
















Preview text:
Trong trận Làng Vây, 100 khẩu súng chống tăng M72 đã được sử dụng để đối đầu với 
các loại xe lội nước PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được
hạ xuống bất cứ chiếc nào của PT-76 của quân ta. Súng chống tăng M72 là một hệ 
thống gồm các hỏa tiễn nạp sẵn trong ống phóng kéo ra đẩy vào được, đồng thời có 
chứa cả hệ thống khai hỏa. Đạn HEAT ( đạn nổ mạnh – chống tăng ) 65mm dùng cho 
loại súng này có thể xuyên thủng lớp thép dày 260 mm của các xe tăng. M72 được 
Quân đội Mỹ chế tạo từ năm 1963, loại tên lửa dùng một lần này được trang bị cho 
binh lính làm nhiệm vụ chống tăng, thay khẩu Bazooka ra đời từ Chiến tranh Thế giới 
thứ hai. Những khẩu M72 LAW lần đầu tiên được Mỹ mang sang Việt Nam vào năm 
1968 đối đầu với thiết giáp Liên Xô trên chiến trường Việt Nam. Điển hình nhất là ở 
vòng làng Vây, 100 khẩu M72 đã được sử dụng để khởi đầu cho các loại xe lội nước 
PT-76 của Quân giải phóng. Kết quả là 100 khẩu M72 không được hạ xuống bất cứ 
chiếc nào của PT-76 của quân ta. Tuy nhiên, khi đó Mỹ khá lạc quan và cho rằng trong
nhiều năm nữa, trên chiến trường miền Nam sẽ không xuất hiện các quy tắc tăng mô 
trận và Trận Làng Vây chỉ là một ngoại lệ. Đến chiến dịch Đường 9 Nam Lào hay Lam
Sơn 719 diễn ra với hàng loạt xe tăng chủ lực T-54 của ta xung trận, phía binh lính 
quân đội ngụy Sài Gòn gần như bất lực trước sức mạnh của xe tăng Quân phóng, ngay 
cả khi họ được trang tới hàng trăm khẩu M72. Và để tìm lời giải pháp cho sức mạnh 
thực sự của M72, người Mỹ đã thử nghiệm mẫu súng chống tăng này trên một số xe 
tăng mà họ thu được. Kết quả là lửa năng lượng của M72 có thể xuyên qua hai bên 
thân hoặc từ phía sau trên xe tăng Quân giải phóng nhưng chỉ ở khoảng cách dưới 100 
mét. Ngoài ra, súng chống tăng M72 vẫn không được trang bị kính ngắm tử tế, chỉ là 
kính nghe qua khe đầu thách thức trong điều kiện chiến đấu, người sử dụng khó có thể 
đủ bình tĩnh để bắn chính xác tiêu điểm chỉ bằng một phát bắn. Mới đây, M72 LAW 
vẫn được quân đội Mỹ sử dụng phổ biến dù nó gây ra quá nhiều thất vọng trên chiến 
trường Việt Nam. Như, loại tên lửa mang tiếng là chống tăng này chỉ có tác dụng để 
đánh lô cốt và cụm mùi lực của đối phương, nếu gặp xe tăng chủ lực, M72 chắc chắn 
sẽ "bó tay" ngay từ phát bắn đầu tiên .
Súng đại liên M60 là loại súng máy đa năng, sử dụng cơ chế trích khí, đạn nạp vào 
dây, làm mát bằng không khí với chế độ bắn duy nhất là liên thanh. M60 có thể khai 
thác dầu từ máy bay, từ hỏa điểm hay kẹp để bắn. Đại liên M60 được thiết kế cho bộ 
binh với tốc độ bắn 600 viên đạn/phút. Súng được đặt lên nhiều loại giá khác nhau để 
sử dụng trên thiết bị vận động xa và trực thăng. M60 được Mỹ sử dụng rộng rãi trong 
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với vai trò là hỏa lực cấp tiểu đội bộ binh. Nó còn
được gắn trên xe bọc thép M113 hay tàu tuần tiễu trực thăng. Trong chiến tranh Việt 
Nam, M60 được nhận biệt danh là ‘’ The Pig – Con Lợn ‘’ do kích thước cồng kềnh và ham ăn đạn.
 Đại liên 30 M2 được đánh giá là khẩu đại liên nguy hiểm nhất của Mỹ, với hơn 80 
năm dịch vụ ở biên chế, khẩu M2 vẫn cho thấy tính hiệu quả và chưa có dấu hiệu cho 
thấy nó sẽ được thay thế trong tương lai gần. Đại liên 30 M2 (12,7 mm) có tốc độ bắn 
nhanh 450-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 1.830 m và tầm bắn tối đa lên tới 6.800 m.
Nó làm mát bằng không khí và sử dụng băng đạn tự động. Súng dài gần 1,8 m, nặng 
38 kg không tính chân đế và 58 kg tính cả đế. Ưu điểm tầm xa và độ chính xác cao, 
ngay cả khi M2 đã được biến thành khẩu súng bắn súng bắt cưỡng và đã chứng tỏ uy 
lực của mình khi tiêu mục tiêu ở khoảng cách lên tới 1.000m. Cho đến nay trên thế 
giới, M2 vẫn là một trong những khẩu súng hạng nặng nhất, được bộ binh mang vác 
hoặc gắn trên xe chiến đấu. Đại liên 30 M2 có ưu điểm là dễ sử dụng, dễ nạp đạn, bắn 
khá chính xác, mặc dù nó không thể cầm tay nhưng có thể gắn trên bệ chống 3 chân, 
xe jeep, thiết giáp, xe tăng, tàu chiến. Đại liên 30 M2 xuất hiện trên nhiều chiến 
trường, có mặt trong nhiều cuộc chiến, sự xuất hiện của nó còn nhiều hơn tất cả vũ khí 
của John Browning thiết kế trước đây, ngay cả súng ngắn Colt M1911. Trong chiến 
tranh Việt Nam Đại liên 30 M2 là khẩu súng máy uy lực nhất của quân đội Mỹ. Sau 
chiến tranh, Việt Nam đã thu được khá nhiều súng máy Đại liên 30 M2 và tiếp tục sử 
dụng chúng trong cuộc chiến chống lại quân Khơ me đỏ, khẩu Đại liên 30 M2 gắn trên
xe bọc thép M111 đã cho thấy sức mạnh mạnh nguy hiểm của chính mình.
Súng phóng cầm hóa học M79 ra đời từ những năm 1950 do hãng Springfield Armory 
(Mỹ) thiết kế nhằm giải quyết vấn đề chế áp bộ binh binh đối phương đặt ra sau chiến 
tranh thế giới thứ 2. Được đưa vào trang bị trong quân đội Mỹ từ năm 1961, súng 
phóng lựu cá nhân M79 nặng 2,7 kg, dài 731 mm, nòng xoắn dài 357 mm. M79 cũng 
sử dụng đạn cỡ 40x46 mm với nhiều loại vật dụng như: đạn nổ mảnh sát thương, đạn 
xuyên lòng, đạn hơi cay, đạn chiếu sáng, đạn khói chỉ thị mục tiêu, đạn rải truyền 
đơn… Tốc độ bắn đạt 6 viên /phút, thấp hơn so với súng ống nhưng đảm bảo khả năng
bắn cầu vồng ở cự li gần, chế độ áp bộ binh rất hiệu quả, ở tầm 400 m trở xuống. M79 
dùng để bắn súng nổ hai lần với tầm chính xác rất cao. Công ước quốc tế La Haye năm
1899 đã cấm quân đội các loại nước sử dụng loại đạn này. Tuy nhiên quân đội Mỹ vẫn 
nghiên cứu cải tiến từ khối đum-đum (nổ hai lần) sang khối M.79 dạng ống. Đạn này 
khi bắn vào người sẽ nổ tung, xé nát thân thể nạn nhân ra làm nhiều mảnh. M79 là một
vũ khí hiệu quả đối với địa hình nhiều vật cản, cây rừng, đồi núi như ở Việt Nam. Vũ 
khí này cho phép tiêu diệt các loại súng, lô cốt bán cố ở cự ly xa gấp nhiều lần so với 
súng cầm tay bằng tay, và cũng chính xác hơn. Những viên đạn M79 chưa nổ này đã 
gây ô nhiễm nhiễm bom lớn tại Việt Nam, cho hàng tiền năm sau chiến tranh vẫn còn 
nhiều dân dân Việt Nam thương vong vì phải đạn M79.
Súng phóng lựu liên thanh MK20 có tính năng tương tự M.79 nhưng có thể bắn liên 
thanh. Vũ khí này được trang bị cho các giang đoàn tuần tiễu trên sông.
Súng tiểu liên Garand M14 - 7,62 mm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1957. M14 
có độ chính xác đồng thời với hỏa lực mạnh do sử dụng đạn súng cỡ 7,62 ly (AK-47 
cũng sử dụng loại đạn này ). Binh lính thích M14 vì không quá giật, tuy nhiên hơi bị 
nặng. Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ bắt đầu sử dụng súng trường M14 
thay vì tăng dần súng M1 vào những năm 1962 . Trong giai đoạn này, súng đã chứng 
tỏ năng lực khá tốt và hơn nữa là các loại súng M1 Garand hay M1 Carbine. Kho vũ 
khí lớn nhất chính là báng súng bằng gỗ, làm hoạt động trong điều kiện thời tiết nhiệt 
độ ẩm thực ở Việt Nam, bán súng phun thường xuyên tăng cường. Ngoài ra, kích 
thước dài và trọng lượng nặng hơn càng phù hợp với kiểu dáng người Việt sử dụng. 
Sức mạnh của đạn súng có sức mạnh lớn nên hiệu quả khả năng chiến đấu ở tầm xa, 
nhiều chiến binh Mỹ rất ưa chiến súng M14 và gắn thêm ống ngắm để làm súng bắn 
súng và súng được liên tục cải tiến để trở thành súng bắn bắn M21 và M25 hiện nay. 
Tuy nhiên, trên chiến trường, sức giật của súng tạo ra cũng rất lớn nên khi bắn ở tốc độ
cao thường không chính xác. Do đó, lính Mỹ chiến binh Việt Nam Cộng Hòa thường 
để bắn ở chế độ bán tự động.
M16 gắn M.79: Súng M16 xuất hiện tại miền Nam vào giữa và cuối thập niên 1960, sử
dụng đạn nhỏ và sức giật nhẹ nên lò xo Đưa thanh nạp đạn nhanh hơn và tốc độ bắn 
liên thanh rất cao. Hỗ trợ nhiều công cụ thoát khỏi nòng súng một lúc nào đó có thể 
đạt được mục tiêu chính xác. Các thế hệ súng M16 sau này có tiến trình làm tăng sức 
mạnh xuyên phá bằng cách tăng tốc độ xoáy cùng khối lượng của viên đạn. Xét về mọi
mặt, súng trường M16 của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam hoàn toàn không thể so 
sánh với AK-47 của Liên Xô. Ngay từ những tháng đầu tiên khi xuất khẩu M16 của 
Mỹ hay còn được gọi là AR15 được trang bị đại trà trong toàn bộ năng lượng, những 
lời kêu rên của Sỹ quan, binh lính được gửi tới vội vã bộ tổng tham mưu. Theo đó, 
M16 là một khẩu súng quá "đỏng đảnh", cần phải lau thường xuyên, nhiều chi tiết nhỏ 
tạo khả năng tháo lắp để lau chùi trở nên khó khăn và đặc biệt là khẩu súng này hoàn 
toàn không phù hợp với chiến chiến trường Việt Nam ẩm ướt, mưa nhiều, Lắm bụi đất.
Quá dài cũng là một yếu tố tiền khẩu M16 được nghe vào danh sách những loại "vũ 
khí Mỹ giết chết nhiều lính Mỹ nhất" trên chiến trường Việt Nam. Cụ thể, khẩu súng 
có chiều dài lên tới... 1 mét này không thể được sử dụng trong các đường hầm địa đạo 
ở dưới Củ Chi. Những đường hầm địa đạo ở Củ Chi chỉ rộng vài cm và nếu binh lính 
Mỹ cầm súng M16 xuống hầm thì họ sẽ hoàn toàn "chịu chết", không thể xoay súng 
ngược xuôi được. Trong khi đó những khẩu AK-47 sẽ rất nhẹ nhàng và được sử dụng 
để tác chiến rất tốt dưới hầm ngâm.
Súng tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như kiểu 
1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến tranh Việt Nam, 
loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị kích thước của Pháp, Mỹ và quân 
đội Sài Gòn. Một số ít đã được quân dân Việt Nam tích thu trong chiến đấu và tái sử 
dụng. Madsen dùng đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút 
(hoặc 550 phát/phút với biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.
Trung liên BAR được thiết kế bởi John Browning từ năm 1917 và được đưa vào biên 
chế quân đội Hoa Kỳ từ năm 1918. Loại vũ khí tự động này được đánh giá đáng tin 
cậy, dễ sử dụng, có khả năng duy trì năng lực tốt. Trung liên BAR có khả năng lựa 
chọn chế độ bắn: S-khoá an toàn, F-bán tự động và A-tự động. Được thiết kế để trở 
thành một loại hỗ trợ năng lượng, BAR không thể gắn hoa lê.
Súng ngắn: Các loại súng Colt - 45, Rouleau nòng dài, Rouleau nòng ngắn thường 
được trang bị cho cảnh sát và sĩ quan quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn cũ để tự vệ và 
chỉ huy chiến đấu. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh, loại súng này được sử dụng để bắn chết dân vô tội.
Ngoài súng, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh còn trưng bày các loại súng cầm tay, lựu
đạn... Trong ảnh là mảnh bom bi hình cầu do Mỹ sản xuất năm 1966, bán kính sát 
thương dày 10 m. Thân bom có vỏ bằng kim loại, dày 7 mm đúc hỗn hợp 280-300 viên
bi đường kính 5 mm, bên trong chứa 100 gam thuốc nổ cyclotol.
Bom cam chuyên sát thương người bằng mảnh vụn. Cấu tạo gồm thân, đuôi và ngòi 
nổ. Khối lượng 720 gam, chứa 120 gam thuốc nổ cyclotol.
Bom bươm bướm có bán kính sát thương 15-20 m. Cấu tạo gồm thân bom và ngòi nổ 
T49 (ngòi nổ T49 hẹn giờ đồng hồ). Khối lượng 1.600 gam, chứa 200 gam thuốc nổ  TNT đúc.
Đạn cối 40 mm và 60 mm, có tỷ trọng tương đương thuốc nổ TNT.
Đạn DKZ, loại dành cho súng DKZ, hỏa lực mạnh, có khả năng cơ động cao, được 
trang bị cho các đơn vị bộ binh. 
