Vũ khí - Summary Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Vũ khí - Summary Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

Trong trận Làng Vây, 100 khẩu súng chống tăng M72 đã được sử dụng để đối đầu với
các loại xe lội nước PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được
hạ xuống bất cứ chiếc nào của PT-76 của quân ta. Súng chống tăng M72 là một hệ
thống gồm các hỏa tiễn nạp sẵn trong ống phóng kéo ra đẩy vào được, đồng thời có
chứa cả hệ thống khai hỏa. Đạn HEAT ( đạn nổ mạnh – chống tăng ) 65mm dùng cho
loại súng này có thể xuyên thủng lớp thép dày 260 mm của các xe tăng. M72 được
Quân đội Mỹ chế tạo từ năm 1963, loại tên lửa dùng một lần này được trang bị cho
binh lính làm nhiệm vụ chống tăng, thay khẩu Bazooka ra đời từ Chiến tranh Thế giới
thứ hai. Những khẩu M72 LAW lần đầu tiên được Mỹ mang sang Việt Nam vào năm
1968 đối đầu với thiết giáp Liên Xô trên chiến trường Việt Nam. Điển hình nhất là ở
vòng làng Vây, 100 khẩu M72 đã được sử dụng để khởi đầu cho các loại xe lội nước
PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được hạ xuống bất cứ
chiếc nào của PT-76 của quân ta. Tuy nhiên, khi đó Mỹ khá lạc quan và cho rằng trong
nhiều năm nữa, trên chiến trường miền Nam sẽ không xuất hiện các quy tắc tăng mô
trận và Trận Làng Vây chỉ là một ngoại lệ. Đến chiến dịch Đường 9 Nam Lào hay Lam
Sơn 719 diễn ra với hàng loạt xe tăng chủ lực T-54 của ta xung trận, phía binh lính
quân đội ngụy Sài Gòn gần như bất lực trước sức mạnh của xe tăng Quân phóng, ngay
cả khi họ được trang tới hàng trăm khẩu M72. Và để tìm lời giải pháp cho sức mạnh
thực sự của M72, người Mỹ đã thử nghiệm mẫu súng chống tăng này trên một số xe
tăng mà họ thu được. Kết quả là lửa năng lượng của M72 có thể xuyên qua hai bên
thân hoặc từ phía sau trên xe tăng Quân giải phóng nhưng chỉ ở khoảng cách dưới 100
mét. Ngoài ra, súng chống tăng M72 vẫn không được trang bị kính ngắm tử tế, chỉ là
kính nghe qua khe đầu thách thức trong điều kiện chiến đấu, người sử dụng khó có thể
đủ bình tĩnh để bắn chính xác tiêu điểm chỉ bằng một phát bắn. Mới đây, M72 LAW
vẫn được quân đội Mỹ sử dụng phổ biến dù nó gây ra quá nhiều thất vọng trên chiến
trường Việt Nam. Như, loại tên lửa mang tiếng là chống tăng này chỉ có tác dụng để
đánh lô cốt và cụm mùi lực của đối phương, nếu gặp xe tăng chủ lực, M72 chắc chắn
sẽ "bó tay" ngay từ phát bắn đầu tiên .
Súng đại liên M60 là loại súng máy đa năng, sử dụng cơ chế trích khí, đạn nạp vào
dây, làm mát bằng không khí với chế độ bắn duy nhất là liên thanh. M60 có thể khai
thác dầu từ máy bay, từ hỏa điểm hay kẹp để bắn. Đại liên M60 được thiết kế cho bộ
binh với tốc độ bắn 600 viên đạn/phút. Súng được đặt lên nhiều loại giá khác nhau để
sử dụng trên thiết bị vận động xa và trực thăng. M60 được Mỹ sử dụng rộng rãi trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với vai trò là hỏa lực cấp tiểu đội bộ binh. Nó còn
được gắn trên xe bọc thép M113 hay tàu tuần tiễu trực thăng. Trong chiến tranh Việt
Nam, M60 được nhận biệt danh là ‘’ The Pig – Con Lợn ‘’ do kích thước cồng kềnh và
ham ăn đạn.
Đại liên 30 M2 được đánh giá là khẩu đại liên nguy hiểm nhất của Mỹ, với hơn 80
năm dịch vụ ở biên chế, khẩu M2 vẫn cho thấy tính hiệu quả và chưa có dấu hiệu cho
thấy nó sẽ được thay thế trong tương lai gần. Đại liên 30 M2 (12,7 mm) có tốc độ bắn
nhanh 450-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 1.830 m và tầm bắn tối đa lên tới 6.800 m.
Nó làm mát bằng không khí và sử dụng băng đạn tự động. Súng dài gần 1,8 m, nặng
38 kg không tính chân đế và 58 kg tính cả đế. Ưu điểm tầm xa và độ chính xác cao,
ngay cả khi M2 đã được biến thành khẩu súng bắn súng bắt cưỡng và đã chứng tỏ uy
lực của mình khi tiêu mục tiêu ở khoảng cách lên tới 1.000m. Cho đến nay trên thế
giới, M2 vẫn là một trong những khẩu súng hạng nặng nhất, được bộ binh mang vác
hoặc gắn trên xe chiến đấu. Đại liên 30 M2 có ưu điểm là dễ sử dụng, dễ nạp đạn, bắn
khá chính xác, mặc dù nó không thể cầm tay nhưng có thể gắn trên bệ chống 3 chân,
xe jeep, thiết giáp, xe tăng, tàu chiến. Đại liên 30 M2 xuất hiện trên nhiều chiến
trường, có mặt trong nhiều cuộc chiến, sự xuất hiện của nó còn nhiều hơn tất cả vũ khí
của John Browning thiết kế trước đây, ngay cả súng ngắn Colt M1911. Trong chiến
tranh Việt Nam Đại liên 30 M2 là khẩu súng máy uy lực nhất của quân đội Mỹ. Sau
chiến tranh, Việt Nam đã thu được khá nhiều súng máy Đại liên 30 M2 và tiếp tục sử
dụng chúng trong cuộc chiến chống lại quân Khơ me đỏ, khẩu Đại liên 30 M2 gắn trên
xe bọc thép M111 đã cho thấy sức mạnh mạnh nguy hiểm của chính mình.
Súng phóng cầm hóa học M79 ra đời từ những năm 1950 do hãng Springfield Armory
(Mỹ) thiết kế nhằm giải quyết vấn đề chế áp bộ binh binh đối phương đặt ra sau chiến
tranh thế giới thứ 2. Được đưa vào trang bị trong quân đội Mỹ từ năm 1961, súng
phóng lựu cá nhân M79 nặng 2,7 kg, dài 731 mm, nòng xoắn dài 357 mm. M79 cũng
sử dụng đạn cỡ 40x46 mm với nhiều loại vật dụng như: đạn nổ mảnh sát thương, đạn
xuyên lòng, đạn hơi cay, đạn chiếu sáng, đạn khói chỉ thị mục tiêu, đạn rải truyền
đơn… Tốc độ bắn đạt 6 viên /phút, thấp hơn so với súng ống nhưng đảm bảo khả năng
bắn cầu vồng ở cự li gần, chế độ áp bộ binh rất hiệu quả, ở tầm 400 m trở xuống. M79
dùng để bắn súng nổ hai lần với tầm chính xác rất cao. Công ước quốc tế La Haye năm
1899 đã cấm quân đội các loại nước sử dụng loại đạn này. Tuy nhiên quân đội Mỹ vẫn
nghiên cứu cải tiến từ khối đum-đum (nổ hai lần) sang khối M.79 dạng ống. Đạn này
khi bắn vào người sẽ nổ tung, xé nát thân thể nạn nhân ra làm nhiều mảnh. M79 là một
vũ khí hiệu quả đối với địa hình nhiều vật cản, cây rừng, đồi núi như ở Việt Nam. Vũ
khí này cho phép tiêu diệt các loại súng, lô cốt bán cố ở cự ly xa gấp nhiều lần so với
súng cầm tay bằng tay, và cũng chính xác hơn. Những viên đạn M79 chưa nổ này đã
gây ô nhiễm nhiễm bom lớn tại Việt Nam, cho hàng tiền năm sau chiến tranh vẫn còn
nhiều dân dân Việt Nam thương vong vì phải đạn M79.
Súng phóng lựu liên thanh MK20 có tính năng tương tự M.79 nhưng có thể bắn liên
thanh. Vũ khí này được trang bị cho các giang đoàn tuần tiễu trên sông.
Súng tiểu liên Garand M14 - 7,62 mm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1957. M14
có độ chính xác đồng thời với hỏa lực mạnh do sử dụng đạn súng cỡ 7,62 ly (AK-47
cũng sử dụng loại đạn này ). Binh lính thích M14 vì không quá giật, tuy nhiên hơi bị
nặng. Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ bắt đầu sử dụng súng trường M14
thay vì tăng dần súng M1 vào những năm 1962 . Trong giai đoạn này, súng đã chứng
tỏ năng lực khá tốt và hơn nữa là các loại súng M1 Garand hay M1 Carbine. Kho vũ
khí lớn nhất chính là báng súng bằng gỗ, làm hoạt động trong điều kiện thời tiết nhiệt
độ ẩm thực ở Việt Nam, bán súng phun thường xuyên tăng cường. Ngoài ra, kích
thước dài và trọng lượng nặng hơn càng phù hợp với kiểu dáng người Việt sử dụng.
Sức mạnh của đạn súng có sức mạnh lớn nên hiệu quả khả năng chiến đấu ở tầm xa,
nhiều chiến binh Mỹ rất ưa chiến súng M14 và gắn thêm ống ngắm để làm súng bắn
súng và súng được liên tục cải tiến để trở thành súng bắn bắn M21 và M25 hiện nay.
Tuy nhiên, trên chiến trường, sức giật của súng tạo ra cũng rất lớn nên khi bắn ở tốc độ
cao thường không chính xác. Do đó, lính Mỹ chiến binh Việt Nam Cộng Hòa thường
để bắn ở chế độ bán tự động.
M16 gắn M.79: Súng M16 xuất hiện tại miền Nam vào giữa và cuối thập niên 1960, sử
dụng đạn nhỏ và sức giật nhẹ nên lò xo Đưa thanh nạp đạn nhanh hơn và tốc độ bắn
liên thanh rất cao. Hỗ trợ nhiều công cụ thoát khỏi nòng súng một lúc nào đó có thể
đạt được mục tiêu chính xác. Các thế hệ súng M16 sau này có tiến trình làm tăng sức
mạnh xuyên phá bằng cách tăng tốc độ xoáy cùng khối lượng của viên đạn. Xét về mọi
mặt, súng trường M16 của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam hoàn toàn không thể so
sánh với AK-47 của Liên Xô. Ngay từ những tháng đầu tiên khi xuất khẩu M16 của
Mỹ hay còn được gọi là AR15 được trang bị đại trà trong toàn bộ năng lượng, những
lời kêu rên của Sỹ quan, binh lính được gửi tới vội vã bộ tổng tham mưu. Theo đó,
M16 là một khẩu súng quá "đỏng đảnh", cần phải lau thường xuyên, nhiều chi tiết nhỏ
tạo khả năng tháo lắp để lau chùi trở nên khó khăn và đặc biệt là khẩu súng này hoàn
toàn không phù hợp với chiến chiến trường Việt Nam ẩm ướt, mưa nhiều, Lắm bụi đất.
Quá dài cũng là một yếu tố tiền khẩu M16 được nghe vào danh sách những loại "vũ
khí Mỹ giết chết nhiều lính Mỹ nhất" trên chiến trường Việt Nam. Cụ thể, khẩu súng
có chiều dài lên tới... 1 mét này không thể được sử dụng trong các đường hầm địa đạo
ở dưới Củ Chi. Những đường hầm địa đạo ở Củ Chi chỉ rộng vài cm và nếu binh lính
Mỹ cầm súng M16 xuống hầm thì họ sẽ hoàn toàn "chịu chết", không thể xoay súng
ngược xuôi được. Trong khi đó những khẩu AK-47 sẽ rất nhẹ nhàng và được sử dụng
để tác chiến rất tốt dưới hầm ngâm.
| 1/17

Preview text:

Trong trận Làng Vây, 100 khẩu súng chống tăng M72 đã được sử dụng để đối đầu với
các loại xe lội nước PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được
hạ xuống bất cứ chiếc nào của PT-76 của quân ta. Súng chống tăng M72 là một hệ
thống gồm các hỏa tiễn nạp sẵn trong ống phóng kéo ra đẩy vào được, đồng thời có
chứa cả hệ thống khai hỏa. Đạn HEAT ( đạn nổ mạnh – chống tăng ) 65mm dùng cho
loại súng này có thể xuyên thủng lớp thép dày 260 mm của các xe tăng. M72 được
Quân đội Mỹ chế tạo từ năm 1963, loại tên lửa dùng một lần này được trang bị cho
binh lính làm nhiệm vụ chống tăng, thay khẩu Bazooka ra đời từ Chiến tranh Thế giới
thứ hai. Những khẩu M72 LAW lần đầu tiên được Mỹ mang sang Việt Nam vào năm
1968 đối đầu với thiết giáp Liên Xô trên chiến trường Việt Nam. Điển hình nhất là ở
vòng làng Vây, 100 khẩu M72 đã được sử dụng để khởi đầu cho các loại xe lội nước
PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được hạ xuống bất cứ
chiếc nào của PT-76 của quân ta. Tuy nhiên, khi đó Mỹ khá lạc quan và cho rằng trong
nhiều năm nữa, trên chiến trường miền Nam sẽ không xuất hiện các quy tắc tăng mô
trận và Trận Làng Vây chỉ là một ngoại lệ. Đến chiến dịch Đường 9 Nam Lào hay Lam
Sơn 719 diễn ra với hàng loạt xe tăng chủ lực T-54 của ta xung trận, phía binh lính
quân đội ngụy Sài Gòn gần như bất lực trước sức mạnh của xe tăng Quân phóng, ngay
cả khi họ được trang tới hàng trăm khẩu M72. Và để tìm lời giải pháp cho sức mạnh
thực sự của M72, người Mỹ đã thử nghiệm mẫu súng chống tăng này trên một số xe
tăng mà họ thu được. Kết quả là lửa năng lượng của M72 có thể xuyên qua hai bên
thân hoặc từ phía sau trên xe tăng Quân giải phóng nhưng chỉ ở khoảng cách dưới 100
mét. Ngoài ra, súng chống tăng M72 vẫn không được trang bị kính ngắm tử tế, chỉ là
kính nghe qua khe đầu thách thức trong điều kiện chiến đấu, người sử dụng khó có thể
đủ bình tĩnh để bắn chính xác tiêu điểm chỉ bằng một phát bắn. Mới đây, M72 LAW
vẫn được quân đội Mỹ sử dụng phổ biến dù nó gây ra quá nhiều thất vọng trên chiến
trường Việt Nam. Như, loại tên lửa mang tiếng là chống tăng này chỉ có tác dụng để
đánh lô cốt và cụm mùi lực của đối phương, nếu gặp xe tăng chủ lực, M72 chắc chắn
sẽ "bó tay" ngay từ phát bắn đầu tiên .
Súng đại liên M60 là loại súng máy đa năng, sử dụng cơ chế trích khí, đạn nạp vào
dây, làm mát bằng không khí với chế độ bắn duy nhất là liên thanh. M60 có thể khai
thác dầu từ máy bay, từ hỏa điểm hay kẹp để bắn. Đại liên M60 được thiết kế cho bộ
binh với tốc độ bắn 600 viên đạn/phút. Súng được đặt lên nhiều loại giá khác nhau để
sử dụng trên thiết bị vận động xa và trực thăng. M60 được Mỹ sử dụng rộng rãi trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với vai trò là hỏa lực cấp tiểu đội bộ binh. Nó còn
được gắn trên xe bọc thép M113 hay tàu tuần tiễu trực thăng. Trong chiến tranh Việt
Nam, M60 được nhận biệt danh là ‘’ The Pig – Con Lợn ‘’ do kích thước cồng kềnh và ham ăn đạn.
Đại liên 30 M2 được đánh giá là khẩu đại liên nguy hiểm nhất của Mỹ, với hơn 80
năm dịch vụ ở biên chế, khẩu M2 vẫn cho thấy tính hiệu quả và chưa có dấu hiệu cho
thấy nó sẽ được thay thế trong tương lai gần. Đại liên 30 M2 (12,7 mm) có tốc độ bắn
nhanh 450-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 1.830 m và tầm bắn tối đa lên tới 6.800 m.
Nó làm mát bằng không khí và sử dụng băng đạn tự động. Súng dài gần 1,8 m, nặng
38 kg không tính chân đế và 58 kg tính cả đế. Ưu điểm tầm xa và độ chính xác cao,
ngay cả khi M2 đã được biến thành khẩu súng bắn súng bắt cưỡng và đã chứng tỏ uy
lực của mình khi tiêu mục tiêu ở khoảng cách lên tới 1.000m. Cho đến nay trên thế
giới, M2 vẫn là một trong những khẩu súng hạng nặng nhất, được bộ binh mang vác
hoặc gắn trên xe chiến đấu. Đại liên 30 M2 có ưu điểm là dễ sử dụng, dễ nạp đạn, bắn
khá chính xác, mặc dù nó không thể cầm tay nhưng có thể gắn trên bệ chống 3 chân,
xe jeep, thiết giáp, xe tăng, tàu chiến. Đại liên 30 M2 xuất hiện trên nhiều chiến
trường, có mặt trong nhiều cuộc chiến, sự xuất hiện của nó còn nhiều hơn tất cả vũ khí
của John Browning thiết kế trước đây, ngay cả súng ngắn Colt M1911. Trong chiến
tranh Việt Nam Đại liên 30 M2 là khẩu súng máy uy lực nhất của quân đội Mỹ. Sau
chiến tranh, Việt Nam đã thu được khá nhiều súng máy Đại liên 30 M2 và tiếp tục sử
dụng chúng trong cuộc chiến chống lại quân Khơ me đỏ, khẩu Đại liên 30 M2 gắn trên
xe bọc thép M111 đã cho thấy sức mạnh mạnh nguy hiểm của chính mình.
Súng phóng cầm hóa học M79 ra đời từ những năm 1950 do hãng Springfield Armory
(Mỹ) thiết kế nhằm giải quyết vấn đề chế áp bộ binh binh đối phương đặt ra sau chiến
tranh thế giới thứ 2. Được đưa vào trang bị trong quân đội Mỹ từ năm 1961, súng
phóng lựu cá nhân M79 nặng 2,7 kg, dài 731 mm, nòng xoắn dài 357 mm. M79 cũng
sử dụng đạn cỡ 40x46 mm với nhiều loại vật dụng như: đạn nổ mảnh sát thương, đạn
xuyên lòng, đạn hơi cay, đạn chiếu sáng, đạn khói chỉ thị mục tiêu, đạn rải truyền
đơn… Tốc độ bắn đạt 6 viên /phút, thấp hơn so với súng ống nhưng đảm bảo khả năng
bắn cầu vồng ở cự li gần, chế độ áp bộ binh rất hiệu quả, ở tầm 400 m trở xuống. M79
dùng để bắn súng nổ hai lần với tầm chính xác rất cao. Công ước quốc tế La Haye năm
1899 đã cấm quân đội các loại nước sử dụng loại đạn này. Tuy nhiên quân đội Mỹ vẫn
nghiên cứu cải tiến từ khối đum-đum (nổ hai lần) sang khối M.79 dạng ống. Đạn này
khi bắn vào người sẽ nổ tung, xé nát thân thể nạn nhân ra làm nhiều mảnh. M79 là một
vũ khí hiệu quả đối với địa hình nhiều vật cản, cây rừng, đồi núi như ở Việt Nam. Vũ
khí này cho phép tiêu diệt các loại súng, lô cốt bán cố ở cự ly xa gấp nhiều lần so với
súng cầm tay bằng tay, và cũng chính xác hơn. Những viên đạn M79 chưa nổ này đã
gây ô nhiễm nhiễm bom lớn tại Việt Nam, cho hàng tiền năm sau chiến tranh vẫn còn
nhiều dân dân Việt Nam thương vong vì phải đạn M79.
Súng phóng lựu liên thanh MK20 có tính năng tương tự M.79 nhưng có thể bắn liên
thanh. Vũ khí này được trang bị cho các giang đoàn tuần tiễu trên sông.
Súng tiểu liên Garand M14 - 7,62 mm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1957. M14
có độ chính xác đồng thời với hỏa lực mạnh do sử dụng đạn súng cỡ 7,62 ly (AK-47
cũng sử dụng loại đạn này ). Binh lính thích M14 vì không quá giật, tuy nhiên hơi bị
nặng. Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ bắt đầu sử dụng súng trường M14
thay vì tăng dần súng M1 vào những năm 1962 . Trong giai đoạn này, súng đã chứng
tỏ năng lực khá tốt và hơn nữa là các loại súng M1 Garand hay M1 Carbine. Kho vũ
khí lớn nhất chính là báng súng bằng gỗ, làm hoạt động trong điều kiện thời tiết nhiệt
độ ẩm thực ở Việt Nam, bán súng phun thường xuyên tăng cường. Ngoài ra, kích
thước dài và trọng lượng nặng hơn càng phù hợp với kiểu dáng người Việt sử dụng.
Sức mạnh của đạn súng có sức mạnh lớn nên hiệu quả khả năng chiến đấu ở tầm xa,
nhiều chiến binh Mỹ rất ưa chiến súng M14 và gắn thêm ống ngắm để làm súng bắn
súng và súng được liên tục cải tiến để trở thành súng bắn bắn M21 và M25 hiện nay.
Tuy nhiên, trên chiến trường, sức giật của súng tạo ra cũng rất lớn nên khi bắn ở tốc độ
cao thường không chính xác. Do đó, lính Mỹ chiến binh Việt Nam Cộng Hòa thường
để bắn ở chế độ bán tự động.
M16 gắn M.79: Súng M16 xuất hiện tại miền Nam vào giữa và cuối thập niên 1960, sử
dụng đạn nhỏ và sức giật nhẹ nên lò xo Đưa thanh nạp đạn nhanh hơn và tốc độ bắn
liên thanh rất cao. Hỗ trợ nhiều công cụ thoát khỏi nòng súng một lúc nào đó có thể
đạt được mục tiêu chính xác. Các thế hệ súng M16 sau này có tiến trình làm tăng sức
mạnh xuyên phá bằng cách tăng tốc độ xoáy cùng khối lượng của viên đạn. Xét về mọi
mặt, súng trường M16 của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam hoàn toàn không thể so
sánh với AK-47 của Liên Xô. Ngay từ những tháng đầu tiên khi xuất khẩu M16 của
Mỹ hay còn được gọi là AR15 được trang bị đại trà trong toàn bộ năng lượng, những
lời kêu rên của Sỹ quan, binh lính được gửi tới vội vã bộ tổng tham mưu. Theo đó,
M16 là một khẩu súng quá "đỏng đảnh", cần phải lau thường xuyên, nhiều chi tiết nhỏ
tạo khả năng tháo lắp để lau chùi trở nên khó khăn và đặc biệt là khẩu súng này hoàn
toàn không phù hợp với chiến chiến trường Việt Nam ẩm ướt, mưa nhiều, Lắm bụi đất.
Quá dài cũng là một yếu tố tiền khẩu M16 được nghe vào danh sách những loại "vũ
khí Mỹ giết chết nhiều lính Mỹ nhất" trên chiến trường Việt Nam. Cụ thể, khẩu súng
có chiều dài lên tới... 1 mét này không thể được sử dụng trong các đường hầm địa đạo
ở dưới Củ Chi. Những đường hầm địa đạo ở Củ Chi chỉ rộng vài cm và nếu binh lính
Mỹ cầm súng M16 xuống hầm thì họ sẽ hoàn toàn "chịu chết", không thể xoay súng
ngược xuôi được. Trong khi đó những khẩu AK-47 sẽ rất nhẹ nhàng và được sử dụng
để tác chiến rất tốt dưới hầm ngâm.