-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Việt Nam giai đoạn 1945-1975 - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1975
Câu 1: Vì sao sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, nước ta bị
chia cắt thành hai miền? Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975.
1. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, nước ta bị chia cắt thành hai miền vì:
- Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954 được kí kết là mốc đánh dấu
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ của nhân dân ba
nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia.
- Tháng 5/1956, Pháp rút khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương Tổng
tuyển cử, thống nhất đấy nước theo điều khoản của hiệp định Giơ-ne-vơ. Điều này
đã tạo cơ hội và điều kiện để ngay sau khi Pháp rút quân, Mĩ đã thay chân Pháp ở
miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt nước
ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở
Đông Dương và Đông Nam Á.
- Do âm mưu và hành động xâm lược của Mĩ nên nước ta tạm thời bị chia cắt làm
hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trên cả nước chưa hoàn thành khi chỉ miền Bắc được giải phóng, miền Nam
tiếp tục đấu tranh chống Mĩ – Diệm để thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước.
2. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975: - Miền Bắc:
+ Hoàn thành cải cách ruộng đất, thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh; tiến
hành cải tạo quan hệ sản xuất, nhằm đưa miền Bắc tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
+ Miền Bắc còn là hậu phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam; là chiến trường
đánh Mĩ trong các cuộc chiến tranh phá hoại để bảo vệ thành quả cách mạng.
- Miền Nam: Đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước.
- Nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước: Đấu tranh chống Mỹ - Diệm và tay sai,
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Câu 2: Phong trào đấu tranh của nhân dân Miền Nam chống chế độ Mỹ -
Diệm trong những năm 1954 – 1960? * Hoàn cảnh:
- Tháng 7/ 1954, nhận rõ đế quốc Mỹ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa
bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông
Dương, Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam là chuyển
từ đấu tanh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị chống Mĩ và chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm, đòi chúng thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, giữ gìn và phát
triển lực lượng cách mạng. * Diễn biến:
- Mở đầu cuộc đấu tranh là “phong trào hòa bình” của trí thức và nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tháng 8/1954.
- Tháng 11/ 1954, Mỹ - Diệm tiến hành khủng bố, đàn áp lùng bắt các nhà lãnh
đạo phong trào. Nhưng phong trao vẫn tiếp tục dâng cao, lan rộng và lôi cuốn hàng
triệu người tham gia, bao gồm các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, dân tộc ít
người,… hình thành mặt trận chống Mỹ - Diệm.
* Mục tiêu đấu tranh: Được thay đổi theo từng thời kì:
- Đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đòi hiệp thương Tổng tuyển cử, thi hành hiệp định
Giơ-ne-vơ, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.
- Chống cái gọi là “Trưng cầu dân ý”, “Bầu cử Quốc hội” của Diệm, chống phong
trào khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch tố cộng, diệt cộng của chúng, đòi các
quyền tự do, dân sinh dân chủ. * Hình thức đấu tranh:
- Từ đấu tranh chính trị, hòa bình, chuyển dần sang vũ trang tự vệ và bạo lực cách mạng.
Câu 3: Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975), phong trào đấu tranh
nào đã đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến công? Hoàn cảnh, diễn biến, kết quả - ý nghĩa của phong trào đó.
1. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975), phong trào đấu tranh đã đánh
dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công là phong trào Đồng khởi (1959 – 1960).
2. Phong trào “Đồng khởi”: a) Hoàn cảnh:
- Trong những năm 1957 – 1959, cách mạng miền Nam gặp muôn vàn khó khăn.
Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật. Luật 10/59
(tháng 5/1959) cho phép giết hại bất cứ người yêu nước nào, bất cứ ai có biểu hiện
chống lại chúng, làm cho hàng vạn cán bộ, đảng viên bị giết hại, hàng chục vạn
người dân yêu nước bị tù đày. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đòi hỏi
phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng tiến lên.
- Tháng 1/ 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành TW Đảng quyết định để nhân
dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: Ngoài con đường bạo
lực, nhân dân miền Nam không còn con đường nào khác. Phương hướng cơ bản
của cách mạng miền Nam là “dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thiết lập chinhs quyền cách mạng của nhân dân”.
- Trên cơ sở Nghị quyết 15 của Đảng, nhân dân Miền Nam đã nổi dậy đấu tranh,
tiêu biểu là phong trào Đồng khởi (1959 – 1960). b) Diễn biến:
- Phong trào nổi dậy từ chỗ lẻ tẻ ở từng địa phương: Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác
Ái (Ninh Thuận) tháng 2/ 1959, Trà Bồng (Quảng Ngãi) tháng 8/ 1959 đã lan ra
khắp miền Nam trở thành cao trào cách mạng, tiêu biểu là cuộc “Đồng khởi” (1959 – 1960).
- Tại Bến Tre, ngày 17/1/1960, phong trào nổ ra tại ba xã điểm Định Thủy, Bình
Khánh, Phước Hiệp thuộc huyện Mỏ Cày rồi nhanh chóng lan ra toàn huyện và các
huyện lân cận: Giồng Trôm, Ba Tri, Châu Thành….
- Hòa nhịp với phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre, nhân dân các tỉnh Tây Ninh, Mỹ
Tho, Tân An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau,… cũng đồng loạt nổi dậy, làm chủ 2/3
xã, ấp. Từ Năm 1960 trở đi, phong trào còn lan rộng đến các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. c) Kết quả - ý nghĩa:
- Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn, dẫn
tới sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày
20/12/1960 do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Mặt trận chủ trương đoàn
kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và nhân sĩ
yêu nước đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm.
- Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt của cách mạng miền
Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; chấm dứt thời kì tạm thời
ổn định của chế độ thực dân mới của Mĩ ở miền Nam, mở ra thời kì khủng hoảng của chế độ Sài Gòn.
Câu 4: Trình bày những điểm giống nhau trong các chiến lược chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mĩ ở miền Nam Việt Nam.
1. Các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam:
- Chiến tranh đơn phương (1954 – 1960).
- Chiến tranh đặc biệt (1961 – 1965).
- Chiến tranh cục bộ (1965 – 1968).
- Việt Nam hóa chiến tranh (1969 – 1972).
2. Điểm giống nhau giữa các chiến lược chiến tranh:
- Mục tiêu: Đều nhằm chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, biến miền Nam Việt
Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông
Nam Á; làm bàn đạp tấn công ra Bắc, phản kích phe XHCN từ Đông Nam Á. - Thủ đoạn:
+ Đều là các chiến lược chiến tranh thực dân mới của Mỹ, dựa vào bộ máy chính
quyền và quân đội tay sai Sài Gòn.
+ Đều sử dụng viện trợ kinh tế và quân sự để tiến hành chiến tranh; sử dụng các
chính sách bình định nhằm chiếm đất, giành dân.
Câu 5: Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” trong hoàn cảnh lịch
sử nào? Nêu âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong việc tiến hành chiến lược chiến tranh này.
1. Hoàn cảnh lịch sử:
- Cuối 1960 – đầu 1961, thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” của quân dân miền
Nam đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
- Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ và giành được
nhiều thắng lợi to lớn ở hầu khắp các châu lục, làm sụp đổ từng mảng lớn hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
- Trước tình hình đó, đầu năm 1961, sau khi đắc cử Tổng thống Mỹ, G.Ken-nơ-đi
đã đề ra chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” và tiến hành chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam. Đây là một hình thức chiến tranh thực dân
mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố
vẫn Mỹ, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ, nhằm
chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân miền Nam.
2. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ:
- Âm mưu chiến lược chiến tranh đặc biệt nhằm thực hiện âm mưu chiến lược
chung của Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975 là: Chia cắt lâu dài
nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á; làm bàn đạp tấn công ra miền Bắc và
ngăn chặn những ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống khu vực Đông Nam Á.
Mặt khác, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam còn nhằm
rút kinh nghiệm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. - Thủ đoạn:
+ Ra sức xây dựng quân đội Sài Gòn do Mỹ trực tiếp huấn luyện, trang bị, tổ chức
và chỉ huy để làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến trường, âm mưu “Dùng
người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Quân đội Sài Gòn có sự chỉ huy của hệ
thống cố vấn Mỹ và sự yểm trở của hỏa lực Mỹ được trang bị nhiều vũ khí và
phương tiện chiến tranh hiện đại, nhất là các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”.
+ Ra sức dồn dân lập ấp chiến lược (từ 1964 gọi là “ấp Tân sinh”) nhằm thống trị
và bóc lột nhân dân Việt Nam, tách rời nhân dân với phong trào cách mạng; thực
hiện âm mưu “Tát nước bắt cá”. Mỹ và chính quyền Sài Gòn coi “Ấp chiến lược”
là “quốc sách”, là “xương sống” trong chương trình bình định. Kế hoạch của Mỹ là
xây dựng 16000 “Ấp chiến lược” ở các vùng nông thôn ở miền Nam Việt Nam.
+ Tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự để nuôi dưỡng bộ máy chính quyền và
quân đội Sài Gòn; lập bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (MACB) năm
1962; xây dựng các đô thị làm hậu cứ của “Chiến tranh đặc biệt”.
+ Mỹ triển khai thực hiện liên tiếp hai kế hoạch: Kế hoạch Xtalay – Taylo (1961 –
1963) nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng và kế hoạch Giônxơn – Mắc
Namara nhằm bình định miền Nam trong vòng 24 tháng (1964 - 1965).
Câu 6: Tóm tắt thắng lợi của quân dân miền Nam trong giai đoạn 1961 – 1965
và nêu ý nghĩa của những thắng lợi đó.
1. Những thắng lợi của quân dân miền Nam trong giai đoạn 1961 – 1965:
- Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân Tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam do Đảng lãnh đạo, quân dân miền Nam Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh
kết hợp ba mũi tiến công (quân sự, chính trị, binh vận), kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh quân sự, kết hợp ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn - đồng
bằng và đô thị) nhằm chống lại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
- Trên mặt trận quân sự:
+ Trong những năm 1961 – 1962 quân Giải phóng đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của
địch, tiêu diệt nhiều đồn bốt lẻ của chúng. Đặc biệt là giành thắng lợi lớn trong trận
Ấp Bắc (tháng 1/ 1963), đập tan cuộc càn quét lớn của quân đội Sài Gòn; chứng tỏ
khả năng đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; làm dấy
lên ở miền Nam phong trào: “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
+ Trong Đông – Xuân (1964 – 1965), kết hợp đẩy mạnh với nổi dậy của quần
chúng, Quân Giải phóng Miền Nam liên tiếp giành thắng lợi trong các chiến dịch
Bình Giã (Bà Rịa), An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên
Hòa), gây cho quân đội Sài Gòn những thiệt hại nặng nề và đứng trước nguy cơ tan rã.
- Trên mặt trận phá “Ấp chiến lược” và chống bình định:
+ Phong trào phá “Ấp chiến lược” diễn ra gay go, quyết liệt với hàng chục triệu
người tham gia, nhân dân với quyết tâm “Một tấc không đi, một ly không rời”,
kiên quyết bám đất giữ làng, nhiều nơi nhân dân biến “Ấp chiến lược” thành các làng chiến đấu.
+ Kết quả: Chính quyền Sài Gòn chỉ lập được 1/2 trên tổng số 16 000 ấp. Đến cuối
năm 1962, cách mạng kiểm soát trên nửa tổng số ấp với gần 70% nông dân. Phong
trào phá “Ấp chiến lược” tiếp tục được đẩy mạnh. Tháng 6/1965, địch chỉ còn
kiểm soát được 2200 ấp. “Ấp chiến lược” – “xương sống” của “Chiến tranh đặc
biệt” bị phá vỡ về cơ bản. Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, chính quyền
các cấp được thành lập, ruộng đất của Việt Nam bị tịch thu, chia cho dân cày nghèo.
- Phong trào đấu tranh chính trị:
+ Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đô thị, nhất là các thành phố lớn
như: Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng có bước phát triển, nổi bật là phong trào đấu tranh
của tín đồ Phật giáo, “đội quân Tóc Dài” chống sự đàn áp của chính quyền Sài
Gòn, làm rối loạn ở chính “sào huyệt” của kẻ thù. 2. Ý nghĩa:
+ Giữ vững và phát triển thế tiến công chiến lược của cách mạng miền Nam được
xác lập từ phong trào Đồng Khởi.
+ Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược lần thứ hai của quân dân miền Nam, đồng
thời cũng là thất bại có ý nghĩa chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn.
+ Những thắng lợi trên đã thể hiện ý chí chiến đấu của quân dân miền Nam trong
công cuộc chống Mỹ, cứu nước…..
Câu 7: Trình bày cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam lần lượt đánh bại
các kế hoạch chiến tranh của đế quốc Mỹ trong giai đoạn 1961 – 1965.
- Trong những năm 1961 – 1965, quân dân miền Nam Việt Nam đã đoàn kết đánh
bại hai kế hoạch chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kế hoạch Xtalay –
Taylo (1961 – 1963) và kế hoạch Giônxơn – Mắc Namara (1964 – 1965).
1. Kế hoạch Xtalay – Taylo (1961 – 1963):
- Từ năm 1961, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt
Nam với kế hoạch Xtalay – Taylo nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng do Đảng lãnh
đạo, quân dân miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn,
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp ba mũi giáp công (quân
sự, chính trị và binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn – đồng
bằng và đô thị). Trung ương Cục miền Nam được thành lập (1/ 1961) thay cho xứ
Ủy Nam Bộ cũ. Các lực lượng vũ trang Cách mạng thống nhất thành Quân giải
phóng miền Nam (tháng 2/1961).
- Trên mặt trận quân sự:
+ Trong những năm 1961 – 1962, quân giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc tiến công
đồng thời tiêu diệt nhiều đồ mốt lẻ của địch. Năm 1962, quân ta đánh tan nhiều
cuộc càn quét lớn của địch vào Chiến Khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh, Bắc và Tây Bắc Sài Gòn.
+ Ngày 2/1/1963, hơn 2.000 quân Sài Gòn tiến công vào Ấp Bắc, có hỏa lực mạnh
và sử dụng các chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận”. Tuy lực lượng của
Quân Giải phóng ảnh bằng 1/10 đối phương nhưng đã bẻ gãy nhiều mũi tấn công
của chúng; loại khỏi vòng chiến đấu 450 địch (trong đó có 19 của vấn Mỹ), bắn rơi
8 máy bay, bắn cháy 13 xe bọc thép. Chiến thắng Ấp Bắc đã đánh dấu bước trưởng
thành của lực lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam, chứng tỏ Quân dân miền Nam
hoàn toàn có khả năng đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Sau trận Ấp Bắc, phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” dấy lên khắp miền Nam.
- Trên mặt trận chống “bình định”: Cuộc đấu tranh chống và phá “Ấp chiến lược”
diễn ra gay go, quyết liệt; phá “Ấp chiến lược” đi đôi với xây dựng làng chiến đấu.
Đến cuối năm 1962, cách mạng kiểm soát trên nửa tổng số ấp với gần 70% dân.
- Phong trào đấu tranh chính trị: Trong các đô thị, nhất là ở các thành phố lớn như
Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng có những bước phát triển mạnh mẽ, nổi bật nhất là phong
trào đấu tranh của “đội quân Tóc Dài”, của các tín đồ Phật giáo chống lại sự đàn áp
của chính quyền Sài Gòn.
- Bị thất bại trong mọi thủ đoạn, nội bộ Mỹ và chính quyền Sài Gòn lục đục, dẫn
đến cuộc đảo chính ngày1/11/1963 lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ đây,
chính quyền Sài Gòn lâm vào những khủng hoảng triền miên.
2. Kế hoạch Giônxơn – Mắc Namara (1964 – 1965)
- Bị thất bại trong kế hoạch Xtalay – Taylo, Mỹ thực hiện kế hoạch Giônxơn – Mắc
Namara (1964 – 1965), tăng cường viện trợ quân sự nhằm ổn định chính quyền Sài
Gòn, bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm 1964-1965.
- Trên mặt trận chống “bình định”: Phong trào chống, phá “Ấp chiến lược” (từ năm
1964 gọi là “ấp Tân sinh” tiếp tục phát triển mạnh. Đến cuối năm 1964, địch chỉ
còn kiểm soát được 3300 ấp (1/5 số học dự kiến). Đến tháng 6/ 1965, giảm xuống
mức thấp nhất chỉ còn kiểm soát 2200 ấp. “Xương sống” của “Chiến tranh đặc
biệt” bị bẻ gãy, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, trở thành hậu phương
trực tiếp cho cách mạng miền Nam.
- Phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển ở các đô thị, nhất là các đô thị
lớn như: Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng,…..
- Trên mặt trận quân sự:
+ Trong Đông Xuân 1964 – 1965, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến
công với trận đánh mở màn vào Bình Giã (Bà Rịa) ngày 2/12/1964. Trong hơn một
tháng, quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.700 định (trong đó có 60
cố vấn Mỹ), tịch thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.
+ Thừa thắng, Quân giải phóng và quân dân miền Nam tiếp tục đẩy mạnh các cuộc
tiến công trong Xuân – hè 1965 và giành được những thắng lợi to lớn trong các
chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa).
Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc thiệt hại nặng. Quân đội Sài Gòn –
lực lượng nòng cốt của “Chiến tranh đặc biệt” không còn đủ sức đương đầu với
các cuộc tiến công lớn của quân ta và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ phá sản hoàn toàn.
Câu 8: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam Việt Nam ra đời
trong hoàn cảnh nào? Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong việc thực hiện chiến
lược này (1965 – 1968).
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Cuối năm 1964 đầu năm 1965, với những thất bại liên tiếp trên mặt trận quân sự
và những rối ren về chính trị ở miền Nam, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đã thất bại hoàn toàn.
- Trước tình hình đó, Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam, chuyển thực
chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Đây là một loại hình chiến
tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Mỹ, quân đồng minh
của Mỹ (Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Australia và New Zealand) và quân đội Sài Gòn.
2. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ:
- Âm mưu: Mỹ tiếp tục thực hiện âm chiến lược lâu dài, xuyên suốt là: Chia cắt lâu
dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á…. - Thủ đoạn:
+ Mỹ ồ ạt đổ quân viễn chinh, quân đội các nước đồng minh của Mỹ cùng phương
tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam (trong đó quân Mỹ lúc cao nhất là hơn nửa
triệu, quân Đồng minh của Mỹ gồm hơn 7 vạn quân). Mỹ âm mưu nhanh chóng tạo
ra những ưu thế về binh lực và hỏa lực để có thể áp đảo quân chủ lực của cách mạng.
+ Triển khai đồng thời hai chiến lược: “tìm diệt” và “bình định”, cố giành lại thế
chủ động trên chiến trường. Dựa vào những ưu thế về quân sự, với quân số đông
vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã mở ngay cuộc hành
quân vào căn cứ quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).
+ Mỹ mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô Đông – Xuân 1965 – 1966 và
1966 – 1967 bằng hàng loạt các cuộc hành quân vùng “Đất thánh Việt Cộng”.
+ Tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng lực lượng Hải quân và
Không quân, nhằm tiêu hủy lực lượng kinh tế, quốc phòng phòng miền Bắc; ngăn
chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; đồng
thời làm lung lay ý chí quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Câu 9: Trình bày những thắng lợi của quân dân Việt Nam trong cuộc chiến
đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965 – 1968).
1. Trên mặt trận quân sự:
- Những thắng lợi mở đầu:
+ Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là chống lại cuộc chiến tranh
xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh và vũ khí
hiện đại của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Với tinh thần “Không có gì
quý hơn độc lập tự do” và ý chí “Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”,
được sự phối hợp và chi viện của miền Bắc, quân dân miền Nam đã anh dũng
chiến đấu với các thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam) và Vạn Tường (Quảng Ngãi).
+ Ngày 18/8/1965, quân Mỹ mở cuộc hành quân vào Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Sau gần một ngày chiến đấu, quân chủ lực và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được
cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên. Vạn Tường được coi là
“Ấp Bắc” đối với quân Mỹ và quân đồng minh, chứng tỏ khả năng Quân giải
phóng đánh thắng được chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và mở đầu cho cao trào
“Tìm Mỹ mà đánh, lùng Ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam.
- Đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của giặc Mỹ:
+ Đập tan cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất Đông Xuân 1965 – 1966 với 450
cuộc hành quân trong đó có 5 cuộc hành quân “Tìm diệt” lớn của địch nhằm vào
hai hướng chính ở Đông Nam Bộ và liên khu V.
+ Đập tan cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ hai trong Đông Xuân 1966 –
1967 với 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “Tìm diệt” và
“bình định”; lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào căn cứ Dương
Minh Châu (Bắc Tây Ninh) nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não cách mạng.
2. Đấu tranh chính trị ở các đô thị và chống, phá “Ấp chiến lược” ở nông thôn:
- Ở hầu khắp các vùng nông thôn, quần chúng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ
trang đứng lên chống chính sách kìm kẹp của địch, phá “Ấp chiến lược”…
- Ở các đô thị, các tầng lớp nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, phật tử, binh sĩ
Sài Gòn,… đấu tranh chống Mỹ đòi chúng phải rút về nước, đòi tự do dân chủ,…
=> Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đến cuối năm 1967, Mặt trận
có cơ quan thường trực ở hầu khắp các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước
thuộc thế giới thứ ba. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước,12 tổ chức quốc tế, 5
tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
3. Cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968:
- Trên cơ sở nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho Cách mạng sau hai
mùa khô, đồng thời lợi dụng những mâu thuẫn ở Mỹ trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 1968, Ban chấp hành trung ương Đảng có chủ trương mở cuộc tiến công và
nổi dậy trên toàn miền Nam. Trọng tâm là các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận
lực lượng quân Mỹ và quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân
đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mỹ phải đàm phán rút về nước.
- Cuộc tấn công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân
chủ lực và hầu hết các đô thị trong đêm 30, rạng sáng 31/1/1968 (Tết Mậu Thân).
Quân dân miền Nam đồng thời tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị lớn
64/242 quận, lị; ở hầu khắp các “Ấp chiến lược” ở vùng nông thôn.
- Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã có thêm nhiều lực lượng mới chống Mỹ,
chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu
nước được mở rộng. Tổ chức liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình
ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam đại diện cho tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc
tiến bộ ở các thành ở thành thị được thành lập. - Ý nghĩa lịch sử:
+ Mặc dù có những tổn thất và hạn chế nhất định, song cuộc tổng tiến công và nổi
dậy đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ
hóa” chiến tranh Việt Nam (tức là thừa nhận thất bại của chiến lược “chiến tranh
cục bộ”); chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận
ngồi vào bàn đàm phán ở Paris để bàn về việc chấm dứt chiến tranh.
+ Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 đã mở ra bước ngoặt
cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân ta….
Câu9: Nêu âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc từ năm 1965 đến năm 1968. 1. Âm mưu:
- Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam
- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. 2. Thủ đoạn:
- Ngày 5/8/1964, sau khi dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, Mỹ cho máy bay ném
bom bắn phá một số nơi trên miền Bắc. Ngày 7/2/1965, lấy cớ trả đũa việc quân
giải phóng miền Nam tiến vào doanh trại Mỹ ở Pleiku, Mỹ chính thức gây ra cuộc
chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc.
- Không quân, hải quân Mỹ đánh vào các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao
thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thủy lợi, các khu đông dân,
… chúng còn ném bom xuống cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền chùa, nhà thờ,…
- Máy bay, tàu chiến Mỹ ném bom phá hoại mọi lúc, mọi nơi, mọi thời tiết với
cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày có 300 lượt máy bay Mỹ đi gây tội
ác với 1.600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá.
Câu 10: Trình bày những hoạt động của quân dân miền Bắc trong những năm
1965-1968 nhằm chống lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của để quốc
Mĩ. Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất.
1. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất:
- Chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, thực hiện quân sự hóa toàn
dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh, triệt để sơ tán phân tán để
tránh thiệt hại về người và của. Quân dân Miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Hàng loạt phong trào thi đua yêu nước xuất hiện: “Tay cày, tay súng” trong nông
dân; “Tay búa, tay súng” trong công nhân; “Ba sẵn sàng” trong thanh niên; “Ba
đảm đang” trong phụ nữ,…
- Triển khai mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bao
gồm mọi lực lượng: Phòng không, Không quân, hải quân với vũ khí, phương tiện
chiến tranh hiện đại, của cả lực lượng tự vệ dân quân và toàn dân với vũ khí thông
thường. Địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu.
- Kết quả: trong hơn 4 năm (5/8/1964 đến 1/11/1968) miền Bắc bắn rơi, phá hủy
3.243 máy bay, trong đó có 6 máy bay B52, 3 F111; bắn cháy, bắn chìm 143 tàu
chiến. Ngày 1/11/1968: Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc.
2. Đẩy mạnh sản xuất trong điều kiện có chiến tranh:
- Trong nông nghiệp: diện tích canh tác được mở rộng, tăng năng suất lao động,
ngày càng nhiều có hợp tác xã, địa phương đạt “Ba mục tiêu”: 5 tấn thóc, 2 đầu
lợn, một lao động trên một hecta gieo trồng trong một năm.
- Trong công nghiệp: năng lực sản xuất ở mọi ngành được giữ vững. Các cơ sở
công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nhân địa phương và công
nghiệp quốc phòng đều phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh.
- Giao thông vận tải: Một trong những trọng điểm bắn pháo của địch được quân
và dân đảm bảo thông suốt.
3. Làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn:
- Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc luôn
hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu: “Mỗi người làm
việc bằng hai”; thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
- Trên các tuyến đường vận chuyển chiến lược từ Bắc vào Nam (đường Hồ Chí
Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển) người và của không ngừng được
chuyển ra tiền tuyến kể cả mùa mưa và mùa khô, kể cả ngày lẫn đêm.
- Kết quả: Trong 4 năm (từ 1965 đến 1968) miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 30
vạn cán bộ bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn
hóa tại các vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang,
xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung,
sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam trong 4 năm đã tăng 10 lần
so với giai đoạn trước.
4. Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu:
- Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ nhằm bảo vệ sản xuất, bảo vệ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, phối
hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam.
- Nhiệm vụ sản xuất nhằm bảo đảm đời sống nhân dân đủ sức đánh thắng cuộc
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam.
- Chiến đấu và sản xuất ở miền Bắc là bộ phận của cuộc chiến tranh giải phóng và
miền Nam thống nhất đất nước.
Câu 11: Trình bày hoàn cảnh ra đời, âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”?
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh
xâm lược miền Nam Việt Nam.
- Đầu năm 1969, Ních-xơn đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế” thay cho
chiến lược “Phản ứng linh hoạt” của Kennơđi và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm
lược thực dân mới; thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam
và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với chiến lược “Đông Dương hóa
chiến tranh”. 2. Âm mưu:
- Tiếp tục thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, thực hiện
âm mưu chiến lược là chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á. 3. Thủ đoạn:
- Ra sức xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến
trường, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần Mỹ và vẫn do Mỹ chỉ huy
bằng hệ thống cố vấn.
- Rút dần quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi Miền Nam để giảm xương máu
người Mỹ trên chiến trường, đồng thời tăng nhanh lực lượng của quân đội Sài Gòn,
nhằm tận dụng xương máu của người Việt Nam. Thực chất là tiếp tục thực hiện âm
mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”.
- Tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự để nuôi dưỡng chính quyền và quân đội
Sài Gòn làm công cụ để tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân mới
- Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương; quân đội Sài Gòn được coi như
một lực lượng xung kích trong các cuộc hành quân xâm lược Campuchia (1970),
tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu “Dùng người Đông
Dương đánh người Đông Dương”.
- Dùng thủ đoạn ngoại giao: lợi dụng mâu thuẫn Trung-Xô, thỏa hiệp với Trung
Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với
công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Câu 12: Cuộc kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và
“Đông Dương hóa chiến tranh” của nhân dân ba nước Đông Dương diễn ra
trong hoàn cảnh lịch sử nào? Trình bày những thắng lợi của quân dân ba
nước trong những năm 1969 – 1973.
1. Hoàn cảnh lịch sử:
- Trong giai đoạn 1969-1973, cuộc chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của nhân dân Việt Nam Lào và
Campuchia là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường và
mở rộng ra toàn Đông Dương; vừa chiến đấu trên chiến trường, vừa đấu tranh trên bàn đàm phán.
- 18/3/1970: Mỹ đã chỉ đạo tay sai làm cuộc đảo chính lật đổ chính phủ trung lập Xi-ha-núc ở Campuchia.
- Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đang trên
đà thắng lợi, 2/91/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Thực hiện di chúc của
Người, nhân dân hai miền đã nêu cao quyết tâm, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Trong bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam đã cùng với nhân dân hai nước
Campuchia và Lào giành được những thắng lợi to lớn trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.
2. Thắng lợi tiêu biểu:
a) Trên mặt trận chính trị và ngoại giao:
- 6/6/1969: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được
thành lập. Đây là Chính phủ hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam. Vừa mới
ra đời, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận trong đó có 21
nước đặt quan hệ ngoại giao.
- Tháng 4 /1970: Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia diễn ra
thành công. Bản tuyên bố chung của Hội nghị là một cương lĩnh đấu tranh, một
Hiến Chương về tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trong cuộc
chiến đấu chống kẻ thù chung.
- Cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra ở Paris từ ngày 13/5/1968 đến
25/1/1969 phát triển thành cuộc đàm phán bốn bên: Việt Nam, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 27/1/1973, Hiệp định
Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Nhân
dân Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ “đánh cho Mĩ cút”.
b) Đấu tranh chính trị ở đô thị và chống bình định ở nông thôn:
- Ở hầu khắp các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp
nhân dân nổ ra liên tục, đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng,… Phong trào học sinh
sinh viên nổ ra rầm rộ, thu hút đông đảo giới trẻ tham gia.
- Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô thị, phong trào khắp nơi có
phong trào của quần chúng ảnh nổi dậy chống “bình định”. Đến đầu năm 1971,
cách mạng giành quyền làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân. Trong vùng giải
phóng, chính quyền cách mạng đã cấp ruộng cho nông dân, các hoạt động sản xuất
nông nghiệp, thủ công nghiệp được đẩy mạnh.
c) Trên mặt trận quân sự:
- Với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”,
Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất. Do đó, thắng lợi giành
được ở chiến trường mỗi nước là thắng lợi chung, thể hiện tình đoàn kết chiến đấu
của ba dân tộc ở Đông Dương.
- Từ 30/4 đến 30/6/1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp với quân đội
Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mỹ và
quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17000 địch, giải phóng nhiều vùng đất
đai rộng lớn với 4,5 triệu dân.
- Từ 12/2 đến 23/3/1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp với quân đội Lào đập
tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ra vùng Đường 9 – Nam Lào của 4,5 vạn quân
Mỹ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 địch, giữ vững hành
lang chiến lược cách mạng Đông Dương.
- Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 mở đầu bằng cuộc tiến công vào Quảng Trị
rồi phát triển rộng khắp ra khắp chiến trường miền Nam mở ra “bước ngoặt” cho
cuộc kháng chiến, buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược
(tức thừa nhận thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”).
=> Những thắng lợi nói trên của quân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã
làm thất bại căn bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa
chiến tranh” của đế quốc Mỹ; chứng tỏ sự phát triển vững chắc và toàn diện của
cách mạng Việt Nam, khẳng định tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước
Đông Dương là nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Câu 13: Thắng lợi nào của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954 – 1975) đã buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam? Tóm tắt hoàn cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả
và ý nghĩa của chiến thắng đó?
1. Khẳng định: Chiến thắng của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954 – 1975) buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam là: Cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
2. Hoàn cảnh lịch sử:
- Trong hai năm 1970-1971, nhân dân ta đã phối hợp cùng với nhân dân hai nước
Campuchia và Lào giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận
quân sự và chính trị: ta đã tổ chức thành công hội nghị cấp cao ba nước Đông
Dương (4/1970); đập tan các cuộc hành quân xâm lược của Mỹ và quân đội Sài
Gòn ở Campuchia (6/1970) và Lào (3/1971).
- Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô khắp nơi đều có các phong
trào của quần chúng nổi dậy chống ‘bình định”, phá “Âp chiến lược”. Đến đầu
năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân. Vùng
giải phóng ngày càng được mở rộng, nhaan cách mạng miền Nam có những điều
kiện và thời cơ thuận lợi cho cuộc tiến công chiến lược mới. 3. Diễn biến:
- Cuộc tấn công chiến lược bắt đầu từ ngày 30/3 đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng
Trị làm hướng tiến công chủ yếu rồi phát triển ra rộng khắp miền Nam, kéo dài trong năm 1972.
- Quân dân miền Nam đã tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn trên hầu
khắp các địa bàn chiến lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngắn, đến tháng 6/
1972, quân ta đã chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch ở Quảng Trị, Tây
Nguyên, và Đông Nam Bộ, đã khỏi vòng chiến đấu hơn 220 vạn địch, giải phóng
nhiều vùng đất đai rộng lớn.
- Đứng trước nguy cơ thất bại, Mỹ vội vàng tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến
tranh, tăng cường dùng hỏa lực, không quân đánh phá các vùng giải phóng ở miền
Nam đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên bầu trời miền Bắc (6/4/1972). 4. Ý nghĩa:
- Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn mạnh mẽ vào quân đội Sài
Gòn và chương trình “bình định” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc
Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược, tức là thừa nhận thất bại
của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
- Thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu quyết chiến quyết thắng quân xâm
lược của nhân dân Việt Nam, khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn của
Đảng, đưa nhân dân ta một bước nữa tiến gần hơn đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Câu hỏi viết bài: Phân tích những điều kiện bùng nổ cuộc tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945? Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Đông Dương và
Tổng bộ Việt Minh đã có những chủ trương và biện pháp gì để lãnh đạo cuộc
tổng khởi nghĩa giành chính quyền?
Dl: 11h59’ ngày 20/05/2021 (Thứ Năm).