Preview text:

lOMoAR cPSD| 59960339 Câu 1
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác (Đây chính là định nghĩa được Lênin đưa ra trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.).
Phương thức tồn tại của vật chất tức là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật chất. Vận
động là cách thức tồn tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất, không gian và thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất. a. Vận động: 5 hình thức cơ bản:
• Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
• Vận động vật lý (vận động của các phân tử điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện,...).
• Vận động hóa học (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải).
• Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen,...).
• Vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của đời sống xã hội ).
Vận động cơ học (sự di
chuyển vị trí của các vật thể trong •
Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong
Vận động cơ học (sự di
chuyển vị trí của các vật thể trong
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định
vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn.
b. Không gian, thời gian:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao,
chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau,
trên hay dưới, bên phải hay bên trái,...) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại
như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình lOMoAR cPSD| 59960339
biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,... Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau: không có vật chất tồn tại ngoài không gian
và thời gian, cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động.
Tính th ố ng nh ấ t vật ch ấ t của thế g i ới theo nghĩa duy vật biệ n chứng khẳng định: b ả n
ch ấ t của thế g i ớ i là v ậ t ch ấ t, thế g i ớ i th ố ng nhất ở tính vật ch ấ t của nó:

Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là: Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có trước, tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức của con nguời.
Hai là: Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.
Ba là: Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,
hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật
khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau. ➢
Một là: Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế 2. Ý thức là gì?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh khách quan vào trong
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. ➢ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan: Thể hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh
thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức không
có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng
hóa, có định hướng, có lựa chọn. Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người. ➢
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác
động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là
sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con
người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, chính vật
chất sinh ra ý thức và quyết định ý thức. Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ
chức cao nhất (bộ óc người), là sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ
quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất quyết định. Nên vật chất
không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới
khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ngoài ra, ý thức cũng có thể tác động trở lại với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Bởi vì chính ý thức trang bị cho con người những hiểu biết về thế giới tự nhiên, về hiện
thực khách quan và dựa trên nền tảng đó con người sẽ có những tác động trở lại thế giới xung
quanh. Tuy nhiên tác động cũng có 2 mặt của nó:
✓ Tích cực: Khi ý thức phản ánh chính xác các quy luật vận động khách quan của vật chất thì ý
thức lúc này trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển. lOMoAR cPSD| 59960339
✓ Tiêu cực: Khi ý thức phản ánh không chính xác, sai lệch các quy luật vận động khách quan
của vật chất thì ý thức lúc này sẽ cản trở quá trình vận động và phát triển của vật chất. II.
Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
1. Phương pháp luận là gì?
Theo tư tưởng, quan điểm của học thuyết Marx – Lenin, phương pháp luận là lý luận về phương
pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc hướng tới việc chỉ ra phương hướng, những
nguyên tắc giúp con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận
thức và thực tiễn. 2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Hai ý nghĩa được rút ra:
➢ Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan.
➢ Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. III.
Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào việc học tập, làm việc và phát triển bản thân:
Có hai ý nghĩa chính của phương pháp luận chính được rút ra ở phần II:
1. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan.
2. Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. 1.
Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan. 2.
Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố Dựa vào ý nghĩa thứ nhất và lời
khẳng định của V.I. Lênin “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà
còn tạo ra thế giới khách quan.”, có thể thấy việc nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan,
hiện thực khách quan đóng vai trò thiết yếu cho việc rèn luyện và phát triển bản thân hay rộng
hơn là việc cải biến thế giới tự nhiên. Để có được quan điểm toàn diện, nhiều chiều, khách
quan, và nâng cao năng lực tư duy thì khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cần đặt sự vật,
hiện tượng đó trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các yếu tố cấu thành sự vật, hiện
tượng đó và đặt chúng trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng khác, cần phê
phán lối tư duy, đánh giá sự vật, hiện tượng một cách phiến diện, duy ý chí nhưng không suy xét nhiều góc nhìn.
Trong công việc, và học tập, để có được quan điểm, kiến thức toàn diện về một vấn đề, chúng ta cần
nâng cao khả năng tư duy phản biện của bản thân nhằm tiếp thu các kiến thức, hiểu biết một cách
có chọn lọc, khách quan. Trong cuốn sách “Rèn luyện tư duy phản biện”, tác giả Albert Rutherford đã
chỉ ra các đặc điểm của những người có tư duy phản biện nổi tiếng và dựa vào đó chúng ta cũng có
thể tự trang bị cho bản thân:
o Sự tò mò về nhiều chủ đề đa dạng.
o Nhận thức rõ về những tình huống họ có thể dùng tư duy phản biện. o Tự tin vào những lý
lẽ của mình. o Luôn muốn nạp thêm nhiều kiến thức mới. o Có sự khách quan trong việc đánh giá lý lẽ.
o Đánh giá cẩn thận khi thay đổi quan điểm và sẵn sàng thay đổi một luận điểm sai khi được giải thích hợp lý.
o Sự tò mò về nhiều chủ đề đa dạng. o Nhận thức rõ về những tình huống họ có thể dùng
tư duy phản Khi đã trang bị được những hiểu biết toàn diện về những vấn đề, sự vật, hiện
tượng xung quanh, mỗi người chúng ta trong quá trình học tập và làm việc cần phải không
ngừng nỗ lực, rèn luyện để phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của
yếu tố con người (Đây cũng là nội dung của ý nghĩa thứ hai như đã nên trên).
Có như vậy, chúng ta mới càng ngày càng phát triển, có thêm được những kiến thức hữu ích và dựa
vào đó trang bị thêm nhiều kỹ năng mềm cũng như kiến thức cứng cần thiết cho bản thân trong việc
học tập, rèn luyện. Từ đó lan toả ra cộng đồng nhằm xây dựng một cộng đồng vững mạnh, phát
triển hay nói rộng hơn là thúc đẩy sự phát triển của nền văn minh nhân loại.