống nhất bao hàm sự đồng nhất, phù hợp, tác dụng ngang nhau)
+Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
-Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển:
Trong mâu thuẫn, sự thống nhất là trạng thái tương đối, còn sự đấu tranh là trạng thái tuyệt đối.
Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động
và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập.
Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau và nếu điều kiện chín muồi thì chúng sẽ
chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới ra đời
-Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật mâu thuẫn như sau:
Mọi sự vật đều chứa đựng những khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối
lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau
vừa chuyển hoá lẫn nhau làm cho mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái
mới ra đời thay thế cái cũ.
Ý nghĩa phương pháp luận
+ Vì phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải
phát hiện mâu thuẫn, tôn trọng, phân tích mâu thuẫn để nắm được khuynh hướng của sự vận
động và phát triển của sự vật.
+ Vì mâu thuẫn rất đa dạng, nên trong nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần có quan điểm lịch sử cụ thể.
CÂU 9. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Liên hệ bản thân ‘Mọi lý
thuyết đều là xanh xám, còn cây đời xanh tươi’
(GHI CÂU CỦA GOETHE RA NẾU ĐỀ CHO) Thực tiễn là gì? -
Thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật
chất – cảm tính, như lời của C.Mác, đó là những hoạt động vật chất của con ngừi cảm
giác được. Nghĩ là con người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này.
Hoạt động vật chất – cảm tính là những hđ mà con người phảo sủ dụng lực lượng vật
chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Trên cơ
sở đó con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan phục vụ cho mình. - -
Hđ thực tiễn là những hđ mang tính lsu – xh của con người. Nghĩa là, thực tiễn là hd chỉ
diễn ra trong xh, với sự tham gia đông đảo ng trong xh. Trong hđ thực tiễn con ng truyền
lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hđ thực tiễn
luôn bị giới hạn bởi những ddkien lsu – xh cụ thể. Đồng thời thực tiễn có trải qua các giai
đoạn lsu phát triển cụ thể của nó. - -
Thực tiễn là hđ có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xh để phục vụ con ng. Khác vớ hđ
có tính bản năng, tự phát của động vạt nhằm thích nghi thụ động với thế giới, con người
bằng và thông qua thực tiễn, chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của
mình, thích nghi 1 cách chủ động, thích nghi với thế giới. Như vậy nói tới thực tiễn là nói
tới hđ có tính tự giác cao của con ng, khác với hđ bản năng thụ động thích nghi của động vật.
Ví dụ như hoạt động gặt lúa của nông dân sử dụng liềm, máy gặt tác động vào cây lúa để thu
hoạch thóc lấy gạo để ăn; hay hoạt động lao động của các công nhân trong các nhà máy, xí
nghiệp tác động vào máy móc trên các loại vải, da,.. để tạo ra sản phẩm tiêu dùng như quần áo,
giày dép phục vụ đời sống con người…
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức - Thứ nhất:
Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực
tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở trình độ kinh
nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được
hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực gì đi
chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ thực tiễn thì
không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn và làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn
+ Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều
nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn
đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động
thực tiễn của con người.
-Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem tư duy con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận,
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu chuẩn logic
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này
vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn
biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của
con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và
nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm
nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ dung và phát triển trong lịch
sử. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận
Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường: Chính nhờ có
lý luận soi đường, hđ thực tiễn của con người mới có hiệu quả và đạt được mục đích mong
muốn. Thực tiễn phải đc chỉ đạo bởi lý luận vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xđ lực
lượng, vạch ra các phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo đc khả năng phát triển
các mqh thực tiễn, dự báo đc những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế thất bại có thể có trong
quá trình hoạt động. Chính vì vậy C.Mác đã nói; ‘Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thay
thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó xâm nhập vào quần chúng’.
Khi vận dụng vào thực tiễn cần lưu ý: -
Phân tích 1 cách cụ thể mỗi tình hình. Nếu vận dụng lý luận 1 cách máy móc, giáo điều,
kinh viện thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực
tiễn, làm sai lệch thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. - -
Từ lý luận ta cần xây dựng các moo hình dành cho hoạt động thực tiễn hướng theo những
mục tiêu khác nhau. Cần đư ra những dự báo về những diễn biến, các mối quan hệ, lực
lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy những
nhân tố tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao. - -
Phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh bổ sung những khiếm khuyết
của lý luận, hoặc thay đổi lý luận cho phù hợp vói thực tiễn. - -
Lý luận có thể mang lại hiệu quả, hoặc kh mang lại hiệu quả,hoặc kết quả chưa rõ ràng.
Khi đó, giá trị của lý luận do thực tiễn quy định.
Tóm lại: mọi hoạt động quan trọng đều xuất phát từ thực tiễn, lý thuyết lời nói có hay đến đâu,
thuyết phục đến đâu mà không được áp dụng vào thực tiễn thì cũng không có giá trị. Liên hệ với bản thân.
CÂU 10: CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản than con người thông qua
các giác quan và dựa trên kinh nghiệm của bản thân. Trong quá trình hoạt động, con người nhận
thức thế giới xung quanh và bản thân, trên cơ sở đó von người bày tỏ thái độ, tình cảm và hành
động từ đó tiến tới nhận thức thế giới khách quan, nhận thức chân lý, nhận thức chân lý và cải
tạo thế giới. Việc nhận thức thế giới có thể đạt tới những mức độ khác nhau: từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao. Nhưng các mức độ nhận thức đều có mqh chặt chẽ với nhau, bổ sung
cho nhau trong cùng 1 hoạt động thống nhất của con người. triết học Mác – Leenni không chỉ
khẳng định việc con người có thể nhận thức thế giới mà còn chỉ ra con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý, nhận thức thến giới khách quan. Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Leenin
viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Vậy Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là gì? -
Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với thực tiễn
và thông qua các giác quan trong đó:
+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật, hiện tượng tác
động vào các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm
giác. Cảm giác là hình ảnh phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi, vị, độ rắn...
+ Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác không phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, mà
phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau: tri giác
được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Cũng giống như cảm giác, tri giác phản ánh sự
vật, hiện tượng một cánh trực tiếp thông qua các giác quan.
+ Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động.
Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình
ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận thức khi sự vật không còn hiện diện trực tiếp trước
chủ thể. Con người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình dung ra chúng dựa trên sự
tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó ở biểu tượng, nhận thức đã ít nhiều mang tính chất gián tiếp.
Biểu tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. Ví dụ:……
-Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức gồm các
hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý:
+ Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng.
Nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản và phổ biến của một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định.
Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát những tri
thức do trực quan sinh động đem lại.
+ Phán đoán là sự vận dụng các khái niệm trong ý thức con người để phản ánh mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính, tính chất của chúng.
Có rất nhiều loại phán đoán khác nhau: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định, phán đoán
phổ biến, phán đoán đặc thù và phán đoán đơn nhất.
+ Suy lý là quá trình lôgíc của tư duy tuân theo quy luật nhất định để tạo ra một phán đoán mới
từ những phán đoán tiền đề.
Tính chân thực của phán đoán kết luận phụ thuộc vào tính chân thực của phán đoán tiền đề cũng
như tính hợp quy luật của quá trình suy luận. Ví dụ:
Mối Quan Hệ:Nhận thức lý tính khác với nhận thức cảm tính ở chỗ, nó đã phản ánh, khái quát,
trừu tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện. Vì vậy, nhận thức
lý tính có thể phản ảnh được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, phản ánh sự
vật, hiện tượng sâu sắc hơn nhận thức cảm tính. Đồng thời nó luôn hàm chứa nguy cơ xa rời hiện
thực. Do đó, nhận thức lý tính phải được gắn liền với thực tiễn và được kiểm tra bởi thực tiễn.
Đây cũng là thực chất bước chuyển từ tư duy trừu tượng đến thực tiễnNhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại thống nhất với nhau, liên hệ, bổ
sung cho nhau trong quá trình nhận thức của con người. Nhận thức cảm tínhlà cơ sở cho nhận
thức lý tính, không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Ngược lại, nhờ có nhận
thức lý tính mà con người mới đi sâu nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng.
VD: khi bạn nhìn thấy một ai đó, cảm giác đầu tiên của bạn đó là, ồ người đó thật xinh đẹp.
Nhưng sau đó bạn lại chuyển suy nghĩ của mình sang hướng khác. “Không biết tính cách, nhân
phẩm của người đó như thế nào”. Cảm giác đầu tiên đó chính là nhận thức cảm tính. Còn cách
suy nghĩ sau đó lại có những tư duy nhất định. Đó là nhận thức lý tính.
Nếu đề cho tình huống thì phân tích rồi chốt câu Nếu không có nhận thức cảm tính thì kết
luận CHƯA đúng/ chính xác
CÂU 11: SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ. “ MỖI THỜI ĐẠI LỊCH SỬ
KHÁC NHAU, KHÔNG PHẢI CHÚNG SẢN XUẤT RA CÁI GÌ MÀ Ở CHÚNG SẢN XUẤT
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Đó là hoạt động đặc trưng riêng có
của con người và xã hội loài người. Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và
tinh thần nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn
ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực.
Ph.Ăngghen khẳng định: "Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến
cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng định gì
hơn. Nếu như có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy
nhất quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, vô nghĩa”86.
Sự sản xuất xã hội, tức là sản xuất ra đời sống hiện thực bao gồm ba phương diện không tách rời nhau
là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Mỗi phương diện có vị trí,
vai trò khác nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Cùng với
sản xuất vật chất, con người tiến hành sản xuất tinh thần. Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra
các giá trị tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Đồng thời,
cùng với hai phương diện sản xuất cơ bản nói trên, xã hội còn phải sản xuất ra bản thân con người. Sự
sản xuất ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái để duy
trì nòi giống. Ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học - xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội,
nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Sản xuất vật chất là cơ sở, n.n tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Vai trò của
sản xuất vật chất được thể hiện, trước hết, sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt
của con người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng.
Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người. Hoạt động sản xuất vật
chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó hình thành nên các
quan hệ xã hội khác - quan hệ giữa người với người về chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Sản
xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động tinh thần của con người và
duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội. C.Mác chỉ rõ: "Việc sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp... tạo ra một cơ sở từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước,
các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta" 87.
Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời
sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt động sản xuất
vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức…Sản xuất vật
chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển phẩm chất xã hội của con
người. Ph.Ăngghen khẳng định rằng, trên một ý nghĩa cao nhất, "lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người"88. Như vậy, nhờ lao động sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự
nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người.
Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội
loài người có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ
đời sống sản xuất, từ nền sản xuất vật
Sản xuất vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng.
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội. Thông
qua sản xuất con người mới có cái ăn, cái mặc. Cũng như vận dụng vào kinh doanh, mua bán để tìm kiếm
các lợi ích kinh tế lớn hơn.
Sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người. Mang
đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy sản xuất nên một tầm cao mới. Nó chính là cơ sở của sự hình
thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Tác động lên nhận thức, điều chỉnh các hành vi và làm
mới đời sống của con người, chất lượng của xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ cao
hơn. Từ đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu đến thưởng thức, chiêm ngưỡng, tận hưởng. Như ăn, mặc,
nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch,… Đó là ý thức được hình thành và phát triển, yêu cầu con người
cũng phải cố gắng phấn đấu cho các nhu cầu sở hữu thực tế.
Tất yếu phải tiến hành sản xuất vật chất: