Vi hiến ? Khái niệm vi hiến được hiểu như
thế nào ?
1. Nhận thức chung về Hiến pháp
Hiến pháp nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam hệ thống các quy
phạm pháp luật hiệu lực pháp cao nhất quy định những vấn đ bản
nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị,, chính sách kinh tế, văn hóa,
hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp của con người công dân.
Hiến pháp đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp
với tình hình thực tiễn yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước
hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Hiến pháp trải qua những lần sửa đổi, bổ
sung đã nhiều điểm mới cả về nội dung, kỹ thuật lập hiến, đã phản ánh
được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớ nhân dân; thể hiện
đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước, quy định ràng đúng
đắn đẩy đ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công
nghệ môi trường, quyền con người, quyền nghĩa vụ bản của công
dân, bảo vệ tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiến pháp là luật bản, luật mẹ”, luật gốc vậy nền tàng,
sở đ xây dựng phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Ngoài ra,
Hiến pháp còn luật tổ chức luật quy định các nguyên tắc tổ chức b máy
nhà nước, luật xác định cách thức tổ chức xác lập các mối quan h giữa
các quan lập pháp, hành pháp, pháp; quy định cấu trúc các đơn vị hành
chính lãnh thổ cách thức tổ chức chính quyền địa phương.
Hiến pháp luật bảo vệ các quyền con người công dân. c quyền con
người công dân bao giờ cũng một phần quan trọng của Hiến pháp. Do
Hiến pháp đạo luật bản của nhà nước nên các quy định về quyền con
người công dân trong hiện pháp sở pháp chủ yếu để nhà nước
hội tôn trọng bảo đảm thực hiện các quyền con người công dân.
Hiến pháp luật hiệu lực pháp tối cao, tất cả các văn bản pháp luật
khác không được trái với hiến pháp. Bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với
hiến pháp đều được hủy b điều này vi hiến.
Trước hết, chủ thể thi hành Hiến pháp đặc biệt so với chủ thể thi hành
các đạo luật bình thường khác. Đó các quan, tổ chức nắm quyền lực
nhà nước. quan, tổ chức quyền lực nhà nước càng nhiều quyền lực
bao nhiêu, càng phải trách nhiệm phải thi hành hiến pháp bấy nhiêu. Bên
cạnh việc thi hành khả năng vi phạm. Đó Quốc hội, quan thực hiện
quyền lập pháp, Chính phủ, quan thực hiện quyền hành pháp. Đó. còn
các quan Đảng cầm quyền thông qua các hoạt động của lập pháp hành
pháp. Đó các quan chính quyền địa phương. Khác với đạo luật thường
khác, việc thực thi Hiến pháp không những qua các quy định, còn cả tinh
thần của Hiến pháp.
2. Khái niệm vi hiến
Vi hiến hành vi làm trái quy định của Hiến pháp. Hành vi này thể được
thực hiện bởi bất tổ chức, nhân nào trong hội bao gồm cả các
quan công quyền n Quốc hội, Chính phủ hay tòa án các quan
pháp khác bất cứ thời điểm nào trong thời gian Hiến pháp hiệu lực.
Hành vi này thể được thực hiện bởi bất tổ chức, nhân nào trong
hội bao gồm cả các quan công quyển như quốc hội, chính phủ hay t án
các quan pháp khác... bất cứ thời điểm nào trong thời gian hiến
pháp hiệu lực.
3. Vi phạm hiến pháp các loại nh vi vi phạm hiến pháp
Thực tiễn cho thấy hai loại hành vi vi phạm Hiến pháp:
Thứ nhất hành vi hành động vi hiến hành vi của chủ thể thực hiện
hành động trái với các quy định Hiến pháp, hoặc không phù hợp với Hiến
pháp. Đó thể hành vi của quan ban hành n bản pháp luật không
phù hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của một quan, tổ chức, nhân
vi phạm thẩm quyền (lạm quyền) Hiến pháp trao cho; hoặc nh vi của
bất cứ quan, tổ chức, nhân nào nhân danh nhà nước ngăn cản hoặc
hạn chế việc thực hiện quyền tự do hợp pháp của nhân người dân theo
quy định của Hiến pháp.
Thứ hai nh vi không hành động vi hiến hành vi không thực hiện
thẩm quyền nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. quan, tổ chức,
nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện
không kịp thời những thẩm quyền nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi vi phạm Hiến
pháp không hành động.
Trong c trường hợp quan, nhân thẩm quyền chậm trễ hoặc
không thực hiện thẩm quyền ban nh văn bản quy định cụ thể về các quyền
tự do hiến định của người dân t không b coi là vi phạm Hiến pháp một
số nước. Trong mối quan h giữa Nhà nước người dân, một khi Nhà nước
ghi nhận khẳng định quyền tự do của người dân trong Hiến pháp đồng
nghĩa với việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo
đảm thực hiện. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản
quy phạm pháp luật quy định quyền tự do hiến định của người dân cũng
phải được coi vấn đề Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của hành vi
không hành động của quan, nhân được trao thẩm quyền.
Trong khi đó, các hành vi vi hiến không phải không có, hoạt động bảo
hiến Việt Nam chỉ được hiểu quy định nghĩa rộng, bao gồm các hoạt
động giám sát của các quan nhà nước cấp trên đối với các nhà nước
cấp dưới cho đến tận hành vi tuân thủ Hiến pháp của các công dân.
Hiến pháp giao cho Quốc hội được quyền giám sát tối cao đối với các hoạt
động tuân thủ Hiến pháp của mọi quan nhà nước. Đây cũng một điều
phi lý, chính Quốc hội mới ch th tiềm tàng khả năng nhất cho việc vi
phạm Hiến pháp. Thứ đến các quan hành pháp, đứng đầu Thủ
tướng Chính phủ, trong danh sách các chủ thể tiềm tàng khả năng vi phạm
Hiến pháp.
Khác với các đạo luật thông thường khác, chủ thể phải trách nhiệm thực
hiện Hiến pháp c quan chức n nước, không phải mọi công dân.
“Trong tất cả mọi thời đại, các nhà lãnh đạo trong một nền dân chủ hợp hiến
hành động trong phạm vi pháp quyền quy định chế ước quyền lực của
họ”
thể thấy, những người dân bình thường không khả năng vi phạm
Hiến pháp. Bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh nghĩa hẹp nhất của Hiến pháp
giới hạn quyền lực nhà nước. Điều này cũng dễ hiểu, bản thân sự hiện
diện của một bản Hiến pháp thành văn sự đòi hỏi việc tuân thủ bản hiến
pháp này đã bao hàm sự giới hạn quyền lực nhà nước. Cũng như những đạo
luật khác, sự hiện diện của đã đòi hỏi một sự tuân thủ. Nếu không sự
tuân thủ thì cũng chẳng cần đến việc chuẩn bị, việc thảo luận, rồi thông qua
chúng. Khi Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh, t người n chỉ được lợi
thôi, không điều ngược lại.
Khác với những đạo luật bình thường khác, sự vi phạm các quy định của
Hiến pháp chỉ do những chủ thể nắm quyền lực nhà nước, thể thấy quyền
lực càng cao bao nhiêu càng khả năng vi phạm Hiến pháp càng nhiều bấy
nhiêu. Khả năng vi phạm Hiến pháp nằm ngay trong trách nhiệm phải thi
hành Hiến pháp. Chính phủ không phải những thiên thần bao giờ ng
đúng. vậy, việc vi phạm Hiến pháp nếu có, trước hết phải kể đến quan
Quốc hội lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hành pháp;
quan Chính phủ bộ các quan ngang bộ quan Tòa án
pháp.
Người n chỉ thể vi phạm luật pháp luật, mà không hội cho
việc vi phạm Hiến pháp. dụ, một hành vi giết người, tức hành vi xâm
phạm đến quy định của Bộ luật Hình sự do Quốc hội lập pháp ban hành,
nhưng sẽ không xâm phạm tới c mối quan hệ được quy định trọng Hiến
pháp. Đó hành vi vi phạm pháp luật vi pháp, chứ không phải hành vi vi
hiến. Nếu vi hiến thì chỉ vi phạm gián tiếp các quy định của Hiến pháp:
Quyền được bảo vệ mạng sống quyền được sống của con người được
Hiến pháp bảo vệ.
Hoạt động bảo hiến, hay cụ thể hơn nghĩa hẹp hoạt động tài phán Hiến
pháp, phần nhiều tập trung vào hoạt động lập pháp của Quốc hội, tức hoạt
động ban hành các văn bản luật mâu thuẫn với Hiến pháp. Đáng tiếc rằng,
Hiến pháp trước đây hiện hành của Việt Nam lại giao nhiệm vụ giám sát
việc tuân thủ Hiến pháp cho rất nhiều chủ thể: Từ Ủy ban nhân dân cấp
sở cho đến cấp cuối cùng cao nhất nặng nề nhất Quốc hội.
Thực trạng cho thấy, mặc Hiến pháp được coi đạo luật gốc tuy nhiên
việc thực thi Hiến pháp đôi khi chưa được chú trọng q nhiều, do đó việc
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các hành vi vi phạm Hiến pháp chưa được
đặt ra đúng mức. Ngoài ra, trong nhận thức của nhiều người vẫn những
sự lầm tưởng về việc Hiến pháp được ban hành cũng giống như các đạo luật
khác được ban hành để chỉ cho nhân dân phải thực hiện quên mất rằng
tất cả những nhân ,cơ quan, tổ chức nắm giữ quyền lực nhà nước cũng
phải thực hiện đây mới những chủ thể cần phải thực hiện một cách
nghiêm túc nhất. Cũng những nhận thức lầm tưởng rằng Hiến pháp
đạo luật tối cao nên chỉ tập trung những nguyên tắc chung, muốn cho
những quy định chung này được thực hiện t cần phải sự cụ thể hóa
bằng các đạo luật chuyên ngành khác.
4. Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật
Việt Nam, Hiến pháp n kiện chính trị pháp giữa vai trò nền tảng
vị trí tối thượng. thế việc bảo vệ Hiến pháp cũng không kém phần
quan trọng như việc y dựng, ban hành Hiến pháp. Một trong những biện
pháp bảo vệ Hiến pháp hiệu quả nhất thiết lập h thống quy phạm pháp
luật về bảo hiến, theo đó c lập các thiết chế, phương thức vận hành của
các thiết chế này, tạo thành một chế bảo vệ Hiến pháp.
đây, khái niệm chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật không phải là khái
niệm mới một cách tiếp cận khác của khái niệm chế bảo hiến theo
đó, chú trọng tới tính pháp của chế bảo hiến.
Trên thực tế, chế bảo hiến nào cũng phải được vận hành trên một nền
tảng pháp được n nước đó thừa nhận ngay trong Hiến pháp được cụ
thể hóa bằng các đạo luật riêng. Tuy nhiên, tùy thuộc đó chế do Nhà
nước thiết lập hay chế hội bảo vệ Hiến pháp nh pháp của chúng
không giống nhau. Tính pháp được hiểu hoạt động bảo vệ Hiến pháp
giá trị pháp lý, khiến cho hành vi bị coi vi hiến sẽ b suy t, đánh giá kết
luận theo trình tự, thủ tục luật định chủ thể bảo hiến trực tiếp quyết định áp
dụng biện pháp trừng phạt đối với chủ thể hành vi vi hiến.
Đây cũng là điểm đặc thù riêng của chế Nhà nước thiết lập để bảo vệ
Hiến pháp. Để thực hiện được điều này, trước tiên Nhà nước phải xây dựng
được một h thống quy phạm pháp luật, bảo vệ Hiến pháp để tạo hành lang
pháp các điều kiện bảo đảm cho việc bảo hiến.
khía cạnh khác, chế hội bảo vệ Hiến pháp chủ yếu mang tính phản
ánh hội, tác dụng tạo nên sự thống nhất trong nhận thức của nhiều chủ
thể trong hội (nhóm hội, giai tầng trong hội…), đ thúc giục các chủ
thể thẩm quyền đưa ra các quyết định để bảo vệ Hiến pháp trước nguy
họ cho rằng đó vi hiến. chế tác động bảo hiến đây mang tính gián
tiếp, không trực tiếp hiệu quả pháp đối với chủ thể hành vi vi hiến.
Theo cách tiếp cận chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, vẫn nhìn nhận
dưới góc độ cấu trúc chế bảo hiến, gồm: thể chế bảo hiến quy phạm
pháp luật về bảo hiến, thiết chế bảo hiến các quan, tổ chức được trao
quyền bảo hiến, phương thức vận hành, phối hợp giữa các thiết chế bảo hiến,
nhưng cấu trúc đó được luật hóa thành hệ thống vận nh theo khung khổ
pháp đã được thiết lập, trong đó Hiến pháp giữ vị trí tối thượng. Thiết nghĩ
để bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, c quan xây dựng pháp luật cần
phải sớm chọn hoàn thiện 1 trong 3 phương án là:
(1) Quốc hội lập Ủy ban giám sát trực thuộc Quốc hội;
(2) Trao quyền bảo vệ Hiến pháp cho Tòa án Tối cao;
(3) Thiết lập Tòa án Hiến pháp độc lập.
5. Ý nghĩa của việc bảo hiến
Hiến pháp một h thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản, thiết
lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều
bản Hiến pháp được xây dựng cũng bảo đảm các quyền nhất định của Nhân
dân. Xét về mặt nội dung, Hiến pháp đạo luật bản quy định các quy tắc
pháp quan trọng nhất của quốc gia.
Một bản Hiến pháp tốt nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ
một nhà nước minh bạch, quản hội hiệu quả, bảo vệ tốt c quyền lợi
của người dân. Đây yếu tố không thể thiếu để quốc gia ổn định phát
triển. Lịch sử loài người cho thấy, Hiến pháp gắn liền với vận mệnh của mỗi
quốc gia.
Sự thịnh vượng, tính năng động, sức sáng tạo mạnh mẽ của hội khả
năng hóa giải khủng hoảng một ch nhanh chóng của một số quốc gia (Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Đức,…) được cho xuất phát từ những nguyên tắc được xác
lập trong Hiến pháp của các nước này. Ngược lại, sự suy yếu sụp đổ của
nhiều quốc gia nguyên nhân từ những thiết chế, quy phạm chuyên chính,
tập quyền xa rời thực tế trong Hiến pháp các nước đó.
Một bản Hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét trên nhiều
phương diện. Trước hết, một bản Hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân ch
thực sự, trong đó mọi người dân thể tự do bày tỏ tưởng, ý kiến quan
điểm về c vấn đề của đất nước bản thân mình không sợ hãi bị áp bức
hay trừng phạt. Đây tiền đề để khai mở phát huy trí tuệ, năng lực của
mọi nhân trong hội ng như đ phòng, chống lạm quyền tham
nhũng.
Một bản Hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các quyền
con người, quyền công n phù hợp với c chuẩn mực chung của cộng
đồng quốc tế, tạo lập chế cho phép mọi người dân thể sử dụng để bảo
vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. Hiến pháp công cụ pháp đầu tiên
quan trọng nhất để bảo vệ dân quyền nhân quyền. Cuối cùng, một bản
Hiến pháp tốt, với tất cả những ưu điểm nêu trên, sẽ tạo ra sự ổn định
phát triển của đất nước, qua đó giúp người dân cuộc sống tốt hơn cả về
vật chất lẫn tinh thần.

Preview text:

Vi hiến là gì ? Khái niệm vi hiến được hiểu như thế nào ?
1. Nhận thức chung về Hiến pháp
– Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định những vấn đề cơ bản
nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị,, chính sách kinh tế, văn hóa, xã
hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý của con người và công dân.
– Hiến pháp đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp
với tình hình thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và
hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Hiến pháp trải qua những lần sửa đổi, bổ
sung đã có nhiều điểm mới cả về nội dung, kỹ thuật lập hiến, đã phản ánh
được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớ nhân dân; thể hiện rõ và
đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước, quy định rõ ràng đúng
đắn và đẩy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công
nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, bảo vệ tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước.
– Hiến pháp là luật cơ bản, là ” luật mẹ”, luật gốc vì vậy nó là nền tàng, là cơ
sở để xây dựng và phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Ngoài ra,
Hiến pháp còn là luật tổ chức là luật quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy
nhà nước, là luật xác định cách thức tổ chức và xác lập các mối quan hệ giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; quy định cấu trúc các đơn vị hành
chính lãnh thổ và cách thức tổ chức chính quyền địa phương.
– Hiến pháp là luật bảo vệ các quyền con người và công dân. Các quyền con
người và công dân bao giờ cũng là một phần quan trọng của Hiến pháp. Do
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước nên các quy định về quyền con
người và công dân trong hiện pháp là cơ sở pháp lý chủ yếu để nhà nước và
xã hội tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền con người và công dân.
– Hiến pháp là luật có hiệu lực pháp lý tối cao, tất cả các văn bản pháp luật
khác không được trái với hiến pháp. Bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với
hiến pháp đều được hủy bỏ và điều này là vi hiến.
– Trước hết, chủ thể thi hành Hiến pháp là đặc biệt so với chủ thể thi hành
các đạo luật bình thường khác. Đó là các cơ quan, tổ chức nắm quyền lực
nhà nước. Cơ quan, tổ chức quyền lực nhà nước càng có nhiều quyền lực
bao nhiêu, càng phải có trách nhiệm phải thi hành hiến pháp bấy nhiêu. Bên
cạnh việc thi hành là khả năng vi phạm. Đó là Quốc hội, cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đó. còn là
các cơ quan Đảng cầm quyền thông qua các hoạt động của lập pháp và hành
pháp. Đó là các cơ quan chính quyền địa phương. Khác với đạo luật thường
khác, việc thực thi Hiến pháp không những qua các quy định, mà còn cả tinh thần của Hiến pháp. 2. Khái niệm vi hiến
Vi hiến là hành vi làm trái quy định của Hiến pháp. Hành vi này có thể được
thực hiện bởi bất kì tổ chức, cá nhân nào trong xã hội bao gồm cả các cơ
quan công quyền như Quốc hội, Chính phủ hay tòa án và các cơ quan tư
pháp khác … và ở bất cứ thời điểm nào trong thời gian Hiến pháp có hiệu lực.
Hành vi này có thể được thực hiện bởi bất kì tổ chức, cá nhân nào trong xã
hội bao gồm cả các cơ quan công quyển như quốc hội, chính phủ hay toà án
và các cơ quan tư pháp khác... và ở bất cứ thời điểm nào trong thời gian hiến pháp có hiệu lực.
3. Vi phạm hiến pháp và các loại hành vi vi phạm hiến pháp
Thực tiễn cho thấy có hai loại hành vi vi phạm Hiến pháp:
Thứ nhất là hành vi hành động vi hiến là hành vi của chủ thể thực hiện
hành động trái với các quy định Hiến pháp, hoặc không phù hợp với Hiến
pháp. Đó có thể là hành vi của cơ quan ban hành văn bản pháp luật không
phù hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của một cơ quan, tổ chức, cá nhân
vi phạm thẩm quyền (lạm quyền) mà Hiến pháp trao cho; hoặc hành vi của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nhân danh nhà nước ngăn cản hoặc
hạn chế việc thực hiện quyền và tự do hợp pháp của cá nhân người dân theo
quy định của Hiến pháp.
Thứ hai là hành vi không hành động vi hiến là hành vi không thực hiện
thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện
không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp không hành động.
– Trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chậm trễ hoặc
không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về các quyền
và tự do hiến định của người dân thì không bị coi là vi phạm Hiến pháp ở một
số nước. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân, một khi Nhà nước
ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của người dân trong Hiến pháp đồng
nghĩa với việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo
đảm thực hiện. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản
quy phạm pháp luật quy định quyền và tự do hiến định của người dân cũng
phải được coi là vấn đề Hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của hành vi
không hành động của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền.
– Trong khi đó, các hành vi vi hiến không phải là không có, hoạt động bảo
hiến ở Việt Nam chỉ được hiểu và quy định ở nghĩa rộng, bao gồm các hoạt
động giám sát của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với các cơ nhà nước
cấp dưới và cho đến tận hành vi tuân thủ Hiến pháp của các công dân.
– Hiến pháp giao cho Quốc hội được quyền giám sát tối cao đối với các hoạt
động tuân thủ Hiến pháp của mọi cơ quan nhà nước. Đây cũng là một điều
phi lý, vì chính Quốc hội mới là chủ thể tiềm tàng khả năng nhất cho việc vi
phạm Hiến pháp. Thứ đến là các cơ quan hành pháp, mà đứng đầu là Thủ
tướng Chính phủ, trong danh sách các chủ thể tiềm tàng khả năng vi phạm Hiến pháp.
Khác với các đạo luật thông thường khác, chủ thể phải có trách nhiệm thực
hiện Hiến pháp là các quan chức nhà nước, mà không phải mọi công dân.
“Trong tất cả mọi thời đại, các nhà lãnh đạo trong một nền dân chủ hợp hiến
hành động trong phạm vi mà pháp quyền quy định và chế ước quyền lực của họ”
– Có thể thấy, những người dân bình thường không có khả năng vi phạm
Hiến pháp. Bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh ở nghĩa hẹp nhất của Hiến pháp là
giới hạn quyền lực nhà nước. Điều này cũng là dễ hiểu, vì bản thân sự hiện
diện của một bản Hiến pháp thành văn và sự đòi hỏi việc tuân thủ bản hiến
pháp này đã bao hàm sự giới hạn quyền lực nhà nước. Cũng như những đạo
luật khác, sự hiện diện của nó đã đòi hỏi một sự tuân thủ. Nếu không có sự
tuân thủ thì cũng chẳng cần đến việc chuẩn bị, việc thảo luận, rồi thông qua
chúng. Khi Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh, thì người dân chỉ được lợi
mà thôi, không có điều ngược lại.
– Khác với những đạo luật bình thường khác, sự vi phạm các quy định của
Hiến pháp chỉ do những chủ thể nắm quyền lực nhà nước, có thể thấy quyền
lực càng cao bao nhiêu càng có khả năng vi phạm Hiến pháp càng nhiều bấy
nhiêu. Khả năng vi phạm Hiến pháp nằm ngay trong trách nhiệm phải thi
hành Hiến pháp. Chính phủ không phải là những thiên thần bao giờ cũng
đúng. Vì vậy, việc vi phạm Hiến pháp nếu có, trước hết phải kể đến cơ quan
Quốc hội – lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ – hành pháp;
cơ quan Chính phủ – bộ và các cơ quan ngang bộ và cơ quan Tòa án – tư pháp.
– Người dân chỉ có thể vi phạm luật và pháp luật, mà không có cơ hội cho
việc vi phạm Hiến pháp. Ví dụ, một hành vi giết người, tức là hành vi xâm
phạm đến quy định của Bộ luật Hình sự do Quốc hội – lập pháp ban hành,
nhưng sẽ không xâm phạm tới các mối quan hệ được quy định trọng Hiến
pháp. Đó là hành vi vi phạm pháp luật – vi pháp, chứ không phải là hành vi vi
hiến. Nếu có vi hiến thì chỉ là vi phạm gián tiếp các quy định của Hiến pháp:
Quyền được bảo vệ mạng sống – quyền được sống của con người được Hiến pháp bảo vệ.
– Hoạt động bảo hiến, hay cụ thể hơn ở nghĩa hẹp là hoạt động tài phán Hiến
pháp, phần nhiều tập trung vào hoạt động lập pháp của Quốc hội, tức là hoạt
động ban hành các văn bản luật mâu thuẫn với Hiến pháp. Đáng tiếc rằng,
Hiến pháp trước đây và hiện hành của Việt Nam lại giao nhiệm vụ giám sát
việc tuân thủ Hiến pháp cho rất nhiều chủ thể: Từ Ủy ban nhân dân cấp cơ
sở cho đến cấp cuối cùng cao nhất và nặng nề nhất – là Quốc hội.
– Thực trạng cho thấy, mặc dù Hiến pháp được coi là đạo luật gốc tuy nhiên
việc thực thi Hiến pháp đôi khi chưa được chú trọng quá nhiều, do đó việc
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các hành vi vi phạm Hiến pháp chưa được
đặt ra đúng mức. Ngoài ra, trong nhận thức của nhiều người vẫn có những
sự lầm tưởng về việc Hiến pháp được ban hành cũng giống như các đạo luật
khác được ban hành để chỉ cho nhân dân phải thực hiện mà quên mất rằng
tất cả những cá nhân ,cơ quan, tổ chức nắm giữ quyền lực nhà nước cũng
phải thực hiện và đây mới là những chủ thể cần phải thực hiện một cách
nghiêm túc nhất. Cũng có những nhận thức lầm tưởng rằng Hiến pháp vì là
đạo luật tối cao nên chỉ tập trung những nguyên tắc chung, mà muốn cho
những quy định chung này được thực hiện thì cần phải có sự cụ thể hóa
bằng các đạo luật chuyên ngành khác.
4. Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật
Ở Việt Nam, Hiến pháp là văn kiện chính trị – pháp lý giữa vai trò là nền tảng
và vị trí tối thượng. Vì thế mà việc bảo vệ Hiến pháp cũng không kém phần
quan trọng như việc xây dựng, ban hành Hiến pháp. Một trong những biện
pháp bảo vệ Hiến pháp hiệu quả nhất là thiết lập hệ thống quy phạm pháp
luật về bảo hiến, theo đó xác lập các thiết chế, phương thức vận hành của
các thiết chế này, tạo thành một cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Ở đây, khái niệm cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật không phải là khái
niệm mới mà là một cách tiếp cận khác của khái niệm cơ chế bảo hiến theo
đó, chú trọng tới tính pháp lý của cơ chế bảo hiến.
Trên thực tế, cơ chế bảo hiến nào cũng phải được vận hành trên một nền
tảng pháp lý được nhà nước đó thừa nhận ngay trong Hiến pháp và được cụ
thể hóa bằng các đạo luật riêng. Tuy nhiên, tùy thuộc đó là cơ chế do Nhà
nước thiết lập hay cơ chế xã hội bảo vệ Hiến pháp mà tính pháp lý của chúng
không giống nhau. Tính pháp lý được hiểu là hoạt động bảo vệ Hiến pháp có
giá trị pháp lý, khiến cho hành vi bị coi là vi hiến sẽ bị suy xét, đánh giá và kết
luận theo trình tự, thủ tục luật định và chủ thể bảo hiến trực tiếp quyết định áp
dụng biện pháp trừng phạt đối với chủ thể có hành vi vi hiến.
Đây cũng là điểm đặc thù riêng có của cơ chế Nhà nước thiết lập để bảo vệ
Hiến pháp. Để thực hiện được điều này, trước tiên Nhà nước phải xây dựng
được một hệ thống quy phạm pháp luật, bảo vệ Hiến pháp để tạo hành lang
pháp lý và các điều kiện bảo đảm cho việc bảo hiến.
Ở khía cạnh khác, cơ chế xã hội bảo vệ Hiến pháp chủ yếu mang tính phản
ánh xã hội, có tác dụng tạo nên sự thống nhất trong nhận thức của nhiều chủ
thể trong xã hội (nhóm xã hội, giai tầng trong xã hội…), để thúc giục các chủ
thể có thẩm quyền đưa ra các quyết định để bảo vệ Hiến pháp trước nguy cơ
mà họ cho rằng đó là vi hiến. Cơ chế tác động bảo hiến ở đây mang tính gián
tiếp, không trực tiếp có hiệu quả pháp lý đối với chủ thể có hành vi vi hiến.
Theo cách tiếp cận cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, vẫn nhìn nhận
dưới góc độ cấu trúc cơ chế bảo hiến, gồm: thể chế bảo hiến – là quy phạm
pháp luật về bảo hiến, thiết chế bảo hiến – các cơ quan, tổ chức được trao
quyền bảo hiến, phương thức vận hành, phối hợp giữa các thiết chế bảo hiến,
nhưng cấu trúc đó được luật hóa thành hệ thống và vận hành theo khung khổ
pháp lý đã được thiết lập, trong đó Hiến pháp giữ vị trí tối thượng. Thiết nghĩ
để bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, các cơ quan xây dựng pháp luật cần
phải sớm chọn và hoàn thiện 1 trong 3 phương án là:
(1) Quốc hội lập Ủy ban giám sát trực thuộc Quốc hội;
(2) Trao quyền bảo vệ Hiến pháp cho Tòa án Tối cao;
(3) Thiết lập Tòa án Hiến pháp độc lập.
5. Ý nghĩa của việc bảo hiến
Hiến pháp là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản, thiết
lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều
bản Hiến pháp được xây dựng cũng bảo đảm các quyền nhất định của Nhân
dân. Xét về mặt nội dung, Hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định các quy tắc
pháp lý quan trọng nhất của quốc gia.
Một bản Hiến pháp tốt là nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và
một nhà nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi
của người dân. Đây là yếu tố không thể thiếu để quốc gia ổn định và phát
triển. Lịch sử loài người cho thấy, Hiến pháp gắn liền với vận mệnh của mỗi quốc gia.
Sự thịnh vượng, tính năng động, sức sáng tạo mạnh mẽ của xã hội và khả
năng hóa giải khủng hoảng một cách nhanh chóng của một số quốc gia (Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Đức,…) được cho là xuất phát từ những nguyên tắc được xác
lập trong Hiến pháp của các nước này. Ngược lại, sự suy yếu và sụp đổ của
nhiều quốc gia có nguyên nhân từ những thiết chế, quy phạm chuyên chính,
tập quyền và xa rời thực tế trong Hiến pháp các nước đó.
Một bản Hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét trên nhiều
phương diện. Trước hết, một bản Hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân chủ
thực sự, trong đó mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến và quan
điểm về các vấn đề của đất nước và bản thân mình không sợ hãi bị áp bức
hay trừng phạt. Đây là tiền đề để khai mở và phát huy trí tuệ, năng lực của
mọi cá nhân trong xã hội cũng như để phòng, chống lạm quyền và tham nhũng.
Một bản Hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các quyền
con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực chung của cộng
đồng quốc tế, tạo lập cơ chế cho phép mọi người dân có thể sử dụng để bảo
vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. Hiến pháp là công cụ pháp lý đầu tiên
và quan trọng nhất để bảo vệ dân quyền và nhân quyền. Cuối cùng, một bản
Hiến pháp tốt, với tất cả những ưu điểm nêu trên, sẽ tạo ra sự ổn định và
phát triển của đất nước, qua đó giúp người dân có cuộc sống tốt hơn cả về
vật chất lẫn tinh thần.
Document Outline

  • Vi hiến là gì ? Khái niệm vi hiến được hiểu như th
    • 1. Nhận thức chung về Hiến pháp
    • 2. Khái niệm vi hiến
    • 3. Vi phạm hiến pháp và các loại hành vi vi phạm h
    • 4. Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật
    • 5. Ý nghĩa của việc bảo hiến