






Preview text:
Phân tích truyện ngắn Một bữa no
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: Nếu như ở tác phẩm của Ngô Tất
Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân
cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu
mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi. Các tác phẩm của Nam Cao chân thực đến đáng sợ,
thể hiện một ý thức rõ ràng và chính xác trong việc phân tích vấn đề cuộc sống. Ông
tập trung vào sự thật và thực tế, đem đến những hình ảnh sống động về cuộc sống
của người nghèo. Từ "Lão Hạc" đến "Chí Phèo" và "Đời thừa", mỗi tác phẩm đều
nêu lên câu chuyện của những nhân vật và số phận khốn khổ, đối mặt với những
bất công trong xã hội. Trong số các tác phẩm của Nam Cao, "Một bữa no" là một
truyện ngắn đầy cảm động.
Truyện ngắn "Một bữa no" của Nam Cao tập trung vào nhân vật người bà, một
người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Sau khi chồng mất sớm, bà phải
một mình nuôi con. Bà hy vọng rằng con sẽ giúp đỡ bà khi bà già yếu, nhưng con lại
bỏ bà một mình. Con dâu của bà cũng không có lòng nhân từ và ngay sau đám tang
chồng, con dâu cũng rời bỏ bà và để lại đứa cháu nhỏ cho bà nuôi dưỡng. Khi đứa
cháu trưởng thành, nó đã bắt đầu kiếm sống để giúp bà giảm bớt khổ cực. Tuy
nhiên, khi bà mắc bệnh và không đủ kinh phí, bà buộc phải đi làm thuê cho người
khác. Ban đầu có nhiều người muốn thuê bà, nhưng sau một thời gian ngắn, đến
cuộc sống của mình còn không lo được thì ai lại lo cho một bà già bệnh tật như thế
nữa? Bà không có việc gì để làm, bị cái đói và bệnh tật hành hạ, chỉ nhờ vào sự
thương hại của một người chủ cuối cùng để sống qua ngày. Bà không giữ được
phẩm giá của mình và phải xin ăn từ chợ với tấm thân già yếu và mệt mỏi. Cuộc
sống của người phụ nữ bất hạnh này chỉ còn hy vọng vào những bữa cơm mà thiên
hạ thương hại cho mình.
Một lần sau nhiều ngày chịu đói, khi được một bữa ăn, bà không cầm đũa được vì
tay chân run rẩy và không thể nắm thức ăn, khiến thức ăn tràn ra khỏi đĩa. Mặc dù bị
khinh bỉ và chê cười trong suốt bữa ăn, bà không cảm thấy xấu hổ và ăn với niềm
vui. Trong khi mọi người đã kết thúc việc ăn, bà vẫn ngồi miệt mài ăn, như thể chưa
từng có cơ hội được no bụng. Có vẻ như sau quá lâu không được ăn cơm, bà ăn
mãi vẫn không thấy no. Sau bữa ăn hoành tráng đó, bà trở về nhà với bụng căng
tròn đầy, nhưng cảm thấy mệt nhọc. Sau đó, bà bị đau bụng, tiêu chảy và kéo dài
suốt nửa tháng trước khi qua đời. Cái chết đến bất chợt khi bà đã có một bữa ăn no,
nhưng đáng thương và đáng xấu hổ xiết bao! Trong cơn đói khát khốn nạn, bà
không thể giữ được phẩm giá của mình và bà đã ăn một bữa ăn đầy đau khổ, cuối
cùng chết một cách đáng thương. Tác phẩm kết thúc bằng lời răn của bà Thụ đối
với đám con gái, con nuôi và con thụ: "Chúng mày hãy nhìn đi, con người đói đến
mức nào cũng không chết, nhưng khi no một bữa là đủ để chết. Chúng mày hãy biết
điều đó và hãy biết ăn một cách tử tế!...".
Bút pháp của Nam Cao vẫn giữ nguyên tính lạnh lùng nhưng người đọc vẫn thấy
được đầy tình thương. Ông luôn khắc họa nhân vật của mình ở đỉnh cao của cảnh
nghèo khó. Họ là những con người tốt bụng, hòa nhã nhưng bị xã hội phong kiến và
thực dân bóp ép, đàn áp và kết cục của họ đều bi thảm. Đây cũng là một giới hạn
của tác phẩm của ông. Từ Lão Hạc, Chí Phèo đến ông giáo Thứ, họ không chết về
thể xác thì cũng chết về tinh thần. Các truyện của Nam Cao đã lột tả chân thực hiện
thực xã hội thời đó, nhưng vẫn chưa tìm ra con đường hay lối thoát cho người nông
dân và trí thức nghèo khốn khi chưa có ánh sáng của cách mạng. Tác phẩm của
Nam Cao đặt ra những câu hỏi đau đớn về bất công và khốn khổ trong cuộc sống.
Những trang truyện cuối cùng khiến lòng người đọc tràn đầy cảm xúc và dư vị khó
quên. Nó mang đến sự đau lòng cho số phận đáng thương của những người nông
dân trong xã hội phong kiến xưa, cũng như làm tức giận trước sự bất công của
những người có quyền lực, đã đẩy những người tốt bụng vào con đường biến chất.
Không chỉ "Một bữa no", mà còn những câu chuyện khác của Nam Cao đều chạm
đến lòng người như vậy. Các truyện ngắn của ông không sử dụng ngôn từ hoa mỹ,
mà từ nhân vật, hình thức và nội dung câu chuyện đều đơn giản và chân thực.
Chính vì vậy, Nam Cao dẫn dắt người đọc đến sự cảm thông chứ không phải là tình
cảm giả tạo và lấp lánh. Như Nam Cao từng nói trong tác phẩm "Đời thừa" của
mình: Người mạnh không phải là người dùng người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ.
Người mạnh chính là người giúp đỡ người khác trên vai.
Phân tích truyện Một bữa no
Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Các sáng tác của ông trước 1945 đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn
xuôi trên các phương diện: khả năng miêu tả và phân tích tâm lý, khả năng sử dụng
ngôn ngữ nghệ thuật... Đặc biệt, nhà văn được khẳng định là lá cờ đầu của chủ
nghĩa nhân đạo trong Trào lưu văn học Hiện thực phê phán 1930-1945. Thông qua
hai đề tài chính của Nam Cao là người nông dân và người trí thức tiểu tư sản
nghèo. Một bữa no là đề tài về người nông dân.
Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán, chủ nghĩa nhân đạo vừa là thái độ đồng
cảm, xót thương, trân trọng đối với những kiếp người bé nhỏ bị áp bức, bóc lột, vừa
là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, bạo tàn đang đè nén, áp bức con
người. Đối với các nhà văn hiện thực, việc nhìn thấu những khổ đau mà người dân
phải gánh chịu thực ra không quá khó khăn, bởi rất nhiều người trong số họ hoặc
xuất thân từ tầng lớp nhân dân lao động, hoặc đã từng trải qua cảnh sống “chạy
từng bữa”. Điều đó giải thích vì sao ngòi bút của họ hướng hẳn về phía nhân dân
với sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.
Nói đến Ngô Tất Tố cũng vậy. Ấn tượng về một chị Dậu với những phẩm chất tuyệt
vời, đơn thương độc mã chống lại cả xã hội cầm thú xung quanh để bảo vệ gia đình
thân yêu mãi đậm nét trong lòng độc giả. Đồng thời, những kẻ cai trị xấu xa, lòng
lang dạ sói như Nghị Quế, quan phủ, quan cố sẽ không bao giờ thoát khỏi sự
nguyền rủa, căm ghét của bao thế hệ bạn đọc.
So với Ngô Tất Tố, tấm lòng thương yêu những người dân lam lũ của Nguyên Hồng
dường như đa cảm hơn. Có lẽ bởi chính cuộc đời ông đã từng gánh chịu bao đắng
cay, mất mát. Có lẽ bởi ông chính là cậu bé Hồng bất hạnh trong Những ngày thơ
ấu, mất cha, xa mẹ từ khi lên mười. Nhân vật Tám Bính trong tác phẩm Bỉ vỏ của
ông cũng đã khiến bao người phải xót xa. Con đường trở thành nữ quái của cô
nhanh như một giấc mơ, bởi cô còn biết làm gì khác khi luôn bị xã hội rẻ rúng, xua
đuổi, lừa lọc, hãm hại. Song chính Tám Bính, Năm Sài Gòn, những kẻ tưởng chỉ biết
trộm cắp, giết chóc, lại là những người giàu lòng nhân ái hơn cả. Có lẽ, đó chính là
một trong những thông điệp quan trọng mà Nguyên Hồng muốn gửi đến bạn đọc qua tác phẩm này.
Những ngọn cờ tiên phong của chủ nghĩa nhân đạo trong trào lưu văn học hiện thực
phê phán lại chính là người xuất hiện muộn nhất - Nam Cao. Tấm lòng trắc ẩn của
ông được thể hiện kín đáo, trầm lắng nhưng không vì thế mà kém phần sâu sắc.
Tương tự các cây bút cùng thời, Nam Cao thể hiện thái độ trân trọng, xót thương đối
với những số phận đau khổ bị vùi dập như dì Hảo (Dì Hảo), mợ Nhu (Mợ Nhu), lão
Hạc (Lão Hạc), cái Dần (Một đám cưới), người mẹ và những đứa con tội nghiệp (Trẻ
con không được ăn thịt chó), đặc biệt Một bữa no là một bức tranh phản ánh rõ nhất
nỗi khổ cùng cực của người nông dân lúc bấy giờ.
Một bữa no kể về một bà lão chồng mất sớm, cả đời cặm cụi nuôi con. Tưởng lớn
lên nó sẽ là điểm tựa của bà thì nó lại bỏ bà ra đi. Vợ con trai bà sau khi chịu tang
chồng cũng bỏ bà cùng con gái đi tìm hạnh phúc mới. Hai bà cháu nuôi con bảy
năm trời, do quá khó khăn bà bán đứa cháu gái duy nhất cho nhà bà Phó làm con
nuôi. Nhưng sau khi bán cháu gái đi cuộc sống của bà không mấy dễ dàng hơn. Có
tất cả mười đồng bạc thì cải mả cho con trai hết tám đồng, còn hai đồng dành dụm
làm vốn. Ấy vậy mà ông trời cũng không thương bà, năm ngoái ông bắt bà ốm một
trận thập tử nhất sinh. Giờ đây sức khỏe không cho phép bà đi làm việc bế em bé.
Nhưng theo lời bà kể có năm bà đổi năm sáu lần chứ, rồi mỗi lần đổi là một lần
xuống giá, có tháng bà phải ăn bánh đúc chay. Hôm ấy bà ra thăm cái đĩ, nhưng bà
lại bị bà phó thụ chà đạp lên lòng tự trọng của bà. Một bữa no nhất của bà lại chính
là bữa cơm cuối cùng của đời bà.
Câu chuyện là một vấn đề rất bình thường trong xã hội xưa. Dường như đọc từng
chữ, lật từng trang lòng người đọc như trải ra cùng số phận của bà lão. Đến người
già đau yếu như bà mà không có một ai cưu mang giúp đỡ. Nhớ lại tác phẩm Lão
Hạc, một tác phẩm có cùng chủ đề với "Một bữa no" cũng đã nói lên điều đó. Nếu
như lão Hạc chọn cách tự kết thúc đời mình bằng bả chó thì bà lão chọn bữa cơm
no nhất trong đời, đó là hai trong nhiều cái chết đau đớn nhất. Con người ta khi chết
đi có gia đình có bạn bà hàng xóm ở bên, còn bà thì ra đi trong sự đau đớn, tức tưởi
vô cùng cô đơn, cái chết đó để lại nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả. Ai trong số
chúng ta đều có quyền lựa chọn cuộc sống của mình, không ai muốn nghèo khổ
nhưng xã hội bấy giờ đã nhấn chìm mọi hi vọng của con người. Đó là một khoảng
tối mà dân tộc ta đã phải chịu đựng trong suốt một thời gian dài. Những con người
đó đáng ra có thể sống bình yên bên người thân, không phải chết đau đớn như vậy.
Hình ảnh người bà cũng như lão Hạc và rất nhiều nhân vật khác trong tuyển tập
truyện của Nam Cao đã phản ánh sự cơ cực, cùng khổ của nhân dân.
Đọc xong tác phẩm này, căm phần có lẽ vẫn chưa đủ diễn tả hết được cảm xúc, suy
nghĩ. Nếu xã hội lúc bấy giờ không có những nhà văn như Nam cao đứng ra vạch
trần bộ mặt giai cấp thống trị thì liệu thế hệ ngày nay có biết đến thời kỳ đen tối của quá khứ.
Phân tích tác phẩm Một bữa no
“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng
lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm
than”- Nam Cao. Nhà văn Nam Cao với ngòi bút đi sâu vào mảnh đất hiện thực mà
phê phán, cải tạo. Vì vậy, tác giả đã sáng tác ra truyện ngắn “một bữa no” để nói về
tình cảnh của con người trong xã hội thời kỳ đó.
Truyện ngắn "Một bữa no" của Nam Cao tập trung vào nhân vật người bà, một
người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Sau khi chồng mất sớm, bà phải
một mình nuôi con. Bà hy vọng rằng con sẽ giúp đỡ bà khi bà già yếu, nhưng con lại
bỏ bà một mình. Con dâu của bà cũng không có lòng nhân từ và ngay sau đám tang
chồng, con dâu cũng rời bỏ bà và để lại đứa cháu nhỏ cho bà nuôi dưỡng. Khi đứa
cháu trưởng thành, nó đã bắt đầu kiếm sống để giúp bà giảm bớt khổ cực. Tuy
nhiên, khi bà mắc bệnh và không đủ kinh phí, bà buộc phải đi làm thuê cho người
khác. Ban đầu có nhiều người muốn thuê bà, nhưng sau một thời gian ngắn, đến
cuộc sống của mình còn không lo được thì ai lại lo cho một bà già bệnh tật như thế
nữa? Bà không có việc gì để làm, bị cái đói và bệnh tật hành hạ, chỉ nhờ vào sự
thương hại của một người chủ cuối cùng để sống qua ngày. Bà không giữ được
phẩm giá của mình và phải xin ăn từ chợ với tấm thân già yếu và mệt mỏi. Cuộc
sống của người phụ nữ bất hạnh này chỉ còn hy vọng vào những bữa cơm mà thiên
hạ thương hại cho mình.
Một lần sau nhiều ngày chịu đói, khi được một bữa ăn, bà không cầm đũa được vì
tay chân run rẩy và không thể nắm thức ăn, khiến thức ăn tràn ra khỏi đĩa. Mặc dù bị
khinh bỉ và chê cười trong suốt bữa ăn, bà không cảm thấy xấu hổ và ăn với niềm
vui. Trong khi mọi người đã kết thúc việc ăn, bà vẫn ngồi miệt mài ăn, như thể chưa
từng có cơ hội được no bụng. Có vẻ như sau quá lâu không được ăn cơm, bà ăn
mãi vẫn không thấy no. Sau bữa ăn hoành tráng đó, bà trở về nhà với bụng căng
tròn đầy, nhưng cảm thấy mệt nhọc. Sau đó, bà bị đau bụng, tiêu chảy và kéo dài
suốt nửa tháng trước khi qua đời. Cái chết đến bất chợ khi bà đã có một bữa ăn no,
nhưng đáng thương và đáng xấu hổ xiết bao! Trong cơn đói khát khốn nạn, bà
không thể giữ được phẩm giá của mình và bà đã ăn một bữa ăn đầy đau khổ, cuối
cùng chết một cách đáng thương. Tác phẩm kết thúc bằng lời răn của bà Thụ đối
với đám con gái, con nuôi và con thụ: "Chúng mày hãy nhìn đi, con người đói đến
mức nào cũng không chết, nhưng khi no một bữa là đủ để chết. Chúng mày hãy biết
điều đó và hãy biết ăn một cách tử tế!...".
Bút pháp của Nam Cao vẫn giữ nguyên tính lạnh lùng nhưng người đọc vẫn thấy
được đầy tình thương. Ông luôn khắc họa nhân vật của mình ở đỉnh cao của cảnh
nghèo khó. Họ là những con người tốt bụng, hòa nhã nhưng bị xã hội phong kiến và
thực dân bóp ép, đàn áp và kết cục của họ đều bi thảm. Đây cũng là một giới hạn
của tác phẩm của ông. Từ Lão Hạc, Chí Phèo đến ông giáo Thứ, họ không chết về
thể xác thì cũng chết về tinh thần. Các truyện của Nam Cao đã lột tả chân thực hiện
thực xã hội thời đó, nhưng vẫn chưa tìm ra con đường hay lối thoát cho người nông
dân và trí thức nghèo khốn khi chưa có ánh sáng của cách mạng. Tác phẩm của
Nam Cao đặt ra những câu hỏi đau đớn về bất công và khốn khổ trong cuộc sống.
Những trang truyện cuối cùng khiến lòng người đọc tràn đầy cảm xúc và dư vị khó
quên. Nó mang đến sự đau lòng cho số phận đáng thương của những người nông
dân trong xã hội phong kiến xưa, cũng như làm tức giận trước sự bất công của
những người có quyền lực, đã đẩy những người tốt bụng vào con đường biến chất.
Không chỉ "Một bữa no", mà còn những câu chuyện khác của Nam Cao đều chạm
đến lòng người như vậy. Các truyện ngắn của ông không sử dụng ngôn từ hoa mỹ,
mà từ nhân vật, hình thức và nội dung câu chuyện đều đơn giản và chân thực.
Chính vì vậy, Nam Cao dẫn dắt người đọc đến sự cảm thông chứ không phải là tình
cảm giả tạo và lấp lánh. Như Nam Cao từng nói trong tác phẩm " Đời thừa" của
mình: “Người mạnh không phải là người dùng người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ.
Người mạnh chính là người giúp đỡ người khác trên vai mình”.
Document Outline
- Phân tích truyện ngắn Một bữa no
- Phân tích truyện Một bữa no
- Phân tích tác phẩm Một bữa no