Viết bài văn phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học - Ngữ văn 10

Bài thơ tiêu biểu cho những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính. Cùng với các bài thơ khác, “Mưa xuân” đã thổi vào thơ mới cái “Hồn quê” thật ấn tượng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 10 162 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 10 1.2 K tài liệu

Thông tin:
23 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Viết bài văn phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học - Ngữ văn 10

Bài thơ tiêu biểu cho những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính. Cùng với các bài thơ khác, “Mưa xuân” đã thổi vào thơ mới cái “Hồn quê” thật ấn tượng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

183 92 lượt tải Tải xuống
Viết bài văn phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội
dung hoặc nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà
em đã học
Để viết bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học, ngoài các yêu cầu cơ
bản đã học, các em cần chú ý thêm một số điểm sau:
- Xác định đối tượng phân tích, đánh giá: toàn bộ tác phẩm hay một số yếu tố, thể loại
của tác phẩm, tác giả và bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời...
- Xem xét cách triển khai bài phân tích, đánh giá toàn bộ tác phẩm khác phân tích, đánh
giá một số yếu tố như thế nào.
1. Dàn ý phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc
hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học
2. Đánh giá nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật truyện
ngắn Người bạn cũ - Thạch Lam
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
- Tác giả:
- Tác phẩm:
- Vấn đề nghị luận: cuộc trò chuyện của nhân vật tôi và Lệ Minh=> tâm trạng nhân vật
tôi-> Tư tưởng sống, hoàn cảnh sống dễ khiến con người quên đi qúa khứ, trở nên hèn
nhát, nhu nhược và tàn nhẫn.
2. Thân bài:
A. Dẫn dắt (Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, tình huống truyện, tóm tắt, nhan đề) và dẫn vào
chủ đề truyện)
- Hoàn cảnh, xuất xứ: rút ra từ tập truyện ngắn “ Gió đầu mùa “ ( Nxb Đời nay, Hà Nội
1937)
- Tóm tắt chuyện: Trong đêm khuya, vợ chồng “ tôi” và Khanh đang bàn chuyện. Lúc ấy
có 1 người phụ nữ đến gõ cửa tìm gặp tôi. Tôi ngẩn người hóa ra người đó là Lệ Minh-
người đồng chí cũ của tôi. Nhìn dáng vẻ nghèo khó của cô bây giờ tôi không khỏi kinh
ngạc vì cô quá khác trước. Khi 2 người bắt đầu trò chuyện, Lệ Minh thuật lại quãng đời
qua của cô cho tôi và mong nhận được sự giúp đỡ từ tôi. Tôi không biết nên làm như
nào cũng chỉ đồng ý cho qua chuyện. Nói chuyện 1 hồi đến 12h Lệ Minh về. Tôi tiễn Lệ
Minh xong trở vào với vợ. Cuối cùng khi vợ con đã ngủ, trong màn đêm tịch mịch ấy tôi
lại suy nghĩ chuyện cũ, so sánh dáng vẻ lúc trước và bây giờ của Lệ Minh khiến tôi
không dám nghĩ thêm điều gì nữa.
- Nhan đề “ Người bạn cũ “: người bạn đồng chí nhiều năm xa cách
-Tình huống chuyện: cuộc gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật tôi và Lệ Minh sau nhiều
năm gặp lại.
B. Phân tích nhân vật chính (phụ) để thấy được chủ đề của truyện
*NHÂN VẬT TÔI
a. Khi mới gặp mặt người bạn: nhớ -> ngại ngùng -> tự ghen với người bạn.
*Ngại ngùng:
- Người bạn gái:
+ Quá khứ “Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày xưa, óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi
đâu cũng cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gương diễm lệ”
+ Hiện tại: “đôi mắt tinh nhanh buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ;
đôi gò má hây hây nay không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra
hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long
đong”
- Bản thân: Qúa khứ đầy nghĩa hiệp, hiện tại thì “Cái thân trưởng giả nửa mùa tôi nay
đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng có lo lắng cho vợ con đủ
ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã thuộc về thời quá khứ”
=> ngại ngùng vì sung sướng, no đủ hơn bạn cũ ?
* Tự ghen với nữ đồng chí
- So sánh hình ảnh người bạn gái trong qáu khứ và hiện tại: có thể tôi đã cho hiện tại
bây giờ là kết quả của một đời người con gái phong trần, mạnh mẽ và đầy lòng yêu
nước.
- Bản thân: hèn nhát, chỉ mong có được cuộc sống no đủ, giàu sang và bình yên
=> Đánh giá: tôi là con người nhạy cảm và hay suy nghĩ, tự vấn lương tâm.
b. khi nghe người bạn nhờ việc nhưng chưa rõ việc gì: chột dạ, gượng gạo đáp: “Tôi
hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày ra chuyện gì. Song cũng
gượng đáp:- Việc gì, cô cứ cho biết” ->Lo lắng sợ người bạn gái đến làm phiền cuộc
sống của mình, phá vỡ sự bình yên đang có. Rõ ràng, tôi là một người đã khác hẳn
xưa, không còn sự xông xáo, nhiệt huyết nữa.
c. Khi nghe bạn kể về cuộc đời và nhờ giúp tìm việc làm
- Khi nghe kể về cuộc đời: “ Anh em bây giờ mỗi người một nơi, người nào lo phận
người ấy. Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc gì,
rồi một buổi chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn....Gã lái buôn đã
dối cô: gã đã có vợ cả. Cả, lẽ ghen tuông, cô vốn người học thức, không chịu được
phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương tự lập”
-> Tôi thở phào, khi cô nói cô có chồng, như đỡ đi được gánh nặngtôi dằn lòng nghe
nốt câu chuyện.
Lý do: Người phụ nữ thường khi có chồng, sẽ hết đời bay nhảy, sống yên phận. Những
việc “nghĩa hiệp” từng làm trong quá khứ chắc sẽ không còn cơ hội để làm. Bản thân cô
có chồng rồi cũng bớt đi cho tôi sự ghen tuông ở người vợ trẻ khi thấy cô đến chơi
trong đêm như thế này.=> tôi rất thành thực trong việc chia sẻ cảm xúc, tâm trạng
- Khi được nhờ giúp tìm việc làm:
+ Khi thấy bạn bảo chỉ cần tìm được chỗ “yên thân”, tôi bất bình “ Yên thân! Bây giờ
chúng tôi chỉ cầu có thế thôi ư? Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong
căn phòng của tôi bày biện nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nẩy
vẻ thèm muốn trong con mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu
được cái mối thẹn thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc
nàng cũng đưa mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu”.
=> Tôi tự thấy xấu hổ, thẹn thùng. Sự giàu sang ấy xưa kia bản thân và Lệ Minh coi
thường thì giờ là niềm thèm muốn của cô. Vì tôi hiểu tôi đã phải phải đánh đổi thứ gì.
Muốn sống no đủ giàu sang tôi phải hèn nhát, cúi đầu, thu mình lại.
=> Tôi quay lại phía Lệ Minh, cả hai ngượng ngùng. Bởi cả hai đều biết cái giá của để
có cuộc sống hiện tại.
=> Cả 2 đều là những người hiểu biết, sâu sắc.
+ “ Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước cái hoạn nạn không
xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo. Không tìm được
phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn nhát. Nhưng biết làm
thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của Khanh mà sợ: nàng chẳng
sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?”
=> Có thể suy đoán rằng sự nhận lời này của “ tôi” là khi anh không biết nên giúp như
thế nào cho đúng trước cái hoạn nạn ấy, một lời hứa xoàng nhạt nhẽo chỉ để qua mắt
cô. Anh “không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn” “Không dám
mời bạn gái ở lại”.=> Vì việc giúp đỡ Lệ Minh là chuyện khó khăn đối với một người đã
có vợ con như anh. Anh “ không có đủ can đảm làm”. Anh tự thấy “bản thân hèn nhát”.
Anh hèn nhát thật.
=> Anh đánh giá rất cao người bạn gái >< bản thân tự thấy mình là kẻ hèn nhát chỉ vì
vợ nên không dám giúp đỡ, cũng chẳng cần suy nghĩ tìm cách giúp đỡ. Anh còn là
người vô tình, ích kỷ.
C. Đánh giá chung về nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, rút ra ý nghĩa đối với cuộc
sống. Đánh giá những thành công khi xây dựng nhân vật, khi dựng truyện, tình huống,
tạo giọng điệu.
* Nội dung:
- Nhân vật : Đại diện cho kiểu người trí thức thành công, có hiểu biết, có đời sống nội
tâm sâu sắc nhưng có lối sống hèn nhát, yếu đuối.
-Ý nghĩa tư tưởng chủ đề: Thông qua nhân vật tôi :
+ Đừng nên lãng quên cuộc sống trong quá khứ
+ Đừng quên đi bạn bè. Phải biết trân trọng, giúp đỡ hết lòng
* Những thành công về nghệ thuật
+ Nhân vật: được xây dựng bằng nhiều chi tiết miêu tả tâm trạng, đối thoại qua đó bộc
lộ rõ nét tính cách.
+ Ngôi kể: Ngôi thứ 1 giúp người đọc nắm bắt được tâm trạng nhân vật sâu sắc, sinh
động, chân thật và gần gũi.
+ Tình huống truyện: đêm khuya, gặp gỡ nói chuyện của hai người bạn cũ ( tôi và bạn
gái) .... cũng là tình huống khá đặt biệt để nhân vật để bộc lộ được tâm trạng, nhân
cách. Nhà văn bộc lộ chủ đề
+ Giọng điệu: giàu chất trữ tình, cảm xúc tự vấn của nhân vật chính.
3. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của vấn đề nghị luận
3. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là nhà văn "Suốt đời đi tìm cái đẹp". Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh
đã nhận định rằng: "Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông,
văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và
đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất,
không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên
ơng" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi
nghĩa và đồng tiền phàm tục". Trước cách mạng tháng Tám, những tác phẩm của ông
"thoát li khỏi hiện thực, tìm về một thời vang bóng" với những thú vui hết sức tao nhã:
thưởng trà, uống rượu,... một trong số đó là thú chơi chữ. Thú vui này được tái hiện
trong "Chữ người tử tù" in trong tập "Vang bóng một thời".
Tác phẩm ban đầu có tên là "Dòng chữ cuối cùng" và được in trên "tạp chí Tao Đàn",
khi xuất bản thành sách, Nguyễn Tuân mới đổi tên truyện ngắn thành "Chữ người tử
tù". Chủ đề tác phẩm được Nguyễn Tuân đề cập là "Cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu,
cái ác nhưng không thể sống chung với cái xấu, cái ác".
"Chữ người tử tù" kể về nhân vật Huấn Cao với những phẩm chất cao đẹp và tài năng
đặc biệt. Ông Huấn có tài viết chữ rất đẹp. Vì chống lại triều đình, Huấn Cao bị giam ở
nhà ngục tỉnh Sơn, tại đây, ông đã có cuộc gặp gỡ éo le với viên quản ngục. Khi viên
quản ngục biệt đãi với Huấn Cao, ông tỏ ra khinh thường. Nhưng sau khi thấy được
tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục, ông quyết định cho chữ. Vào buổi tối
trước khi Huấn Cao bị xử tử, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xuất hiện.
Người tử tù mang trên mình đầy xiềng xích đang viết ra những nét phóng khoáng trên
nền lụa trắng còn viên quản ngục lại khúm núm, run rẩy chờ đợi. Sau khi viết xong,
Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên tìm một nơi yên bình sống để giữ gìn tấm lòng
thanh cao, yêu cái đẹp. Cảm động trước lời nói của Huấn Cao, viên quản ngục đã cúi
đầu lạy tạ người tử tù với sự biết ơn, trân trọng.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Truyện
ngắn đã khắc họa nhân vật Huấn Cao nổi bật lên với ý chí anh hùng, bất khuất, tài hoa,
uyên bác, lương thiện. Ông cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản đối triều đình, khi bị bắt,
ông vẫn giữ tư thế hiên ngang. Trong phần trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ
lại đầu truyện, ta cũng có thể nhận thấy được tài năng của ông Huấn "Huấn Cao! Hay
là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp đó không?".
Tài năng của ông được nhiều người biết đến và ca tụng. Chữ của ông chỉ trao cho
những "tấm lòng trong thiên hạ", ông không vì quyền lực, vàng bạc mà ép mình viết
chữ "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ".
Không chỉ có tài năng, Huấn Cao còn mang trong mình tấm lòng lương thiện, sau khi
nhận thấy tấm lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ "Ta cảm tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có
những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ". Qua nhân vật Huấn Cao, ta có thể nhận thấy quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Tuân "cái đẹp đi liền với cái tâm".
Viên quản ngục cũng được khắc họa một cách ấn tượng trong tác phẩm. Ông là người
ngay thẳng, yêu cái đẹp nhưng phải sống ở nơi đầy gian dối, tàn nhẫn. Trong hoàn
cảnh đó, viên quản ngục vẫn cố giữ sự trong sạch cho tâm hồn, ông mong muốn có
được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Khi nghe lời khuyên của Huấn Cao, hành
động của viên quản ngục đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn ông "Ngục quan cảm động, vái
người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".".
Với tình huống truyện độc đáo, cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản
ngục đã để lại dấu ấn khó phai cho người đọc. Thủ pháp đối lập cũng là một điểm
nhấn. Ta có thể nhận thấy sự đối lập về địa vị xã hội và bản tính của hai nhân vật: một
người là tử tù với tài năng và khí phách hiên ngang, một người là viên quản ngục đại
diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Tác phẩm còn làm nổi bật sự đối lập giữa cái
đẹp với cái dơ bẩn, giữa ánh sáng và bóng tối trong cảnh cho chữ. Không gian cho chữ
là một phòng giam tối tăm, đối lập với "tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Sự đối
lập, đảo ngược vị thế của người tử tù và viên quản ngục: Người tù thì hiên ngang
phóng những nét bút thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người, còn viên quản
ngục lại khúm núm chờ đợi "Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô
nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ,
viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên
phiến lụa óng". Bằng ngôn ngữ tinh tế, nhịp điệu câu văn chậm, truyện ngắn gợi lên cho
người đọc không gian cổ xưa của một thời vang bóng. Ngôi kể thứ ba được sử dụng
giúp người đọc có hình dung khái quát về hoàn cảnh, tính cách mỗi nhân vật.
Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin về sự tỏa sáng của cái đẹp
ngay cả trong không gian tồn tại của cái xấu, cái ác. Qua "Chữ người tử tù", nhà văn
muốn khẳng định sự tồn tại của cái đẹp trong cuộc sống, nó có thể cứu rỗi linh hồn và
giúp người với người gần gũi, hiểu nhau hơn. Truyện ngắn đã đem lại cho chúng ta
những ấn tượng khó quên.
4. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Sang thu
Một mùa thu đầy lãng mạn và trữ tình đã trở thành đề tài quen thuộc trong những trang
thi ca. Hữu Thỉnh – một cây bút trưởng thành từ quân đội, với những lời thơ nhẹ nhàng,
sâu lắng đã mang đến cho độc giả bao cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất
trời. Bằng sự sáng tạo, tâm hồn nhạy cảm trước sự vật, sự tinh tế trong cách sử dụng
từ ngữ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh Sang thu thật quen thuộc và cũng thật mới lạ.
Sang thu với chủ đề về thiên nhiên mùa thu kết hợp cùng cảm hứng chủ đạo là những
cảm xúc, những rung động tâm hồn trước cảnh vật thiên nhiên trong những ngày hạ
mạt thô sơ giữa thời khói lửa. Bên cạnh đó, là những nét độc đáo trong nghệ thuật,
cách sử dụng từ ngữ sáng tạo, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật lên chủ thể trữ
tình được nói đến trong bài – mùa thu.
Nếu Xuân Diệu lấy sắc “mơ phai” của lá để báo hiệu thu tới thì Hữu Thỉnh cảm nhận
qua “hương ổi”, một mùi hương quen thuộc với miền quê Việt Nam: Bỗng nhận ra
hương ổi/ Phả vào trong gió se. Động từ mạnh “phả” mang nghĩa bốc mạnh, tỏa ra
thành luồng. Người nghệ sĩ ấy không tả mà chỉ gợi liên tưởng cho người đọc về màu
vàng ươm, hương thơm nồng nàn của “hương ổi” tỏa ra những cuối hạ, đầu thu đang
phả vào trong “gió se”.
Dấu hiệu tiếp theo là hình ảnh sương thu khi Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như
thu đã về. Sương thu đã được nhân hóa qua từ láy tượng hình “chùng chình” diễn tả
những bước đi rất thơ, rất chầm chậm để mang mùa thu đến với nước nhà. Chữ “se”
hiệp vần với “về” tạo nên những nhịp thơ nhẹ nhàng, thơ mộng, gợi cảm như cnh
cảm giác mà mùa thu mang đến vậy. Khổ thơ đầu được Hữu Thỉnh cảm nhận ở đa giác
quan, thể hiện một cách sáng tạo những đặc trưng, dấu hiệu thu đến nơi quê nhà thanh
bình.
Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu'" được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng
của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ
thơ thứ hai:
Sóng được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây màu hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nước sông màu thu trên miền đất Bắc trong xanh, êm đềm, tràn đầy nên mới “dềnh
dàng”, nhẹ trôi mãi như đang cố tình chảy chậm lại để được cảm nhận rõ nhất những
nét đẹp của thiên nhiên tiết trời khi vào thu. Đối lập với sự “dềnh dàng” ấy là sự “vội vã”
của những đàn chim đang bay về phương Nam tránh rét. Những đàn chim ấy khiến ta
liên tưởng đến đàn ngỗng trời mà thi sĩ Nguyễn Khuyến đã nhắc đến trong Thu vịnh:
Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều
được nhân hóa. Tác giả sử dụng động từ “vắt” để miêu tả cho mây. Đám mây như
được đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống, gợi sự tinh nghịch, dí dỏm, chủ
động. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè
sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức
tranh mùa thu thêm thi vị hơn.
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm
giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và
gắt gỏng nữa. Đồng thời, những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời cũng được gửi gắm
qua những câu từ nhẹ nhàng ấy.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ
- mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ “vn còn, đã vơi
dần, bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên
như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa,
sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao
mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm" và “hàng cây đứng
tuổi" là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài " Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là
những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi,
biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh ‘‘hàng cây đứng tuổi'' là
một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn.
Sang thu Là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần
thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu vẽ nên những cảnh thu,
sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm
hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang... đầy thi vị.
5. Đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình thức nghệ
thuật của tác phẩm Đi san mặt đất
Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ.
Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của
bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất.
Đọc "Prô--tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và
loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải
đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà
không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong
chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của
người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ.
Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ,
đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất
vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên.
Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:
"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"
Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm
nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì
lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi
san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô
xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá"
"Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian
hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con
người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức
mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:
"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu
tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng
thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế
nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn
loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa,
các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con
người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/
Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần
là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của
người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt
đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con
người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc.
Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo
thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh
nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với
giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu
hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho
chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị
giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.
"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện
đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ
năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn
tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân
gian.
6. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Con cáo và chùm nho
Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con
cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop. Đây được xem là một trong
những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những
hình thức nghệ thuật xuất sắc.
Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho
căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế,
cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật
không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho.
Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó
cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ
xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn
giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc
và thấm thía.
Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng
giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm.
Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ
và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản
thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm
hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi
cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu
chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính
chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp nơi nó được
sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng
như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và
khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn
đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới
thành công.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu
sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức
nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài
học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường,
khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt
nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không
ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm
nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê.
Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con
cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng
được làm sáng rõ.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng
trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là
nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động,
không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho
những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ
nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là
do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.
Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân
vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc
thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy
những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng
kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao
mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa
chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy
được Cáo là một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời
độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu
biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh
tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ
thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để
nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.
Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo
kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.
7. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài thơ Hương thầm
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắt vào tác gải Phan Thị Thanh Nhàn và tác phẩm Hương Thầm.
- Giới thiệu nội dung cần cảm nhận: Thông qua hệ thống ngôn ngữ, hệ thống hình ảnh
già sức gợi bài thơ đã miêu tả và tái hiện thành công tâm trạng ngại ngùng, bối rối, thẹn
thùng của đôi trai gái khi tràng trai sắp phải lên đường ra trận.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Chủ đề của bài thơ: thông qua hình ảnh của loài hoa giản dị, trắng trong tinh khiết,
mang trong mình mùi thơm nhẹ nhàng thanh quý mà say đắm long người. Tác giả
PTTN đã ngợi ca vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa, đây là thứ tình cảm mới chớm nở, còn sự
ngại ngùng bẽn lẽn nhưng đọng lại trong long người đọc là sự trắng trong, thánh thiện
đáng ngưỡng mộ của vể vẻ đẹp của những chàng trai, cô gái thời bấy giờ.
- Mạch cảm xúc của bài thơ chậm dãi, thự nhiên, nhẹ nhàng tựa như vẻ đẹp trắng trong
và hương thơm dịu nhẹ của loài hoa bưởi. Bài thơ mở ra là hình ảnh khung cửa sổ hai
nhà cuối phố, không hiểu vì sao không khép bao giờ. Hình ảnh thơ hé mở những liên
tưởng thú vị về mối quan hệ đặc biệt của một đôi bạn học cùng lớp. Mạch cảm xúc tiếp
tục được gợi mở thông qua một tình huống đặc biệt: Chàng trai phải ra trận, người con
gái không dám bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình đành phải nhờ hương thơm của hoa
bưởi để nói hộ tình yêu. Giây phút cuối cùng họ vẫn chọn cách lặng im … theo bước
chân của chàng trai luôn là tình cảm, sự dõi theo của người ở lại, là mùi hương bưởi
đắm say không thể nào quên.
- Chính sự ngập ngừng bối rối của anh và em đã làm nên thành công của bài thơ, bởi
diễn biến tâm trạng này là chuỗi diễn biến tâm lý vô cùng hợp lý: nó vừa diễn tả vẻ đẹp
thuần khiết của tình yêu, vừa diễn tả được vẻ đẹp tâm hồn của Anh và em của thế hệ
trẻ VN thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Có thể khẳng định khong có những tình
cảm trong sáng, thuần khiết đó, không có những con người mang tâm hồn đẹp như
Anh và Em chúng ta sẽ không bao giờ có được cuộc sống yên bình như ngày hôm nay.
- Hình ảnh nổi bật trong bài thơ là hình ảnh chum hoa bưởi, được cô gái giấu trong
chiếc khăn tay để mang sang nhà hang xóm. Hình ảnh hoa bưởi là hình ảnh ẩn dụ cho
vẻ đẹp và tình yêu của cô gái dành cho chàng trai..
- Hình ảnh: mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi: dình ảnh chân thực, độc đáo diễn tả
chính xác tâm trạng yêu đương buổi đàu của bao cặp tình nhân, Ánh mắt đó thể hiện
sự bẽn lẽn, ngượng ngùng của buổi đầu rung động. Dù quay đi nhưng chắc chắn trong
long họ đang rung lên những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ..
- Hình ảnh hương thầm thơm mãi bước người đi.. thể hiện tình cảm thuỷ chung và sự
dõi theo của Em dành cho Anh, đây chính là nguồn động lực giúp cho nhận vật Anh có
thể vững bước lên đường, cầm chắc tay súng bảo vệ đất nước, bảo về những người
thân yêu nơi quê nhà.
- Điểm độc đáo của bài thơ chính là điểm nhìn của nhân vật trữ tình Tac giả , chính
nhà thơ là người đã thấu hiểu và miêu tả lại những cung bậc cảm xúc trong tình cảm
của đôi trẻ. Câu chuyên tình yêu trong sáng cứ thế được kể lại một cách nhẹ nhàng,
dung dị. Vấn vương trong long người đọc không chỉ là mùi hương hoa bưởi thoang
thoảng đâu đây mà còn là sự lặng im không nói những điều đang giấu kín trong lòng ..
một giấc mơ về một ngày mai với khung cửa sổ vẫn luôn mở …
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các
phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính :
+ Hình tượng xuyên suốt bài thơ chính là hương bưởi, trong cảm nhận của nhân vật trữ
tình, cảm nhận của Em, Anh hương bưởi lúc thì ngan ngát hương đưa, hoa bưởi thơm
cho long bối rối, mùi hương đầm ấm thạnh tao, bay dịu nhẹ, thấm sâu vào lồng ngực,
thơm mãi bước người đi. Mùi hương bưởi giống như sợi dây cảm xúc, giống như
mối của tự nhiên gắn kết tình yêu cho đôi bạn trẻ. Chính vì vậy dù ngồi cạnh nhau, dù
ánh mắt chợt nhàn nhau rồi lại quay đi, dù lăng im không nói điều gì .. thì Hương thầm
vẫn theo mãi bước người đi mãi mãi không xa rời.
+ Nếu mùi hương hoa bưởi đã nói hộ tấm lòng người thiếu nữ, thì Hương thầm có thể
coi là thay lời muốn nói của cả một thế hệ đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp nhất của
mình nơi chiến trường. Không một lời yêu nào được ngỏ, không một lời hứa hẹn nào
được trao. Chỉ có những câu hỏi không lời đáp để lại bao xao xuyến trong lòng người
nghe.
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
+ Bài thơ trữ tình có kết cấu giống như một câu truyện, với kết cấu mở bài thơ cứ làm
vấn vương, lưu luyến mãi trong lòng người đọc
+ Nghệ thuật Ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ.. được sử dụng linh hoạt trong bài thơ không chỉ
àm tăng sức gợi hình gợi cảm mà trên hết còn làm cho hình tượng thơ trở nên cụ thể
và chân thực hơn trong cảm nhận của người đọc..
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
- Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh , nhưng đơn thuần chỉ là bài thơ viết về
tình yêu đầu đời vô cùng thánh thiện và vô cùng trong sáng Viết về điều này nhà Thế
Lữ từng khẳng định: Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy. Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên.
- Bài thơ với kết thúc mở, để lại bao vân vương trong lòng người ra đi và người ở lại
…một hi vọng tốt đẹp được nhen lên trong mỗi bước người đi vì trong mỗi bước hành
quân của anh luôn có tình em theo cùng.
- Trước Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi đã xuất hiện trong ca dao và nhiều nhất là
trong thơ Nguyễn Bính. Nhiều người vẫn thuộc câu ca “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay
những dòng tươi thắm tả cảnh mùa xuân “Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng Ngào
ngạt hương bay, bướm vẽ vòng” (Nguyễn Bính). Nhưng phải đến Phan Thị Thanh
Nhàn, hoa bưởi mới trở thành nhân vật chính trong một bài thơ.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
8. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài thơ Cuối thu - Hàn Mặc tử
Cuối thu
Lụa trời ai dệt với ai căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Sao không tô điểm nên sương khói,
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,
Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ.
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
Điềm báo thu vàng gầy xác xơ.
Thu héo nấc thành những tiếng khô.
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?
( Hàn Mặc Tử - Trích trong Mật đắng)
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
+ HMT là gương mặt xuất sắc/tiêu biểu của phong trào thơ mới và văn học VN hiện đại
+ Thơ của thi sĩ giàu hình ảnh, cảm xúc; từ ngữ giản dị nhưng mang tính biểu cảm cao
+ Tác phẩm Cuối thu được in trong tập Mật đắng.
+ Đây Là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách thơ của thi sĩ HMT.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
2.1. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Mạch cảm xúc bài thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh. Có thể thấy, nhân
vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của
cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng
điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ
tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.
- Cảm xúc về thiên nhiên và con người những ngày cuối thu từ những thứ trong sáng
thuần khiết nhất đến những gì quái dị , u ám và buồn nhất
- Vói lời thơ nhẹ nhàng, tình tứ nhưng cũng đầy bí ẩn, thêm chút kinh dị, bài thơ đã
mang lại cho người đọc sự tò mò và những cảm xúc khác nhau khi đọc bài thơ.
- Khung cảnh mùa thu được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình
tượng bầu trời và thiên nhiên.
2.2. Phân tích đánh giá những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm và tác
dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác
phẩm
a. Khổ 1: Khổ thơ thứ 1 Câu thơ mở đầu bài thơ là câu thơ rất thú vị với câu hỏi tu từ
đầy tính nghệ thuật. Bầu trời cuối thu trong xanh và cao rộng, trời mịn không một gợn
mây được tác giả ví như tấm lụa được ai dệt và kéo căng. Liên tiếp ba câu thơ đầu sử
dụng câu hỏi tu từ đã cho thấy sự tò mò của tác giả với thiên nhiên cuối thu. Quảng
Hàn tượng trưng cho cung trăng. Nếu cuối thu, đàn chim sẽ phải bay về phương Nam
tránh rét nhưng đây nó lại bay về Quảng Hàn lạnh lẽo như chính cài tên của nó. Điều
đó không phải ngẫu nhiên mà nó chính là dụng ý của tác giả về việc phá vỡ mọi rào
cản, trái với quy luật của tự nhiên. Hình ảnh quỷ dị, ma quái đã gắn liền với nhiều câu
thơ trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ “Và ai gánh máu đi trên tuyết” đã cho thấy sự kinh
dị đó với hai hình ảnh đối lập tuyết vào máu. Thường khi nhắc đến tuyết, người ta sẽ
nghĩ đến ngay sự trong trắng tinh khiết và máu thì ngược lại. Hình ảnh “ai” gánh máu đi
trên tuyết đã cho thấy sự đau khổ cả trong tinh thần và thể xác của người đó.
b. Khổ 2: Khổ thơ thứ 2 bằng cách diễn tả mây vẽ hằng hà, Hàn Mặc Tử đưa ra một
hình ảnh mơ hồ, tượng trưng cho những dấu vết của thời gian và sự xa cách. Những
vệt sa số lệ của mây biểu hiện sự chia ly và cô đơn tạo nên một cảm giác tương phản
và đau đớn. Tác giả đặt câu hỏi : “Sao không tô điểm nên sương khói” để tạo ra một sự
trầm tư và thất vọng. Sương khói được coi là biểu tượng của sự mờ mịt, không rõ rang
và thất thường. Ông cho rằng tại sao không có những điểm nhấn, những điều đẹp đẽ
để phần nào xoa dịu nỗi buồn và sự chập chờn trong tâm hồn mình. Với những từ ngữ
đơn giản và tinh tế Hàn Mặc Tử tạo ra một khung cảnh tâm trạng và cảm xúc sâu sắc.
Khổ thơ này thể hiện sự đau đớn và nỗi lưu luyeenscungx như những khát khao tìm
kiếm ý nghĩa và sự bình yên trong cuộc sống.
c. Khổ 3 Cảm giác cô đơn lạnh lẽo từ khổ thơ hai lan tỏa và bao trùm sang toàn bộ khổ
thơ thứ ba. Hàng loạt các từ ngữ lạnh, hững hờ, buồn, trơ vơ, mảnh khảnh, run cầm
cập, gầy, xác xơ, héo, nấc, khô… xuất hiện đã làm nổi bật lên nỗi buồn cô đơn đó. Sự
lạnh lùng, hững hờ, xơ xác của thiên nhiên đã bao trùm lên tâm trạng và cảm xúc của
tác giả. Điềm báo về những cành cây mảnh khảnh, run cầm cập hay xơ xác của thiên
nhiên cây cối cũng như điềm báo về chính con người về cái chết cận kề.
d. Khổ 4: Thu héo được tác giả dùng để miêu tả những hình ảnh thu cuối với những
tiếng khô, không chỉ là của lá mà còn là trong lòng tác giả đã khô héo. Giữa những nỗi
đau ấy, tư mọc xuất hiện như một điểm sáng. Một vì sao mọc trên trời là dấu hiệu của
một người vừa qua đời cũng có thể là một vị thần giáng thế theo quan niệm của Hy
Lạp. Khổ thơ trước nói về cái chết, khổ thơ này cũng vậy. Cái chết có thể là sự kết thúc
cho cuộc đời cũng có thể là sự mở đầu cho cuộc đời mới. Vì sao mọc có thể là sự tái
sinh cho người thơ. Tuy nhiên người đó chưa thấy xuất hiện và sự trinh bạch vẫn bị
giam giữ dưới đáy mồ sâu trong lòng đất.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
Đề tài mùa thu là đề tài quen thuộc của thi nhân nhưng nếu mùa thu trong thơ lưu
Trọng Lư là hình ảnh “con nai vàng ; lá vàng” thơ ngây, man mác buồn thì" Cuối thu"
của Hàn Mặc Tử lại là những ngày cuối thu từ những thứ trong sáng, thuần khiết nhất
đến những gì quái dị, u ám và buồn nhất. Cả Lưu Trọng Lư và Hàn Mặc Tử đều sử
dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê mùa thu. Nhưng điều làm nên
dấu ấn của "Cuối thu" chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa
thu ở trạng thái mùa thu tàn tạ, héo hon trong tâm hồn thi sĩ.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng "Thơ khởi phát từ trong lòng người
ta". Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa
trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua bài thơ “Cuối" ta không chỉ ngưỡng mộ tài
năng của nhà thơ HMT mà còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu
quê hương, dân tộc của thi nhân. HMT xứng đáng là cây bút tài hoa, tiêu biểu của nền
văn học VN hiện đại.
9. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài Thơ viết ở biển
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Tác giả Hữu Thỉnh:
+ Sinh năm 1942, tại Tam Dương, Vĩnh Phúc trong một gia đình nhà nho nghèo
+ Thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
+ Thơ Hữu Thỉnh tinh tế, giàu suy tư trải nghiệm, với một giọng điệu riêng đa sắc thái
và năng lực sử dụng ngôn từ độc đáo
- Bài thơ "Thơ viết ở biển" in trong tập "Thư mùa đông" của Hữu Thỉnh, xuất bản năm
1994
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Chủ đề: Bài thơ trên viết về tình yêu đôi lứa ngọt ngào da diết. Đây là một chủ đề
quen thuộc đối với thể loại thơ trữ tình. Và việc khai thác chủ đề này theo một cách mới
lạ đã làm nổi bật tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Hữu Thỉnh
- Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của bài thơ tập trung miêu tả từng diễn biến tâm trạng
tinh vi của nhân vật trữ tình: nhớ thương khôn nguôi đối với người mình yêu.
- Hình ảnh: Nhà thơ Hữu Thỉnh đã lựa chọn những hình ảnh của tự nhiên, những thứ
xa tầm đối với con người để diễn tả một chuyện tình không thể đến được với nhau
chỉ có thể gửi gấm nỗi niềm của mình qua những hình ảnh đó.
- Điểm nhìn: Ở đây, ta nhìn thấy rõ nhất chính là điểm nhìn bên trong.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các
phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta mơ
hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền
với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai
cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những
khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của
những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
"Biển" và "Cánh buồm" là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho "Anh" và "Em".
"Cánh buồm" giờ đây đã hóa thành linh hồn của "Biển", "Biển" tuy dài rộng, mênh mông
vô cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có "Cánh buồm" ra khơi cũng như "Anh" sẽ chẳng
là gì cả nếu thiếu đi "Em". Thông qua hình ảnh "Biển" và "Cánh buồm" vừa đối lập lại
vừa sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn
bó trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô
đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân
quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu
như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù
có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở."
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong
tình yêu:
"Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em.."
"Sóng" giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng
lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con
sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn
như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt
trong tương quan tình yêu cũng vậy, "Anh" sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có "em".
Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong
lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao
đảo cả tâm trí.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Bài viết tham khảo
Xưa nay có muôn vàn bài thơ viết về tình yêu và nỗi nhớ. Có biết bao cái tên nổi trội
giữa thi đàn cùng với những tuyệt tác viết về tình yêu: Nhà thơ chân quê Nguyễn Bính
với "Tương tư", "Người hàng xóm"; nữ sĩ Xuân Quỳnh với "Sóng", "Thuyền và biển";
"Ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu cùng "Tương tư chiều", "Yêu" hay ta bắt gặp Lưu
Quang Vũ có những bài thơ như "Và anh tồn tại", "Em - tình yêu những năm đau xót và
hy vọng". Ở giữa giàn đồng ca thơ tình muôn điệu ấy ta nhận ra một Hữu Thỉnh nồng
nàn, đôn hậu qua bài "Thơ viết ở biển". "Thơ viết ở biển" là một trong những bài thơ
hay, đặc sắc nhất, tiêu biểu cho tập thơ "Thư mùa đông" (Giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam năm 1995). Có rất nhiều hướng để tiếp cận một văn bản văn học mà ta có thể kể
đến như tiếp nhận văn học từ góc độ tác giả, tiếp nhận văn học dưới góc độ đặc trưng
văn học hoặc góc độ văn hóa, phân tích tác phẩm văn học theo phương pháp cấu trúc..
song, ở mỗi hướng tiếp cận và nghiên cứu, phân tích ta đều thấy có cái hay riêng của
nó. Tiếp nhận tác phẩm "Thơ viết ở biển" dưới góc độ đặc trưng văn học, chúng ta có
được cho mình cách lý giải hay, sáng tạo và lý thú về ý tứ bài thơ. Từ đó góp phần kiến
tạo nên tác phẩm, khiến cho nó trở nên gần gũi hơn với hiện thực đời sống.
"Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em.."
(Thư mùa đông, 1994)
Bao trùm toàn bộ bài thơ là cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mỏi mòn và niềm khát khao cháy
bỏng hạnh phúc đến trong tình yêu đôi lứa với chủ thể trữ tình ở đây là nhân vật "Anh"
và "Em", Hữu Thỉnh đã bắt đầu dòng cảm xúc bằng mệnh đề "Anh xa em" :
"Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn."
Biểu tượng mặt trời và mặt trăng mang rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó biểu đạt cho sự
cân bằng âm dương, mặt trời thuộc dương và mặt trăng thuộc âm. Biểu tượng này còn
có ý nghĩa là ngày và đêm khi ánh trăng và mặt trời chiếu xuống trái đất. Hình ảnh
mang ý nghĩa biểu tượng "Mặt trăng" và "Mặt trời" trong bài thơ này cũng có ý biểu thị ý
niệm về thời gian ngày và đêm, đồng thời hai thực thể ấy cũng tượng trưng cho nhân
vật "Anh" và "Em". Nếu như mặt trời là anh thì trăng sẽ là em. Mặt trời và trăng vốn tạo
hóa sinh ra đã lẻ, mặt trời lặn thì trăng mới ló lên, đó là hiện tượng tự nhiên vô cùng
bình thường nhưng khi đi vào thơ Hữu Thỉnh, nó lại trở nên bất thường vô cùng. "Đừng
ví nhau là mặt trăng với mặt trời/Anh và em mãi cứ là hai nửa" (Không là mặt trăng, mặt
trời) Thế nhưng, cho dù ở giữa là một khoảng cách rất lớn, thì ánh sáng của mặt trăng
và mặt trời vẫn phản chiếu lên nhau. Đó không chỉ là mối tương quan giữa hai thực thể
mặt trời và trăng trong vũ trụ tự nhiên mà còn khiến ta liên tưởng đến bản chất của tình
yêu: Anh và em xa cách nhau thì cũng lẻ loi như mặt trời và mặt trăng nhưng chính nỗi
cô đơn đó càng làm trọn vẹn, thắm thiết hơn tình yêu. Hữu Thỉnh đã diễn tả sâu sắc nỗi
cô đơn, lẻ loi nếu thiếu vắng đi nửa kia của đời mình.
Hai câu thơ tiếp theo bỗng chuyển mạch cảm xúc với cách ngắt nhịp 3/4, 3/5, con chữ
bắt đầu dàn trải ra với giọng điệu vô cùng khắc khoải, nghẹn ngào như một lời tự bạch,
lời giãi bày:
"Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn."
Biển và cánh buồm là thi liệu khá quen thuộc trong thơ ca truyền thống: "Cánh buồm
bao quản gió xiêu/Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau" (Ca dao) hay "Buồn trông
cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa" (Truyện Kiều) "Biển" và
"Cánh buồm" ở hai câu thơ đã tạo thành không gian mênh mang của biển cả. Biển là
mẹ thiên nhiên vĩnh hằng, kì vĩ; cánh buồm giữa biển thì lại nhỏ bé đơn độc, nó cũng
biểu trưng cho sự mong manh của kiếp người. Tách riêng hai câu thơ ấy ra thì ta chỉ
thấy đơn thuần miêu tả sự cô đơn của biển cả khi vắng đi cánh buồm, còn khi hợp nhất
lại thành một chỉnh thể thì ta lại liên tưởng đến nhân vật trữ tình "Anh" và "Em". "Biển"
và "Cánh buồm" là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho "Anh" và "Em". "Cánh
buồm" giờ đây đã hóa thành linh hồn của "Biển", "Biển" tuy dài rộng, mênh mông vô
cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có "Cánh buồm" ra khơi cũng như "Anh" sẽ chẳng là
gì cả nếu thiếu đi "Em". Thông qua hình ảnh "Biển" và "Cánh buồm" vừa đối lập lại vừa
sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn bó
trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
Đọc "Thơ viết ở biển", ta cứ tưởng như đang nghe một bản nhạc du dương, từ tốn mà
da diết. Giọng điệu thơ cũng day dứt, man mác nỗi buồn, nỗi nhớ sâu thẳm:
"Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím"
Hai câu thơ trên song song tương đồng với nhau cả về ngữ âm và nghĩa. Gérard
Manley Hopkins khi còn là sinh viên cũng đã khám phá ra nguyên lý: "Tất cả thủ pháp
của thi ca dựa trên nguyên tắc song song" (Toute forme d'artifice se réduit au principe
du parallélisme) Nhà thơ đã xây dựng nên cặp hình ảnh tương đồng giữa "Gió" và
"anh", giữa "đá núi" và "Em" cùng với tổ hợp từ rất lạ tạo nên những vần thơ bất hủ
"Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím". Chúng ta dừng lại để suy tư, chiêm
nghiệm về câu thơ ấy, để có thể cắt nghĩa cảm xúc của chủ thể trữ tình. Màu sắc là một
phương diện của cái nhìn nghệ thuật trong văn chương, làm nên thế giới nghệ thuật
của một nghệ sĩ. Những nghệ sĩ có phong cách thường có kiểu sử dụng màu sắc theo
một cách riêng, làm nên nét dộc đáo của tác phẩm, của tác giả. Chữ "Tím" ở đây đã
khiến cho câu thơ vừa mơ hồ, vừa đa nghĩa. Có lẽ "Nhuộm anh đến tím" ở đây là tím
lòng, tím cả tâm hồn. Về phương diện hội họa, màu tím là sự pha trộn và hợp thành
của màu xanh và màu đỏ. Tím là màu sắc thiên về các khía cạnh của nội tâm, tìm đến
những ngõ ngách riêng tư của con người, diễn đạt những khung trời nhớ nhung, xa
vắng, lẫn khuất đâu đó là những hoài niệm, hoài cảm về thời gian. Màu đã xuất hiện
nơi nhiều bài thơ. Đoàn Phú Tứ có câu: "Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím
ngát" (Màu thời gian) ; còn Anh Thơ, trong Chiều xuân thì viết "Quán tranh đứng im lìm
trong vắng lặng/ Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời." Nhà thơ Tố Hữu, với bài thơ
Hoa tím viết tặng Nguyễn Tuân lại có câu: "Thủy chung tình bạn chùm hoa tím." Đối
chiếu tương quan giữa các bài thơ ấy, ta thấy được "Tím" ở đây đã không còn đơn
thuần là một màu sắc mà nó còn mang ý niệm ẩn dụ cho cảm xúc, cho tâm tư tình cảm
của chủ thể trữ tình. "Em đâu phải là chiều mà nhuộm anh đến tím", câu thơ ấy khắc
khoải bật lên nỗi nhớ nhung, nỗi buồn man mác đang thường trực trong tâm trí nhân
vật "Anh".
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô
đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân
quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu
như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù
có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở."
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong
tình yêu:
"Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em.."
"Sóng" giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng
lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con
sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn
như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt
trong tương quan tình yêu cũng vậy, "Anh" sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có "em".
Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong
lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao
đảo cả tâm trí.
Nhìn vào tổng thể toàn bài thơ, ta có thể thấy được "Thơ viết ở biển" là một chỉnh thể
gần như hoàn hảo. Cấu trúc toàn bài thơ như hình thù một con sóng với ba thơ mở đầu
chỉ vỏn vẹn ba chữ, cảm xúc như được nén lại; chuyển sang năm câu thơ ở giữa thì
dung lượng chữ tăng lên, tiết tấu trầm và chậm lại để phù hợp với lời tự bạch của chủ
thể trữ tình;ở ba dòng thơ cuối dung lượng lại thu hẹp dần, giọng thơ lại ngắt quãng,
ngắt nhịp "Vì sóng đã làm anh/Nghiên ngả/Vì em.."
Về hình ảnh thơ, các hình ảnh cũng có mối liên hệ lẫn nhau: Mặt trời, trăng, biển, cánh
buồm, sóng, gió, núi đá. Mặt trời và trăng; biển và cánh buồm;núi đá và gió đều là
những thực thể sóng đôi với nhau ngoài tự nhiên, tượng trưng cho "Anh" và "Em" vậy.
Tất cả đều trở nên đơn độc, lẻ loi, mất đi ý nghĩa khi anh xa em. Cả bài thơ là một
không gian rộng rãi nhưng bao trùm bởi màu sắc trầm buồn, một sự cô đơn, trống vắng
đến mênh mang.
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta
hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền
với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai
cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những
khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của
những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
Hegel từng quan niệm về thơ như sau: "Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã
trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay
vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư
tưởng và cảm xúc." Đọc "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh để tâm hồn mình có những
giây phút lắng đọng, để chiêm nghiệm về triết lý tình yêu. Đó là một bài thơ hay, tinh tế
nhưng cũng không kém phần chân thành, da diết đến từ hồn thơ vô cùng đôn hậu,
nồng nàn tha thiết: Hữu Thỉnh.
10. Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài
Mưa xuân
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu chung về bài thơ
- Xác định vấn đề sẽ được tập trung bàn luận trong bài viết: nội dung và hình ảnh trong
bài thơ.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
- Nhan đề: Nhan đề bài thơ thể hiện sự rung cảm trọn vẹn trước làn mưa mơ hồ, huyền
hoặc của mùa xuân cũng như đánh dấu một kỉ niệm khó phai. Kỉ niệm về những hạt
mưa đầu xuân, về những cảm xúc luyến ái đầu đời, những mơ mộng chớm hé về cuộc
hẹn đầu tiên.
- Nhân vật trữ tình: Nguyễn Binh đã nhập vai một cô gái thôn quê để kể về lần lỗi hẹn
đầu tiên với một chàng trai trong hội chèo làng Đặng.
- Cảm xúc chủ đạo: Bài thơ là nỗi tủi phận, tủi duyên, là nỗi lỡ làng của cô gái dưới đêm
mưa.
| 1/23

Preview text:

Viết bài văn phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội
dung hoặc nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học

Để viết bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học, ngoài các yêu cầu cơ
bản đã học, các em cần chú ý thêm một số điểm sau:
- Xác định đối tượng phân tích, đánh giá: toàn bộ tác phẩm hay một số yếu tố, thể loại
của tác phẩm, tác giả và bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời...
- Xem xét cách triển khai bài phân tích, đánh giá toàn bộ tác phẩm khác phân tích, đánh
giá một số yếu tố như thế nào.
1. Dàn ý phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc
hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học
     
2. Đánh giá nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật truyện
ngắn Người bạn cũ - Thạch Lam
1. Mở bài
: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận - Tác giả: - Tác phẩm:
- Vấn đề nghị luận: cuộc trò chuyện của nhân vật tôi và Lệ Minh=> tâm trạng nhân vật
tôi-> Tư tưởng sống, hoàn cảnh sống dễ khiến con người quên đi qúa khứ, trở nên hèn
nhát, nhu nhược và tàn nhẫn. 2. Thân bài:
A. Dẫn dắt (Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, tình huống truyện, tóm tắt, nhan đề) và dẫn vào chủ đề truyện)
- Hoàn cảnh, xuất xứ: rút ra từ tập truyện ngắn “ Gió đầu mùa “ ( Nxb Đời nay, Hà Nội 1937)
- Tóm tắt chuyện: Trong đêm khuya, vợ chồng “ tôi” và Khanh đang bàn chuyện. Lúc ấy
có 1 người phụ nữ đến gõ cửa tìm gặp tôi. Tôi ngẩn người hóa ra người đó là Lệ Minh-
người đồng chí cũ của tôi. Nhìn dáng vẻ nghèo khó của cô bây giờ tôi không khỏi kinh
ngạc vì cô quá khác trước. Khi 2 người bắt đầu trò chuyện, Lệ Minh thuật lại quãng đời
qua của cô cho tôi và mong nhận được sự giúp đỡ từ tôi. Tôi không biết nên làm như
nào cũng chỉ đồng ý cho qua chuyện. Nói chuyện 1 hồi đến 12h Lệ Minh về. Tôi tiễn Lệ
Minh xong trở vào với vợ. Cuối cùng khi vợ con đã ngủ, trong màn đêm tịch mịch ấy tôi
lại suy nghĩ chuyện cũ, so sánh dáng vẻ lúc trước và bây giờ của Lệ Minh khiến tôi
không dám nghĩ thêm điều gì nữa.
- Nhan đề “ Người bạn cũ “: người bạn đồng chí nhiều năm xa cách
-Tình huống chuyện: cuộc gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật tôi và Lệ Minh sau nhiều năm gặp lại.
B. Phân tích nhân vật chính (phụ) để thấy được chủ đề của truyện *NHÂN VẬT TÔI
a. Khi mới gặp mặt người bạn: nhớ -> ngại ngùng -> tự ghen với người bạn. *Ngại ngùng: - Người bạn gái:
+ Quá khứ “Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày xưa, óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi
đâu cũng cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gương diễm lệ”
+ Hiện tại: “đôi mắt tinh nhanh buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ;
đôi gò má hây hây nay không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra
hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong”
- Bản thân: Qúa khứ đầy nghĩa hiệp, hiện tại thì “Cái thân trưởng giả nửa mùa tôi nay
đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng có lo lắng cho vợ con đủ
ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã thuộc về thời quá khứ”
=> ngại ngùng vì sung sướng, no đủ hơn bạn cũ ?
* Tự ghen với nữ đồng chí
- So sánh hình ảnh người bạn gái trong qáu khứ và hiện tại: có thể tôi đã cho hiện tại
bây giờ là kết quả của một đời người con gái phong trần, mạnh mẽ và đầy lòng yêu nước.
- Bản thân: hèn nhát, chỉ mong có được cuộc sống no đủ, giàu sang và bình yên
=> Đánh giá: tôi là con người nhạy cảm và hay suy nghĩ, tự vấn lương tâm.
b. khi nghe người bạn nhờ việc nhưng chưa rõ việc gì: chột dạ, gượng gạo đáp: “Tôi
hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày ra chuyện gì. Song cũng
gượng đáp:- Việc gì, cô cứ cho biết” ->Lo lắng sợ người bạn gái đến làm phiền cuộc
sống của mình, phá vỡ sự bình yên đang có. Rõ ràng, tôi là một người đã khác hẳn
xưa, không còn sự xông xáo, nhiệt huyết nữa.
c. Khi nghe bạn kể về cuộc đời và nhờ giúp tìm việc làm
- Khi nghe kể về cuộc đời: “ Anh em bây giờ mỗi người một nơi, người nào lo phận
người ấy. Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc gì,
rồi một buổi chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn....Gã lái buôn đã
dối cô: gã đã có vợ cả. Cả, lẽ ghen tuông, cô vốn người học thức, không chịu được
phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương tự lập”
-> Tôi thở phào, khi cô nói cô có chồng, như đỡ đi được gánh nặngtôi dằn lòng nghe nốt câu chuyện.
Lý do: Người phụ nữ thường khi có chồng, sẽ hết đời bay nhảy, sống yên phận. Những
việc “nghĩa hiệp” từng làm trong quá khứ chắc sẽ không còn cơ hội để làm. Bản thân cô
có chồng rồi cũng bớt đi cho tôi sự ghen tuông ở người vợ trẻ khi thấy cô đến chơi
trong đêm như thế này.=> tôi rất thành thực trong việc chia sẻ cảm xúc, tâm trạng
- Khi được nhờ giúp tìm việc làm:
+ Khi thấy bạn bảo chỉ cần tìm được chỗ “yên thân”, tôi bất bình “ Yên thân! Bây giờ
chúng tôi chỉ cầu có thế thôi ư? Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong
căn phòng của tôi bày biện nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nẩy
vẻ thèm muốn trong con mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu
được cái mối thẹn thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc
nàng cũng đưa mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu”.
=> Tôi tự thấy xấu hổ, thẹn thùng. Sự giàu sang ấy xưa kia bản thân và Lệ Minh coi
thường thì giờ là niềm thèm muốn của cô. Vì tôi hiểu tôi đã phải phải đánh đổi thứ gì.
Muốn sống no đủ giàu sang tôi phải hèn nhát, cúi đầu, thu mình lại.
=> Tôi quay lại phía Lệ Minh, cả hai ngượng ngùng. Bởi cả hai đều biết cái giá của để
có cuộc sống hiện tại.
=> Cả 2 đều là những người hiểu biết, sâu sắc.
+ “ Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước cái hoạn nạn không
xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo. Không tìm được
phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn nhát. Nhưng biết làm
thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của Khanh mà sợ: nàng chẳng
sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?”
=> Có thể suy đoán rằng sự nhận lời này của “ tôi” là khi anh không biết nên giúp như
thế nào cho đúng trước cái hoạn nạn ấy, một lời hứa xoàng nhạt nhẽo chỉ để qua mắt
cô. Anh “không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn” “Không dám
mời bạn gái ở lại”.=> Vì việc giúp đỡ Lệ Minh là chuyện khó khăn đối với một người đã
có vợ con như anh. Anh “ không có đủ can đảm làm”. Anh tự thấy “bản thân hèn nhát”. Anh hèn nhát thật.
=> Anh đánh giá rất cao người bạn gái >< bản thân tự thấy mình là kẻ hèn nhát chỉ vì
vợ nên không dám giúp đỡ, cũng chẳng cần suy nghĩ tìm cách giúp đỡ. Anh còn là
người vô tình, ích kỷ.
C. Đánh giá chung về nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, rút ra ý nghĩa đối với cuộc
sống. Đánh giá những thành công khi xây dựng nhân vật, khi dựng truyện, tình huống, tạo giọng điệu. * Nội dung:
- Nhân vật : Đại diện cho kiểu người trí thức thành công, có hiểu biết, có đời sống nội
tâm sâu sắc nhưng có lối sống hèn nhát, yếu đuối.
-Ý nghĩa tư tưởng chủ đề: Thông qua nhân vật tôi :
+ Đừng nên lãng quên cuộc sống trong quá khứ
+ Đừng quên đi bạn bè. Phải biết trân trọng, giúp đỡ hết lòng
* Những thành công về nghệ thuật
+ Nhân vật: được xây dựng bằng nhiều chi tiết miêu tả tâm trạng, đối thoại qua đó bộc lộ rõ nét tính cách.
+ Ngôi kể: Ngôi thứ 1 giúp người đọc nắm bắt được tâm trạng nhân vật sâu sắc, sinh
động, chân thật và gần gũi.
+ Tình huống truyện: đêm khuya, gặp gỡ nói chuyện của hai người bạn cũ ( tôi và bạn
gái) .... cũng là tình huống khá đặt biệt để nhân vật để bộc lộ được tâm trạng, nhân
cách. Nhà văn bộc lộ chủ đề
+ Giọng điệu: giàu chất trữ tình, cảm xúc tự vấn của nhân vật chính.
3. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của vấn đề nghị luận
3. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là nhà văn "Suốt đời đi tìm cái đẹp". Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh
đã nhận định rằng: "Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông,
văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và
đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất,
không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên
lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi
nghĩa và đồng tiền phàm tục". Trước cách mạng tháng Tám, những tác phẩm của ông
"thoát li khỏi hiện thực, tìm về một thời vang bóng" với những thú vui hết sức tao nhã:
thưởng trà, uống rượu,... một trong số đó là thú chơi chữ. Thú vui này được tái hiện
trong "Chữ người tử tù" in trong tập "Vang bóng một thời".
Tác phẩm ban đầu có tên là "Dòng chữ cuối cùng" và được in trên "tạp chí Tao Đàn",
khi xuất bản thành sách, Nguyễn Tuân mới đổi tên truyện ngắn thành "Chữ người tử
tù". Chủ đề tác phẩm được Nguyễn Tuân đề cập là "Cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu,
cái ác nhưng không thể sống chung với cái xấu, cái ác".
"Chữ người tử tù" kể về nhân vật Huấn Cao với những phẩm chất cao đẹp và tài năng
đặc biệt. Ông Huấn có tài viết chữ rất đẹp. Vì chống lại triều đình, Huấn Cao bị giam ở
nhà ngục tỉnh Sơn, tại đây, ông đã có cuộc gặp gỡ éo le với viên quản ngục. Khi viên
quản ngục biệt đãi với Huấn Cao, ông tỏ ra khinh thường. Nhưng sau khi thấy được
tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục, ông quyết định cho chữ. Vào buổi tối
trước khi Huấn Cao bị xử tử, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xuất hiện.
Người tử tù mang trên mình đầy xiềng xích đang viết ra những nét phóng khoáng trên
nền lụa trắng còn viên quản ngục lại khúm núm, run rẩy chờ đợi. Sau khi viết xong,
Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên tìm một nơi yên bình sống để giữ gìn tấm lòng
thanh cao, yêu cái đẹp. Cảm động trước lời nói của Huấn Cao, viên quản ngục đã cúi
đầu lạy tạ người tử tù với sự biết ơn, trân trọng.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Truyện
ngắn đã khắc họa nhân vật Huấn Cao nổi bật lên với ý chí anh hùng, bất khuất, tài hoa,
uyên bác, lương thiện. Ông cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản đối triều đình, khi bị bắt,
ông vẫn giữ tư thế hiên ngang. Trong phần trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ
lại đầu truyện, ta cũng có thể nhận thấy được tài năng của ông Huấn "Huấn Cao! Hay
là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp đó không?".
Tài năng của ông được nhiều người biết đến và ca tụng. Chữ của ông chỉ trao cho
những "tấm lòng trong thiên hạ", ông không vì quyền lực, vàng bạc mà ép mình viết
chữ "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ".
Không chỉ có tài năng, Huấn Cao còn mang trong mình tấm lòng lương thiện, sau khi
nhận thấy tấm lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ "Ta cảm tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có
những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ". Qua nhân vật Huấn Cao, ta có thể nhận thấy quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Tuân "cái đẹp đi liền với cái tâm".
Viên quản ngục cũng được khắc họa một cách ấn tượng trong tác phẩm. Ông là người
ngay thẳng, yêu cái đẹp nhưng phải sống ở nơi đầy gian dối, tàn nhẫn. Trong hoàn
cảnh đó, viên quản ngục vẫn cố giữ sự trong sạch cho tâm hồn, ông mong muốn có
được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Khi nghe lời khuyên của Huấn Cao, hành
động của viên quản ngục đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn ông "Ngục quan cảm động, vái
người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".".
Với tình huống truyện độc đáo, cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản
ngục đã để lại dấu ấn khó phai cho người đọc. Thủ pháp đối lập cũng là một điểm
nhấn. Ta có thể nhận thấy sự đối lập về địa vị xã hội và bản tính của hai nhân vật: một
người là tử tù với tài năng và khí phách hiên ngang, một người là viên quản ngục đại
diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Tác phẩm còn làm nổi bật sự đối lập giữa cái
đẹp với cái dơ bẩn, giữa ánh sáng và bóng tối trong cảnh cho chữ. Không gian cho chữ
là một phòng giam tối tăm, đối lập với "tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Sự đối
lập, đảo ngược vị thế của người tử tù và viên quản ngục: Người tù thì hiên ngang
phóng những nét bút thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người, còn viên quản
ngục lại khúm núm chờ đợi "Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô
nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ,
viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên
phiến lụa óng". Bằng ngôn ngữ tinh tế, nhịp điệu câu văn chậm, truyện ngắn gợi lên cho
người đọc không gian cổ xưa của một thời vang bóng. Ngôi kể thứ ba được sử dụng
giúp người đọc có hình dung khái quát về hoàn cảnh, tính cách mỗi nhân vật.
Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin về sự tỏa sáng của cái đẹp
ngay cả trong không gian tồn tại của cái xấu, cái ác. Qua "Chữ người tử tù", nhà văn
muốn khẳng định sự tồn tại của cái đẹp trong cuộc sống, nó có thể cứu rỗi linh hồn và
giúp người với người gần gũi, hiểu nhau hơn. Truyện ngắn đã đem lại cho chúng ta
những ấn tượng khó quên.
4. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Sang thu
Một mùa thu đầy lãng mạn và trữ tình đã trở thành đề tài quen thuộc trong những trang
thi ca. Hữu Thỉnh – một cây bút trưởng thành từ quân đội, với những lời thơ nhẹ nhàng,
sâu lắng đã mang đến cho độc giả bao cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất
trời. Bằng sự sáng tạo, tâm hồn nhạy cảm trước sự vật, sự tinh tế trong cách sử dụng
từ ngữ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh Sang thu thật quen thuộc và cũng thật mới lạ.
Sang thu với chủ đề về thiên nhiên mùa thu kết hợp cùng cảm hứng chủ đạo là những
cảm xúc, những rung động tâm hồn trước cảnh vật thiên nhiên trong những ngày hạ
mạt thô sơ giữa thời khói lửa. Bên cạnh đó, là những nét độc đáo trong nghệ thuật,
cách sử dụng từ ngữ sáng tạo, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật lên chủ thể trữ
tình được nói đến trong bài – mùa thu.
Nếu Xuân Diệu lấy sắc “mơ phai” của lá để báo hiệu thu tới thì Hữu Thỉnh cảm nhận
qua “hương ổi”, một mùi hương quen thuộc với miền quê Việt Nam: Bỗng nhận ra
hương ổi/ Phả vào trong gió se. Động từ mạnh “phả” mang nghĩa bốc mạnh, tỏa ra
thành luồng. Người nghệ sĩ ấy không tả mà chỉ gợi liên tưởng cho người đọc về màu
vàng ươm, hương thơm nồng nàn của “hương ổi” tỏa ra những cuối hạ, đầu thu đang
phả vào trong “gió se”.
Dấu hiệu tiếp theo là hình ảnh sương thu khi Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như
thu đã về. Sương thu đã được nhân hóa qua từ láy tượng hình “chùng chình” diễn tả
những bước đi rất thơ, rất chầm chậm để mang mùa thu đến với nước nhà. Chữ “se”
hiệp vần với “về” tạo nên những nhịp thơ nhẹ nhàng, thơ mộng, gợi cảm như chính
cảm giác mà mùa thu mang đến vậy. Khổ thơ đầu được Hữu Thỉnh cảm nhận ở đa giác
quan, thể hiện một cách sáng tạo những đặc trưng, dấu hiệu thu đến nơi quê nhà thanh bình.
Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu'" được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng
của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai:
Sóng được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây màu hạ Vắt nửa mình sang thu
Nước sông màu thu trên miền đất Bắc trong xanh, êm đềm, tràn đầy nên mới “dềnh
dàng”, nhẹ trôi mãi như đang cố tình chảy chậm lại để được cảm nhận rõ nhất những
nét đẹp của thiên nhiên tiết trời khi vào thu. Đối lập với sự “dềnh dàng” ấy là sự “vội vã”
của những đàn chim đang bay về phương Nam tránh rét. Những đàn chim ấy khiến ta
liên tưởng đến đàn ngỗng trời mà thi sĩ Nguyễn Khuyến đã nhắc đến trong Thu vịnh:
Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều
được nhân hóa. Tác giả sử dụng động từ “vắt” để miêu tả cho mây. Đám mây như
được đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống, gợi sự tinh nghịch, dí dỏm, chủ
động. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè
sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức
tranh mùa thu thêm thi vị hơn.
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm
giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và
gắt gỏng nữa. Đồng thời, những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời cũng được gửi gắm
qua những câu từ nhẹ nhàng ấy. Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ
- mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ “vẫn còn, đã vơi
dần, bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên
như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa,
sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao
mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm" và “hàng cây đứng
tuổi" là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài " Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là
những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi,
biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh ‘‘hàng cây đứng tuổi'' là
một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn.
Sang thu Là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần
thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu vẽ nên những cảnh thu,
sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm
hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang... đầy thi vị.
5. Đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình thức nghệ
thuật của tác phẩm Đi san mặt đất
Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ.
Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của
bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất.
Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và
loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải
đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà
không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong
chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của
người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ.
Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ,
đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất
vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên.
Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:
"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"
Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm
nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì
lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi
san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô
xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá"
"Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian
hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con
người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức
mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ: "Kiếm con trâu sừng cong Chọn con trâu sừng dài"
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu
tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng
thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế
nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn
loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa,
các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con
người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/
Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần
là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của
người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt
đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con
người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc.
Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo
thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh
nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với
giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu
hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho
chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị
giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.
"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện
đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ
năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn
tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.
6. Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình
thức nghệ thuật của Con cáo và chùm nho
Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con
cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop. Đây được xem là một trong
những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những
hình thức nghệ thuật xuất sắc.
Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho
căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế,
cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật
không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho.
Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó
cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ
xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn
giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.
Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng
giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm.
Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ
và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản
thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm
hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi
cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu
chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính
chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được
sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng
như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và
khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn
đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu
sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức
nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài
học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường,
khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt
nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không
ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm
nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê.
Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con
cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng
trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là
nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động,
không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho
những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ
nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là
do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.
Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân
vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc
thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy
những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng
kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao
mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa
chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy
được Cáo là một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời
độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu
biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh
tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ
thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để
nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.
Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo
kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.
7. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài thơ Hương thầm

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắt vào tác gải Phan Thị Thanh Nhàn và tác phẩm Hương Thầm.
- Giới thiệu nội dung cần cảm nhận: Thông qua hệ thống ngôn ngữ, hệ thống hình ảnh
già sức gợi bài thơ đã miêu tả và tái hiện thành công tâm trạng ngại ngùng, bối rối, thẹn
thùng của đôi trai gái khi tràng trai sắp phải lên đường ra trận.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Chủ đề của bài thơ: thông qua hình ảnh của loài hoa giản dị, trắng trong tinh khiết,
mang trong mình mùi thơm nhẹ nhàng thanh quý mà say đắm long người. Tác giả
PTTN đã ngợi ca vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa, đây là thứ tình cảm mới chớm nở, còn sự
ngại ngùng bẽn lẽn nhưng đọng lại trong long người đọc là sự trắng trong, thánh thiện
đáng ngưỡng mộ của vể vẻ đẹp của những chàng trai, cô gái thời bấy giờ.
- Mạch cảm xúc của bài thơ chậm dãi, thự nhiên, nhẹ nhàng tựa như vẻ đẹp trắng trong
và hương thơm dịu nhẹ của loài hoa bưởi. Bài thơ mở ra là hình ảnh khung cửa sổ hai
nhà cuối phố, không hiểu vì sao không khép bao giờ. Hình ảnh thơ hé mở những liên
tưởng thú vị về mối quan hệ đặc biệt của một đôi bạn học cùng lớp. Mạch cảm xúc tiếp
tục được gợi mở thông qua một tình huống đặc biệt: Chàng trai phải ra trận, người con
gái không dám bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình đành phải nhờ hương thơm của hoa
bưởi để nói hộ tình yêu. Giây phút cuối cùng họ vẫn chọn cách lặng im … theo bước
chân của chàng trai luôn là tình cảm, sự dõi theo của người ở lại, là mùi hương bưởi
đắm say không thể nào quên.
- Chính sự ngập ngừng bối rối của anh và em đã làm nên thành công của bài thơ, bởi
diễn biến tâm trạng này là chuỗi diễn biến tâm lý vô cùng hợp lý: nó vừa diễn tả vẻ đẹp
thuần khiết của tình yêu, vừa diễn tả được vẻ đẹp tâm hồn của Anh và em của thế hệ
trẻ VN thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Có thể khẳng định khong có những tình
cảm trong sáng, thuần khiết đó, không có những con người mang tâm hồn đẹp như
Anh và Em chúng ta sẽ không bao giờ có được cuộc sống yên bình như ngày hôm nay.
- Hình ảnh nổi bật trong bài thơ là hình ảnh chum hoa bưởi, được cô gái giấu trong
chiếc khăn tay để mang sang nhà hang xóm. Hình ảnh hoa bưởi là hình ảnh ẩn dụ cho
vẻ đẹp và tình yêu của cô gái dành cho chàng trai..
- Hình ảnh: mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi: dình ảnh chân thực, độc đáo diễn tả
chính xác tâm trạng yêu đương buổi đàu của bao cặp tình nhân, Ánh mắt đó thể hiện
sự bẽn lẽn, ngượng ngùng của buổi đầu rung động. Dù quay đi nhưng chắc chắn trong
long họ đang rung lên những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ..
- Hình ảnh hương thầm thơm mãi bước người đi.. thể hiện tình cảm thuỷ chung và sự
dõi theo của Em dành cho Anh, đây chính là nguồn động lực giúp cho nhận vật Anh có
thể vững bước lên đường, cầm chắc tay súng bảo vệ đất nước, bảo về những người thân yêu nơi quê nhà.
- Điểm độc đáo của bài thơ chính là điểm nhìn của nhân vật trữ tình – Tac giả , chính
nhà thơ là người đã thấu hiểu và miêu tả lại những cung bậc cảm xúc trong tình cảm
của đôi trẻ. Câu chuyên tình yêu trong sáng cứ thế được kể lại một cách nhẹ nhàng,
dung dị. Vấn vương trong long người đọc không chỉ là mùi hương hoa bưởi thoang
thoảng đâu đây mà còn là sự lặng im không nói những điều đang giấu kín trong lòng ..
một giấc mơ về một ngày mai với khung cửa sổ vẫn luôn mở …
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính :
+ Hình tượng xuyên suốt bài thơ chính là hương bưởi, trong cảm nhận của nhân vật trữ
tình, cảm nhận của Em, Anh hương bưởi lúc thì ngan ngát hương đưa, hoa bưởi thơm
cho long bối rối, mùi hương đầm ấm thạnh tao, bay dịu nhẹ, thấm sâu vào lồng ngực,
thơm mãi bước người đi. Mùi hương bưởi giống như sợi dây cảm xúc, giống như bà
mối của tự nhiên gắn kết tình yêu cho đôi bạn trẻ. Chính vì vậy dù ngồi cạnh nhau, dù
ánh mắt chợt nhàn nhau rồi lại quay đi, dù lăng im không nói điều gì .. thì Hương thầm
vẫn theo mãi bước người đi mãi mãi không xa rời.
+ Nếu mùi hương hoa bưởi đã nói hộ tấm lòng người thiếu nữ, thì Hương thầm có thể
coi là thay lời muốn nói của cả một thế hệ đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp nhất của
mình nơi chiến trường. Không một lời yêu nào được ngỏ, không một lời hứa hẹn nào
được trao. Chỉ có những câu hỏi không lời đáp để lại bao xao xuyến trong lòng người nghe.
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
+ Bài thơ trữ tình có kết cấu giống như một câu truyện, với kết cấu mở bài thơ cứ làm
vấn vương, lưu luyến mãi trong lòng người đọc
+ Nghệ thuật Ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ.. được sử dụng linh hoạt trong bài thơ không chỉ
àm tăng sức gợi hình gợi cảm mà trên hết còn làm cho hình tượng thơ trở nên cụ thể
và chân thực hơn trong cảm nhận của người đọc..
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
- Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh , nhưng đơn thuần chỉ là bài thơ viết về
tình yêu đầu đời vô cùng thánh thiện và vô cùng trong sáng – Viết về điều này nhà Thế
Lữ từng khẳng định: Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy. Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên.
- Bài thơ với kết thúc mở, để lại bao vân vương trong lòng người ra đi và người ở lại
…một hi vọng tốt đẹp được nhen lên trong mỗi bước người đi vì trong mỗi bước hành
quân của anh luôn có tình em theo cùng.
- Trước Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi đã xuất hiện trong ca dao và nhiều nhất là
trong thơ Nguyễn Bính. Nhiều người vẫn thuộc câu ca “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay
những dòng tươi thắm tả cảnh mùa xuân “Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng – Ngào
ngạt hương bay, bướm vẽ vòng” (Nguyễn Bính). Nhưng phải đến Phan Thị Thanh
Nhàn, hoa bưởi mới trở thành nhân vật chính trong một bài thơ.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
8. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài thơ Cuối thu - Hàn Mặc tử
Cuối thu
Lụa trời ai dệt với ai căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Sao không tô điểm nên sương khói,
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,
Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ.
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
Điềm báo thu vàng gầy xác xơ.
Thu héo nấc thành những tiếng khô.
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?
( Hàn Mặc Tử - Trích trong Mật đắng)
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
+ HMT là gương mặt xuất sắc/tiêu biểu của phong trào thơ mới và văn học VN hiện đại
+ Thơ của thi sĩ giàu hình ảnh, cảm xúc; từ ngữ giản dị nhưng mang tính biểu cảm cao
+ Tác phẩm Cuối thu được in trong tập Mật đắng.
+ Đây Là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách thơ của thi sĩ HMT.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
2.1. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Mạch cảm xúc bài thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh. Có thể thấy, nhân
vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của
cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng
điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ
tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.
- Cảm xúc về thiên nhiên và con người những ngày cuối thu từ những thứ trong sáng
thuần khiết nhất đến những gì quái dị , u ám và buồn nhất
- Vói lời thơ nhẹ nhàng, tình tứ nhưng cũng đầy bí ẩn, thêm chút kinh dị, bài thơ đã
mang lại cho người đọc sự tò mò và những cảm xúc khác nhau khi đọc bài thơ.
- Khung cảnh mùa thu được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình
tượng bầu trời và thiên nhiên.
2.2. Phân tích đánh giá những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm và tác
dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm
a. Khổ 1: Khổ thơ thứ 1 Câu thơ mở đầu bài thơ là câu thơ rất thú vị với câu hỏi tu từ
đầy tính nghệ thuật. Bầu trời cuối thu trong xanh và cao rộng, trời mịn không một gợn
mây được tác giả ví như tấm lụa được ai dệt và kéo căng. Liên tiếp ba câu thơ đầu sử
dụng câu hỏi tu từ đã cho thấy sự tò mò của tác giả với thiên nhiên cuối thu. Quảng
Hàn tượng trưng cho cung trăng. Nếu cuối thu, đàn chim sẽ phải bay về phương Nam
tránh rét nhưng đây nó lại bay về Quảng Hàn lạnh lẽo như chính cài tên của nó. Điều
đó không phải ngẫu nhiên mà nó chính là dụng ý của tác giả về việc phá vỡ mọi rào
cản, trái với quy luật của tự nhiên. Hình ảnh quỷ dị, ma quái đã gắn liền với nhiều câu
thơ trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ “Và ai gánh máu đi trên tuyết” đã cho thấy sự kinh
dị đó với hai hình ảnh đối lập tuyết vào máu. Thường khi nhắc đến tuyết, người ta sẽ
nghĩ đến ngay sự trong trắng tinh khiết và máu thì ngược lại. Hình ảnh “ai” gánh máu đi
trên tuyết đã cho thấy sự đau khổ cả trong tinh thần và thể xác của người đó.
b. Khổ 2: Khổ thơ thứ 2 bằng cách diễn tả mây vẽ hằng hà, Hàn Mặc Tử đưa ra một
hình ảnh mơ hồ, tượng trưng cho những dấu vết của thời gian và sự xa cách. Những
vệt sa số lệ của mây biểu hiện sự chia ly và cô đơn tạo nên một cảm giác tương phản
và đau đớn. Tác giả đặt câu hỏi : “Sao không tô điểm nên sương khói” để tạo ra một sự
trầm tư và thất vọng. Sương khói được coi là biểu tượng của sự mờ mịt, không rõ rang
và thất thường. Ông cho rằng tại sao không có những điểm nhấn, những điều đẹp đẽ
để phần nào xoa dịu nỗi buồn và sự chập chờn trong tâm hồn mình. Với những từ ngữ
đơn giản và tinh tế Hàn Mặc Tử tạo ra một khung cảnh tâm trạng và cảm xúc sâu sắc.
Khổ thơ này thể hiện sự đau đớn và nỗi lưu luyeenscungx như những khát khao tìm
kiếm ý nghĩa và sự bình yên trong cuộc sống.
c. Khổ 3 Cảm giác cô đơn lạnh lẽo từ khổ thơ hai lan tỏa và bao trùm sang toàn bộ khổ
thơ thứ ba. Hàng loạt các từ ngữ lạnh, hững hờ, buồn, trơ vơ, mảnh khảnh, run cầm
cập, gầy, xác xơ, héo, nấc, khô… xuất hiện đã làm nổi bật lên nỗi buồn cô đơn đó. Sự
lạnh lùng, hững hờ, xơ xác của thiên nhiên đã bao trùm lên tâm trạng và cảm xúc của
tác giả. Điềm báo về những cành cây mảnh khảnh, run cầm cập hay xơ xác của thiên
nhiên cây cối cũng như điềm báo về chính con người về cái chết cận kề.
d. Khổ 4: Thu héo được tác giả dùng để miêu tả những hình ảnh thu cuối với những
tiếng khô, không chỉ là của lá mà còn là trong lòng tác giả đã khô héo. Giữa những nỗi
đau ấy, tư mọc xuất hiện như một điểm sáng. Một vì sao mọc trên trời là dấu hiệu của
một người vừa qua đời cũng có thể là một vị thần giáng thế theo quan niệm của Hy
Lạp. Khổ thơ trước nói về cái chết, khổ thơ này cũng vậy. Cái chết có thể là sự kết thúc
cho cuộc đời cũng có thể là sự mở đầu cho cuộc đời mới. Vì sao mọc có thể là sự tái
sinh cho người thơ. Tuy nhiên người đó chưa thấy xuất hiện và sự trinh bạch vẫn bị
giam giữ dưới đáy mồ sâu trong lòng đất.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
Đề tài mùa thu là đề tài quen thuộc của thi nhân nhưng nếu mùa thu trong thơ lưu
Trọng Lư là hình ảnh “con nai vàng ; lá vàng” thơ ngây, man mác buồn thì" Cuối thu"
của Hàn Mặc Tử lại là những ngày cuối thu từ những thứ trong sáng, thuần khiết nhất
đến những gì quái dị, u ám và buồn nhất. Cả Lưu Trọng Lư và Hàn Mặc Tử đều sử
dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê mùa thu. Nhưng điều làm nên
dấu ấn của "Cuối thu" chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa
thu ở trạng thái mùa thu tàn tạ, héo hon trong tâm hồn thi sĩ.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng "Thơ khởi phát từ trong lòng người
ta". Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa
trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua bài thơ “Cuối" ta không chỉ ngưỡng mộ tài
năng của nhà thơ HMT mà còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu
quê hương, dân tộc của thi nhân. HMT xứng đáng là cây bút tài hoa, tiêu biểu của nền văn học VN hiện đại.
9. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của bài Thơ viết ở biển
1. Mở bài:
Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm. - Tác giả Hữu Thỉnh:
+ Sinh năm 1942, tại Tam Dương, Vĩnh Phúc trong một gia đình nhà nho nghèo
+ Thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
+ Thơ Hữu Thỉnh tinh tế, giàu suy tư trải nghiệm, với một giọng điệu riêng đa sắc thái
và năng lực sử dụng ngôn từ độc đáo
- Bài thơ "Thơ viết ở biển" in trong tập "Thư mùa đông" của Hữu Thỉnh, xuất bản năm 1994
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Chủ đề: Bài thơ trên viết về tình yêu đôi lứa ngọt ngào da diết. Đây là một chủ đề
quen thuộc đối với thể loại thơ trữ tình. Và việc khai thác chủ đề này theo một cách mới
lạ đã làm nổi bật tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Hữu Thỉnh
- Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của bài thơ tập trung miêu tả từng diễn biến tâm trạng
tinh vi của nhân vật trữ tình: nhớ thương khôn nguôi đối với người mình yêu.
- Hình ảnh: Nhà thơ Hữu Thỉnh đã lựa chọn những hình ảnh của tự nhiên, những thứ
xa tầm đối với con người để diễn tả một chuyện tình không thể đến được với nhau mà
chỉ có thể gửi gấm nỗi niềm của mình qua những hình ảnh đó.
- Điểm nhìn: Ở đây, ta nhìn thấy rõ nhất chính là điểm nhìn bên trong.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta mơ
hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền
với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai
cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những
khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của
những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
"Biển" và "Cánh buồm" là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho "Anh" và "Em".
"Cánh buồm" giờ đây đã hóa thành linh hồn của "Biển", "Biển" tuy dài rộng, mênh mông
vô cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có "Cánh buồm" ra khơi cũng như "Anh" sẽ chẳng
là gì cả nếu thiếu đi "Em". Thông qua hình ảnh "Biển" và "Cánh buồm" vừa đối lập lại
vừa sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn
bó trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng
đề tài, chủ đề, thể loại
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô
đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân
quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu
như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù
có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
"Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng nhỏ Con nào cũng tới bờ Dù muôn vời cách trở."
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong tình yêu:
"Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Vì sóng đã làm anh Nghiêng ngả Vì em.."
"Sóng" giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng
lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con
sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn
như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt
trong tương quan tình yêu cũng vậy, "Anh" sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có "em".
Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong
lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao đảo cả tâm trí.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Bài viết tham khảo
Xưa nay có muôn vàn bài thơ viết về tình yêu và nỗi nhớ. Có biết bao cái tên nổi trội
giữa thi đàn cùng với những tuyệt tác viết về tình yêu: Nhà thơ chân quê Nguyễn Bính
với "Tương tư", "Người hàng xóm"; nữ sĩ Xuân Quỳnh với "Sóng", "Thuyền và biển";
"Ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu cùng "Tương tư chiều", "Yêu" hay ta bắt gặp Lưu
Quang Vũ có những bài thơ như "Và anh tồn tại", "Em - tình yêu những năm đau xót và
hy vọng". Ở giữa giàn đồng ca thơ tình muôn điệu ấy ta nhận ra một Hữu Thỉnh nồng
nàn, đôn hậu qua bài "Thơ viết ở biển". "Thơ viết ở biển" là một trong những bài thơ
hay, đặc sắc nhất, tiêu biểu cho tập thơ "Thư mùa đông" (Giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam năm 1995). Có rất nhiều hướng để tiếp cận một văn bản văn học mà ta có thể kể
đến như tiếp nhận văn học từ góc độ tác giả, tiếp nhận văn học dưới góc độ đặc trưng
văn học hoặc góc độ văn hóa, phân tích tác phẩm văn học theo phương pháp cấu trúc..
song, ở mỗi hướng tiếp cận và nghiên cứu, phân tích ta đều thấy có cái hay riêng của
nó. Tiếp nhận tác phẩm "Thơ viết ở biển" dưới góc độ đặc trưng văn học, chúng ta có
được cho mình cách lý giải hay, sáng tạo và lý thú về ý tứ bài thơ. Từ đó góp phần kiến
tạo nên tác phẩm, khiến cho nó trở nên gần gũi hơn với hiện thực đời sống. "Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Vì sóng đã làm anh Nghiêng ngả Vì em.." (Thư mùa đông, 1994)
Bao trùm toàn bộ bài thơ là cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mỏi mòn và niềm khát khao cháy
bỏng hạnh phúc đến trong tình yêu đôi lứa với chủ thể trữ tình ở đây là nhân vật "Anh"
và "Em", Hữu Thỉnh đã bắt đầu dòng cảm xúc bằng mệnh đề "Anh xa em" : "Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn."
Biểu tượng mặt trời và mặt trăng mang rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó biểu đạt cho sự
cân bằng âm dương, mặt trời thuộc dương và mặt trăng thuộc âm. Biểu tượng này còn
có ý nghĩa là ngày và đêm khi ánh trăng và mặt trời chiếu xuống trái đất. Hình ảnh
mang ý nghĩa biểu tượng "Mặt trăng" và "Mặt trời" trong bài thơ này cũng có ý biểu thị ý
niệm về thời gian ngày và đêm, đồng thời hai thực thể ấy cũng tượng trưng cho nhân
vật "Anh" và "Em". Nếu như mặt trời là anh thì trăng sẽ là em. Mặt trời và trăng vốn tạo
hóa sinh ra đã lẻ, mặt trời lặn thì trăng mới ló lên, đó là hiện tượng tự nhiên vô cùng
bình thường nhưng khi đi vào thơ Hữu Thỉnh, nó lại trở nên bất thường vô cùng. "Đừng
ví nhau là mặt trăng với mặt trời/Anh và em mãi cứ là hai nửa" (Không là mặt trăng, mặt
trời) Thế nhưng, cho dù ở giữa là một khoảng cách rất lớn, thì ánh sáng của mặt trăng
và mặt trời vẫn phản chiếu lên nhau. Đó không chỉ là mối tương quan giữa hai thực thể
mặt trời và trăng trong vũ trụ tự nhiên mà còn khiến ta liên tưởng đến bản chất của tình
yêu: Anh và em xa cách nhau thì cũng lẻ loi như mặt trời và mặt trăng nhưng chính nỗi
cô đơn đó càng làm trọn vẹn, thắm thiết hơn tình yêu. Hữu Thỉnh đã diễn tả sâu sắc nỗi
cô đơn, lẻ loi nếu thiếu vắng đi nửa kia của đời mình.
Hai câu thơ tiếp theo bỗng chuyển mạch cảm xúc với cách ngắt nhịp 3/4, 3/5, con chữ
bắt đầu dàn trải ra với giọng điệu vô cùng khắc khoải, nghẹn ngào như một lời tự bạch, lời giãi bày:
"Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn."
Biển và cánh buồm là thi liệu khá quen thuộc trong thơ ca truyền thống: "Cánh buồm
bao quản gió xiêu/Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau" (Ca dao) hay "Buồn trông
cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa" (Truyện Kiều) "Biển" và
"Cánh buồm" ở hai câu thơ đã tạo thành không gian mênh mang của biển cả. Biển là
mẹ thiên nhiên vĩnh hằng, kì vĩ; cánh buồm giữa biển thì lại nhỏ bé đơn độc, nó cũng
biểu trưng cho sự mong manh của kiếp người. Tách riêng hai câu thơ ấy ra thì ta chỉ
thấy đơn thuần miêu tả sự cô đơn của biển cả khi vắng đi cánh buồm, còn khi hợp nhất
lại thành một chỉnh thể thì ta lại liên tưởng đến nhân vật trữ tình "Anh" và "Em". "Biển"
và "Cánh buồm" là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho "Anh" và "Em". "Cánh
buồm" giờ đây đã hóa thành linh hồn của "Biển", "Biển" tuy dài rộng, mênh mông vô
cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có "Cánh buồm" ra khơi cũng như "Anh" sẽ chẳng là
gì cả nếu thiếu đi "Em". Thông qua hình ảnh "Biển" và "Cánh buồm" vừa đối lập lại vừa
sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn bó
trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
Đọc "Thơ viết ở biển", ta cứ tưởng như đang nghe một bản nhạc du dương, từ tốn mà
da diết. Giọng điệu thơ cũng day dứt, man mác nỗi buồn, nỗi nhớ sâu thẳm:
"Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím"
Hai câu thơ trên song song tương đồng với nhau cả về ngữ âm và nghĩa. Gérard
Manley Hopkins khi còn là sinh viên cũng đã khám phá ra nguyên lý: "Tất cả thủ pháp
của thi ca dựa trên nguyên tắc song song" (Toute forme d'artifice se réduit au principe
du parallélisme) Nhà thơ đã xây dựng nên cặp hình ảnh tương đồng giữa "Gió" và
"anh", giữa "đá núi" và "Em" cùng với tổ hợp từ rất lạ tạo nên những vần thơ bất hủ
"Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím". Chúng ta dừng lại để suy tư, chiêm
nghiệm về câu thơ ấy, để có thể cắt nghĩa cảm xúc của chủ thể trữ tình. Màu sắc là một
phương diện của cái nhìn nghệ thuật trong văn chương, làm nên thế giới nghệ thuật
của một nghệ sĩ. Những nghệ sĩ có phong cách thường có kiểu sử dụng màu sắc theo
một cách riêng, làm nên nét dộc đáo của tác phẩm, của tác giả. Chữ "Tím" ở đây đã
khiến cho câu thơ vừa mơ hồ, vừa đa nghĩa. Có lẽ "Nhuộm anh đến tím" ở đây là tím
lòng, tím cả tâm hồn. Về phương diện hội họa, màu tím là sự pha trộn và hợp thành
của màu xanh và màu đỏ. Tím là màu sắc thiên về các khía cạnh của nội tâm, tìm đến
những ngõ ngách riêng tư của con người, diễn đạt những khung trời nhớ nhung, xa
vắng, lẫn khuất đâu đó là những hoài niệm, hoài cảm về thời gian. Màu đã xuất hiện
nơi nhiều bài thơ. Đoàn Phú Tứ có câu: "Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím
ngát" (Màu thời gian) ; còn Anh Thơ, trong Chiều xuân thì viết "Quán tranh đứng im lìm
trong vắng lặng/ Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời." Nhà thơ Tố Hữu, với bài thơ
Hoa tím viết tặng Nguyễn Tuân lại có câu: "Thủy chung tình bạn chùm hoa tím." Đối
chiếu tương quan giữa các bài thơ ấy, ta thấy được "Tím" ở đây đã không còn đơn
thuần là một màu sắc mà nó còn mang ý niệm ẩn dụ cho cảm xúc, cho tâm tư tình cảm
của chủ thể trữ tình. "Em đâu phải là chiều mà nhuộm anh đến tím", câu thơ ấy khắc
khoải bật lên nỗi nhớ nhung, nỗi buồn man mác đang thường trực trong tâm trí nhân vật "Anh".
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô
đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân
quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu
như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù
có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
"Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng nhỏ Con nào cũng tới bờ Dù muôn vời cách trở."
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong tình yêu:
"Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Vì sóng đã làm anh Nghiêng ngả Vì em.."
"Sóng" giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng
lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con
sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn
như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt
trong tương quan tình yêu cũng vậy, "Anh" sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có "em".
Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong
lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao đảo cả tâm trí.
Nhìn vào tổng thể toàn bài thơ, ta có thể thấy được "Thơ viết ở biển" là một chỉnh thể
gần như hoàn hảo. Cấu trúc toàn bài thơ như hình thù một con sóng với ba thơ mở đầu
chỉ vỏn vẹn ba chữ, cảm xúc như được nén lại; chuyển sang năm câu thơ ở giữa thì
dung lượng chữ tăng lên, tiết tấu trầm và chậm lại để phù hợp với lời tự bạch của chủ
thể trữ tình;ở ba dòng thơ cuối dung lượng lại thu hẹp dần, giọng thơ lại ngắt quãng,
ngắt nhịp "Vì sóng đã làm anh/Nghiên ngả/Vì em.."
Về hình ảnh thơ, các hình ảnh cũng có mối liên hệ lẫn nhau: Mặt trời, trăng, biển, cánh
buồm, sóng, gió, núi đá. Mặt trời và trăng; biển và cánh buồm;núi đá và gió đều là
những thực thể sóng đôi với nhau ngoài tự nhiên, tượng trưng cho "Anh" và "Em" vậy.
Tất cả đều trở nên đơn độc, lẻ loi, mất đi ý nghĩa khi anh xa em. Cả bài thơ là một
không gian rộng rãi nhưng bao trùm bởi màu sắc trầm buồn, một sự cô đơn, trống vắng đến mênh mang.
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta mơ
hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền
với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai
cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những
khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của
những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
Hegel từng quan niệm về thơ như sau: "Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã
trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay
vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư
tưởng và cảm xúc." Đọc "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh để tâm hồn mình có những
giây phút lắng đọng, để chiêm nghiệm về triết lý tình yêu. Đó là một bài thơ hay, tinh tế
nhưng cũng không kém phần chân thành, da diết đến từ hồn thơ vô cùng đôn hậu,
nồng nàn tha thiết: Hữu Thỉnh.
10. Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài Mưa xuân
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu chung về bài thơ
- Xác định vấn đề sẽ được tập trung bàn luận trong bài viết: nội dung và hình ảnh trong bài thơ.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
- Nhan đề: Nhan đề bài thơ thể hiện sự rung cảm trọn vẹn trước làn mưa mơ hồ, huyền
hoặc của mùa xuân cũng như đánh dấu một kỉ niệm khó phai. Kỉ niệm về những hạt
mưa đầu xuân, về những cảm xúc luyến ái đầu đời, những mơ mộng chớm hé về cuộc hẹn đầu tiên.
- Nhân vật trữ tình: Nguyễn Binh đã nhập vai một cô gái thôn quê để kể về lần lỗi hẹn
đầu tiên với một chàng trai trong hội chèo làng Đặng.
- Cảm xúc chủ đạo: Bài thơ là nỗi tủi phận, tủi duyên, là nỗi lỡ làng của cô gái dưới đêm mưa.