Viết bài giới thiệu ngắn về một nền văn minh cổ đại của khu vực Tây Nam Á | Kết nối tri thức

Giới thiệu ngắn về một nền văn minh cổ đại của khu vực Tây Nam Á mang đến câu trả lời hay, chính xác nhất. Qua đó giúp các bạn nhanh chóng trả lời câu hỏi trang 73 Địa lí 11 Bài 15 Kết nối tri thức.

Chủ đề:
Môn:

Địa Lí 11 343 tài liệu

Thông tin:
2 trang 10 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Viết bài giới thiệu ngắn về một nền văn minh cổ đại của khu vực Tây Nam Á | Kết nối tri thức

Giới thiệu ngắn về một nền văn minh cổ đại của khu vực Tây Nam Á mang đến câu trả lời hay, chính xác nhất. Qua đó giúp các bạn nhanh chóng trả lời câu hỏi trang 73 Địa lí 11 Bài 15 Kết nối tri thức.

83 42 lượt tải Tải xuống
Gii thiu ngn v mt nền văn minh cổ đại ca khu vc Tây Nam Á
ng mt trong nhng nền văn minh cổ đại sm nht, xut
hin tại vùng Trung Đông cách đây hàng nghìn năm. Đây mt trong
bn nền văn minh đng bng châu th ni tiếng trên thế gii (ba nền văn
minh còn lại văn minh sông Nile - Ai Cập, văn minh đồng bng sông
Hng - Ấn Độ và văn minh đồng bng sông Hoàng Hà - Trung Quc).
Theo bách khoa thư m (WP), Lưỡng (Mesopotamia) bt ngun t
tiếng Hy Lp cổ, nghĩa “vùng đất giữa các con sông”. Đây một nn
văn minh Tây Á thuc h thng sông Tigris Euphrates, ngày nay
tương ứng vi phn ln lãnh th Iraq, Kuwait, phía đông Syria, đông nam
Th Nhĩ Kỳ và các vùng dc biên gii Th Nhĩ Kỳ - Syria biên gii
Iran - Iraq.
V toán hc, t xưa, người Lưỡng đại biết cách làm 4 phép tính cng
tr nhân chia, biết phân s... H biết tính din tích nhiu hình biết c
quan h gia ba cạnh trong tam giác trước c khi Pitago (khoảng năm 500
TCN) chứng minh điều này. Bng chng bảng đất sét 3.700 của người
Babylon c đại ghi chép nhiều phương pháp tính toán. Người dân Lưỡng
s dng h thng s đếm 60. T đó, người Lưỡng phân chia 1 gi
thành 60 phút và 1 phút gm 60 giây. Cũng chính nh vào cơ số 60, vòng
tròn được chia thành 360 độ.
V thiên văn học, khoa hc nông nghiệp, dân ng da vào
mặt trăng làm lịch 12 tháng da trên chu k mặt trăng. Đây sở cho
loi lịch âm dương chúng ta s dng ngày nay nhng tm bản đồ
đầu tiên ca nhân loại (2.300 năm TCN). Bản đồ này được khắc trên đất
sét, mô t vùng đất Akkadian ng Hà. Bản đồ đưc s dụng như bản
đồ thành ph, dùng trong quân s hay trong thương mại. Người Lưỡng
còn những dân đầu tiên chế to một phương tiện di chuyn nh
vào sức kéo động vt.
Phát minh ni tiếng của người Lưỡng trong nông nghip là chiếc i
cày. Nó được làm bng g, hình dạng đơn giản (khoảng năm 6.000 TCN).
Phát minh này đóng góp nhiu cho trng trọt, đm bo cuc sng nông
nghiệp định thay hình thức du canh du cư. Ngoài ra người Lưỡng
còn tìm ra các loi ht giống đầu tiên như lúa mì, lúa mạch. H cũng
to ra những khu vườn trng nhiu loi cây khác nhau bao gồm đậu, dưa
chut, ti, rau diếp, nho, táo, sung... Mt trong những khu vườn ni tiếng
đưc công nhn k quan thế giới đó Vườn treo Babylon Iraq.
Người Lưỡng Hà biết vt sa cu, dê, bò để làm bơ, giết m chúng đ
ly tht.
Ngoài ra, Lưỡng còn khu vc nhng b lut sm nht ngay t
những năm 2.200 - 2.100 TCN. Tiêu biu có b lut Hammurabi thi vua
Hamura (1796 TCN - 1750 TCN), v vua th 6 của Babylon. Đây cũng
văn bản lut c nhất còn được bo tn tốt, niên đại khoảng năm 1760
TCN. B lut này hin ch còn li mt phần được khc trên một bia đá
cao khong 2,44m hiện được lưu giữ ti Bo tàng Louvre (Pháp).
| 1/2

Preview text:


Giới thiệu ngắn về một nền văn minh cổ đại của khu vực Tây Nam Á
Lưỡng Hà là một trong những nền văn minh cổ đại và sớm nhất, xuất
hiện tại vùng Trung Đông cách đây hàng nghìn năm. Đây là một trong
bốn nền văn minh đồng bằng châu thổ nổi tiếng trên thế giới (ba nền văn
minh còn lại là văn minh sông Nile - Ai Cập, văn minh đồng bằng sông
Hằng - Ấn Độ và văn minh đồng bằng sông Hoàng Hà - Trung Quốc).
Theo bách khoa thư mở (WP), Lưỡng Hà (Mesopotamia) bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp cổ, nghĩa là “vùng đất giữa các con sông”. Đây là một nền
văn minh ở Tây Á thuộc hệ thống sông Tigris và Euphrates, ngày nay
tương ứng với phần lớn lãnh thổ Iraq, Kuwait, phía đông Syria, đông nam
Thổ Nhĩ Kỳ và các vùng dọc biên giới Thổ Nhĩ Kỳ - Syria và biên giới Iran - Iraq.
Về toán học, từ xưa, người Lưỡng Hà đại biết cách làm 4 phép tính cộng
trừ nhân chia, biết phân số... Họ biết tính diện tích nhiều hình và biết cả
quan hệ giữa ba cạnh trong tam giác trước cả khi Pitago (khoảng năm 500
TCN) chứng minh điều này. Bằng chứng là bảng đất sét 3.700 của người
Babylon cổ đại ghi chép nhiều phương pháp tính toán. Người dân Lưỡng
Hà sử dụng hệ thống số đếm 60. Từ đó, người Lưỡng Hà phân chia 1 giờ
thành 60 phút và 1 phút gồm 60 giây. Cũng chính nhờ vào cơ số 60, vòng
tròn được chia thành 360 độ.
Về thiên văn học, khoa học và nông nghiệp, cư dân Lưỡng Hà dựa vào
mặt trăng làm lịch 12 tháng dựa trên chu kỳ mặt trăng. Đây là cơ sở cho
loại lịch âm dương mà chúng ta sử dụng ngày nay và những tấm bản đồ
đầu tiên của nhân loại (2.300 năm TCN). Bản đồ này được khắc trên đất
sét, mô tả vùng đất Akkadian ở Lưỡng Hà. Bản đồ được sử dụng như bản
đồ thành phố, dùng trong quân sự hay trong thương mại. Người Lưỡng
Hà còn là những cư dân đầu tiên chế tạo một phương tiện di chuyển nhờ
vào sức kéo động vật.
Phát minh nổi tiếng của người Lưỡng Hà trong nông nghiệp là chiếc lưỡi
cày. Nó được làm bằng gỗ, hình dạng đơn giản (khoảng năm 6.000 TCN).
Phát minh này đóng góp nhiều cho trồng trọt, đảm bảo cuộc sống nông
nghiệp định cư thay vì hình thức du canh du cư. Ngoài ra người Lưỡng
Hà còn tìm ra các loại hạt giống đầu tiên như lúa mì, lúa mạch. Họ cũng
tạo ra những khu vườn trồng nhiều loại cây khác nhau bao gồm đậu, dưa
chuột, tỏi, rau diếp, nho, táo, sung... Một trong những khu vườn nổi tiếng
được công nhận là kỳ quan thế giới đó là Vườn treo Babylon ở Iraq.
Người Lưỡng Hà biết vắt sữa cừu, dê, bò để làm bơ, và giết mổ chúng để lấy thịt.
Ngoài ra, Lưỡng Hà còn là khu vực có những bộ luật sớm nhất ngay từ
những năm 2.200 - 2.100 TCN. Tiêu biểu có bộ luật Hammurabi thời vua
Hamura (1796 TCN - 1750 TCN), vị vua thứ 6 của Babylon. Đây cũng là
văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, có niên đại khoảng năm 1760
TCN. Bộ luật này hiện chỉ còn lại một phần được khắc trên một bia đá
cao khoảng 2,44m hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Louvre (Pháp).