-
Thông tin
-
Quiz
Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử Đảng(MC) 880 tài liệu
Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu
Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng(MC) 880 tài liệu
Trường: Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:













Tài liệu khác của Đại học Nguyễn Tất Thành
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45650917
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
RA ĐỜI: l- Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa:
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền
thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Từ
đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhòm ngó,
xâm lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo. Nǎm 1858, đế
quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu
hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước Patơnốt,
hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế
quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam
có nhiều thay đổi. Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành
đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi
hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi
lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên
bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa
thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước
An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục,
chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy.
Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết,
nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột
thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành
phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"... Về kinh tế tư bản
Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành trực tiếp
phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền
công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành
thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt. Bên cạnh sự
bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp còn duy trì chế độ
phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức thuế khoá rất nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là
nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân
tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng
đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta. Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên,
đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất
phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời:
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định
trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai cấp
này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền
lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo
các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục triều đình
phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông dân, vừa đấu
tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước. Một bộ phận nhỏ chuyển
sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong
thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của
tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các
cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận
khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực
kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư
sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ
không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong lOMoAR cPSD| 45650917
điều kiện nhất định. Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong
kiến và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập,
tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được
khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí
thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các
cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng
đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là
sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông
dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn
để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân Việt
Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp
công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ
sở công nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta.
Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10
vạn người và trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929),
số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số
người làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô
sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến
hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông
dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột
của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan
thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển
trong quá trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở
xã hội cho chủ nghĩa công đoàn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong,
do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hoá, kỹ thuật
còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống
tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân
Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế
cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt
Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến
tự giác. Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm
1920 đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi công
của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm
chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang đàn áp cách mạng
Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả.
Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành,
phát triển lên trình độ tự giác.
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện: Lịch
sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này đã chứng
kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm
lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một đường lối cứu
nước đúng đắn. Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp
phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh
xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới,
một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở thành
phản động. Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ
chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này
đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng
phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa
Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi. Khi các phong trào trên lOMoAR cPSD| 45650917
chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc. Sau khi từng
bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, nhiều người yêu
nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự nghiệp
giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng
tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)... Vào đâu thế
kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước đế quốc chủ nghĩa, đã
đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ
ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều
đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng
đến phong trào yêu nước Việt Nam. ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt
Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân
giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đường phát triển của Nhật
Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ
Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp
theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các
cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm
cổ động tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích
cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v.. Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng
chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh
tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động
chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong".
Đó là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong
thư "thất trảm" gửi vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau
mau quay đâu lại mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được
trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này". Phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hướng
tư tưởng tư sản. Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một
số tổ chức yêu nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907),
hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường
lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao
động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong những người
đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào
cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển
mới trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức toàn thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng
cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920),
sự kiện lịch sử này không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Pháp, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp. Đồng thời, với những chuyển
biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu có những chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa
bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (6-
1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội
lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp
(1920). Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-
1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu
sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu (Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu
bước chuyển biến mới về chất của phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 4 nǎm 1921,
trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Người
Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm,
khi thời cơ đến". Đúng như nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920
trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những
đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp lOMoAR cPSD| 45650917
thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân ngày càng có tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.
ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đoàn địa chủ "tư sản
hoá". Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc
Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm
Quỳnh đã bộc lộ chân tướng ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của
nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít tiếng vang. Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-
1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng tư sản, nhưng động lực của nó là những
người tiểu tư sản chứ không phải do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong
trào này là nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt
thanh niên đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của
Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân
Việt cách mạng đảng (1926-1930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
(19251929), Việt Nam quốc dân đảng (1925-1930) v.v... Những tổ chức yêu nước cách
mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lòng
yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch
ra được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao
quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến chính
thể". Tân Việt cách mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa thấy vị
trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương chống đế quốc,
chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên
(Trung Quốc). Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế quốc,
nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách mạng tháng
Mười Nga, nên không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân
lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ mới để đi đến xoá bỏ
mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức này cũng không thấy
hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức được vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết là nông dân trong
cách mạng. Bởi những hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể
xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn. Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn
gồm những người trí thức, tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, sớm có khuynh
hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 19261927 đã chịu ảnh hưởng
về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Cuộc đấu tranh về ý thức
hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và các tổ
chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt
Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II- ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐẢNG: l- Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu
lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ,
Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân
dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa... Dưới ánh sáng Cách mạng
tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc
đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng lOMoAR cPSD| 45650917
của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập
Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết:
"Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ.
Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu
tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả
những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng
và lập trường chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Từ đó Người xác định con đường
giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai cấp vô sản mới thực sự giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp cua chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới . Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc
đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào giải phóng dân
tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Cuối nǎm 1921, tại
Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự
thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản
Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu
về Đông Dương. Với cương vị này, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục và giới
thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các nước thuộc địa ở châu á
châu Phi... Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với
một số chiến sĩ cách mạng ở các nước Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc,
Đahômây v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa. ở Pari, trong đó Hội người Việt Nam yêu
nước ở Pháp làm nòng cốt. Thông qua tổ chức này và báo Người cùng khổ, diễn đàn của
các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời
tình hình các nước thuộc địa đã đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà
đồng chí Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Người còn viết nhiều
bài đǎng trên các báo Nhân đạo (L'humanité), cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản
Pháp, Đời sống thợ thuyền (La Vie Ouvrière), tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp chí
Cộng sản (La Revue communiste), cơ quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết
bài viết của Người đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân. Nǎm 1925, được sự giúp đỡ
của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí
Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan
điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể
hiện trong tác phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới
những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa.
Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ
thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật
chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp
công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông
tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản". Bản
án chế đô thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc tịch" của
một số người mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời đề cao tinh thần tự lực, tự cường,
tự mình giải phóng cho mình: "công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em" và hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con
đường cách mạng của Quốc tế cộng sản. Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận
đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45650917
Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta, trước hết là
những người trí thức tiểu tư sản yêu nước, tiến bộ đã hướng về và tiếp thụ chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để
tham dự Hội nghị nông dân quốc tế tân thứ nhất (10-1923); đồng thời trực tiếp học tập,
nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin. Ngày 17-6-
1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ
V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí còn tham gia các đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc
tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí
Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm của mình về vai trò lịch sử của giai cấp
vô sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng
vô sản ở chính quốc và nêu rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối nát này trên toàn thế giới.
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng:
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản,
trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng
Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho
một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng
Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hôi liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông. Tháng nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành
lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội, trong đó có tổ chức trung kiên là cộng
sản đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn
bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam. Người đã trực
tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách mạng. Trong số này,
nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê
Hông Phong, Hà Huy Tập, v.v..), một số được cử Vào học quân sự ở trường Hoàng Phố
(Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn phần lớn đưa về nước hoạt
động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Đầu nǎm 1927,
cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở
Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông
xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng
cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mang Việt Nam. Đường cách mệnh đề cập đầu
tiên đến vấn đề tư cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ phải vị công vong tu, nói thì
phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng tham muốn về vật chất,... hy sinh,... giữ bí
mật,... phục tùng đoàn thể v.v.. Tác phẩm nêu ra ba loai tư tưởng về cách mạng và chia ra
hai thứ cách mạng là "dân tộc cách mạng" và "thế giới cách mạng", rồi khẳng định tuy có
khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau". "Tất cả dân cày, người
thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để
đạp đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm
cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mệnh". Tác phẩm phân tích những hạn chế của
cách mạng tư sản ở Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng
Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để. Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của
cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ
động lực và lực lượng cách mạng: "công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông". Trong khi kêu gọi sự đồng
tâm, nhất trí làm cách mạng, giải phóng dân tộc, tác phẩm đã phê phán hành động ám sát
cá nhân và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động mà không
bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường. Quần chúng
một khi đã được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch: "dân
khí mạnh thì quân lính nào súng ống nào cũng không chống lại". Đường cách mệnh chỉ rõ
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm còn nhấn mạnh ý
thức tự lực tự cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước. Đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không lOMoAR cPSD| 45650917
thụ động chờ đợi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng. Người viết:
"An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công
nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" . Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng
đến thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" Tác phẩm đã giới thiệu các tổ
chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác và hướng nhân dân ta tham gia các tổ
chức đó. Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của
dân An Nam". Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách
mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập
Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội:
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời
sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công
nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh,
hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ
chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì phong trào công nhân đã
có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm
vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn. Phản
ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng
kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười
Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân
Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có
tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí
Hội một cách sâu rộng. Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ
chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà máy xe
lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải Phòng, công hội nhà
máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm
1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng công hội
Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và
phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong
việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong trào công nhân. Thực tế
lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông
dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và
đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và
đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối
cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam thanh niên cách mang
đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa" "Đất bồi, đất hoang về dân cày.
Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền",
"miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu,
miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể
cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trương giải phóng dân tộc đều không có chủ trương
đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và nông dân. Đánh giá sự trưởng thành của phong
trào công nông trong những nǎm 19281929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của
Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng
ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng
hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công
trong nǎm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong
nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành
trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự lOMoAR cPSD| 45650917
đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải là chịu
ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức
tiểu tư sản Việt Nam. Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời
một đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
4. Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng
cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành
lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có
những tiền đề nhất định. Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn
Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành
lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng. Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929, tại
Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến
nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản
không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản.
Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại số nhà
316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản Đảng, cử ra Ban
chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh,
Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên Vǎn Tuân; thông
qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức
đảng và các đoàn thể quần chúng. Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách
mạng đông chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn
Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Vǎn Đồng đã họp bàn việc
thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên.
Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung
Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng
Kông (Trung Quốc). Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành
lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở đường Bônác Philippin Sài Gòn
(nay là góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã
cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên
Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần
Liêm làm bí thư. Sau Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng
viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng
1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều,
Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại
hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dương cộng
sản liên đoàn ra đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương. Đông Dương cộng sản
Đảng và An Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh
giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát
triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh
hướng biệt phái, tiểu tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hai đảng
đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất
được. Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải
sớm khắc phục hiện tượng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiến lên. lOMoAR cPSD| 45650917
III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG:
1- Thống nhất các tổ chức cộng sản:
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi
thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và
tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một đảng cách
mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một
đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc tế
cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần tử
cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa thu nǎm
1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên. Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp
nhất được tiến hành tại nhà một công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng
(Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và
Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu và Châu Vǎn
Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của đồng
chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản. Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các
đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất
các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt
Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội nghị
còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và
Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong
cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn
thể quần chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng
sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế
quốc)v.v.. Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể
thức cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông Dương
cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh
nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc
của Hội nghị hợp nhất. Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này,
về sau đồng chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất
đã viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm cho
tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể
nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng
tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng tôi mong ước. Đêm ấy về nhà,
chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí
đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở
cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới. Lâm
thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định và Ban chấp hành trung ương lâm thời được
thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc,
Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung
ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng
cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản
Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay
mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp
hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của
Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia
nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất
bế mạc, ba tổ chức cộng sản ở
Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa như Đại lOMoAR cPSD| 45650917
hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối xây dựng
Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng
thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng
đắn là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục.
Đường lối của Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng,
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn
tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng...
2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong
kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho
nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế,
"nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp
nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta
trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay
sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng
ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về
phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đây là một thể loại cách mạng
vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng
chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại cách mạng này, và được gọi
là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chủ yếu lúc
này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của chúng, giành độc lập dân
tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai
cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước
độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau,
ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc
vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách, không phải tiến hành
một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng
Nga và cách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm
vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách
mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ
mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội
công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc
chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công
nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội
dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến)
giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh
của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá
nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế
quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Để bảo
đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương giải lOMoAR cPSD| 45650917
quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có những mâu thuẫn
nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng
chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng.
ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc
và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ
nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các tầng
lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc
giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những
cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản
và những người vô sản một cách công bằng hơn. Trong khi khẳng định "công nông là gốc
cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp" Về
nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải
rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường
thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng
ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của
các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận
này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An
Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản
giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến",
đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết
họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên
tiến, mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và
trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và
hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế
cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí,
chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh
đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm
cho thực hiện xã hội cộng sản". Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân
tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa,
coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở
Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng
sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp
vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm
1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở
Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở trường trung học
Xixôvát (Phnômpênh). Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp
công nhân chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có
Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm
vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Llênin, giải quyết đúng đắn lOMoAR cPSD| 45650917
mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố
dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách
mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh
đạo cách mang. Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới
vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn
ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa
nửa phong kiến. Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã
được mọi người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10
nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua Luận cương chính
trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đông Dương
". Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng
vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-
1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do
xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng
hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam. Tuy bị phê phán, nhưng thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu
tiên. Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh;
(tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết
tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công
nhân không ngừng củng cố và tǎng cường". Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự
phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của
Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều
đảng cộng sản ở khắp các lục địa. ở nước ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng
chính trị độc lập, phong trào yêu nước đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa Mác Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và
quốc gia cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng,
đường lối, phương pháp cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng; đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, xác
lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời mở đâu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên
phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết
định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân
Việt Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự nghiệp
chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành
độc lập, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội. Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ
với phong trào cách mạng các nước, kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc
với quốc tế, dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh
tổng hợp để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh.
Quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết Mác
- Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng
sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người lOMoAR cPSD| 45650917
vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Muốn xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống
nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong
trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông
qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi
hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên
hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong
trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách
mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Những
người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng
hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã
biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết
nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn
dân. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo
phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập. Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng
khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây
của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng
định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.