-
Thông tin
-
Quiz
Xây dựng đội ngũ giảng viên của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Xây dựng đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng và nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Xây dựng đội ngũ giảng viên của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Xây dựng đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng và nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
TIỂU LUẬN MÔN: XÂY DỰNG ĐẢNG
TIÊU CHUẨN ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VIỆC
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG, RÈN LUYỆN, PHẤN ĐẤU TRỞ
THÀNH ĐẢNG VIÊN CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Sinh viên: Trần Quyết Thắng
Mã số sinh viên: 2156060045 Lớp: XD01001_6 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU CHUẨN ĐỂ
TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM...........................2
1.1. Nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam................2
1.2. Điều kiện để kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam................................2
1.3. Hướng phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam..........3
1.4. Nhiệm vụ của Người Đảng viên.................................................................6
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN.............................................................................8
2.1. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên......8
2.2. Xác định đúng đắn những điều kiện của người trở thành đảng viên.......9
2.3. Tổ chức lãnh đạo hoạt động của đội ngũ đảng viên...................................9
2.4. Triệt để khai thác yếu tố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng...................10
2.5. Y thức xây dựng, bảo vệ Đảng và bồi dưỡng Đảng..................................11
2.6 Thường xuyên chấn chỉnh đội ngũ.............................................................12
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG HIỆN
NAY VÀ NHIỆM VỤ CHỈNH ĐỐN ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI............................................................................14
3.1. Thực trạng đội ngũ đảng viên của Đảng...................................................14
3.2. Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên của Đảng trong công cuộc đổi mới..........14
CHƯƠNG IV: Ý NGHĨA TRỌNG YẾU TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
ĐẢNG VIÊN..........................................................................................................18
KẾT LUẬN............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................20 1 MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm
quan trọng và nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn nhất quán
khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đảng ta luôn coi công tác xây dựng đảng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề then chốt, sống còn có ý nghĩa quyết
định đến sự tồn tại, phát triển của Đảng. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính trị
quan trọng bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh ngang tầm với sự lãnh đạo.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên phải tiên phong, gương mẫu
bởi họ là những người nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, vì thế “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”[1 ,546]
dẫn dắt quần chúng, trong phong trào cách mạng. Cán bộ, đảng viên là người dẫn
dắt quần chúng, muốn quần chúng làm theo thì bản thân phải là tấm gương, phải
“cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc”[2 ,306].
Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang
diễn ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân,
trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. Sự suy thoái này đã được Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra 27 nội dung cụ thể1. Thực trạng đó, nếu không
được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, gây tổn hại nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng, đe dọa sự tồn vong
của Đảng, chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta xác
định phải kiên quyết đấu tranh “xây dựng đội ngũ Đảng viên” là công việc cấp
bách và phải được tiến hành thường xuyên trong từng tổ chức Đảng, ở mỗi cán bộ, đảng viên.
Xuất phát từ lý do trên tôi lựa chọn đề tài “XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG
VIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY” làm đề tài cho bài tiểu luận hết môn của mình. 1 Đ ng C ng s ả n ộ Vi t Nam - ả ệ Văn ki n Đ i ệ h i đ ạ i bi
ộ ạ u toàn quốốc lầần th ể XII, Nxb Chính tr ứ
ị Quốốc gia, H. 2016, tr.28 2 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU
CHUẨN ĐỂ TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc ta
giành độc lập tự chủ, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Với sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam là niềm
tự hào của toàn dân tộc Việt Nam, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn kiên định
trên nền tảng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, đảng đã lãnh đạo nhân
dân đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về quyết tâm đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Vai trò lãnh đạo của đảng
do các tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương thực hiện. Tổ chức Đảng các
cấp vẫn quan trọng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chủ
trương của đảng là xây dựng nhà nước do pháp luật, do dân, vì dân và vì dân. Chủ
trương quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới đất nước.
Đảng chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa các chủ trương trong chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tổ chức thực hiện thông qua bộ. Bộ máy nhà nước bảo
đảm cho các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống, thiết thực, gần gũi
với quần chúng nhân dân. Đảng bộ lãnh đạo tạo ra đội ngũ cán bộ, viên chức toàn
tâm, toàn ý, có đủ năng lực, trình độ, kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để
hoàn thành yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong công việc. được sự giám sát của ban
lãnh đạo đảng. đóng cửa thường xuyên.
1.2. Điều kiện để kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức,
không ngừng nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
xây dựng tổ chức Đảng ở các cấp trong sạch, vững mạnh.
Điều lệ Đảng quy định những tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng như sau:
Thứ nhất: Người xin vào Đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đặt lợi ích
của Tổ quốc lên trên lợi ích của cá nhân, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, lợi ích của dân tộc. 3
Có đạo đức và lối sống lành mạnh, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng.
Thứ hai: Đảng viên là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận
và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, hoạt động trong một tổ
chức cơ sở Đảng. Là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đủ tiêu chuẩn của Đảng viên.
1.3. Hướng phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là vinh dự và
niềm tự hào của mỗi Đảng viên. Bản thân tôi càng nhận thức sâu sắc hơn nữa và
quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất: tôi xác định động cơ vào Đảng xuất phát từ nguyện vọng trong sáng
và tự nguyện của bản thân. Đi theo con đường của Đảng là con đường lý tưởng của
toàn dân tộc. Tôi không đến với Đảng vì những mục đích cá nhân vì dù ở vị trí nào
tôi vẫn luôn làm việc và cố gắng trở thành một công dân có ích. Được đứng vào
trong hàng ngũ của Đảng không chỉ là mục tiêu phấn đấu của tôi mà trong quá
trình phấn đấu đó tôi được học hỏi, rèn luyện để trưởng thành và sống có trách
nhiệm hơn với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả là lãnh đạo nhân dân giành độc
lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đứng trong một tập thể những người cùng chí
hướng để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh là niềm vinh hạnh to lớn của bản thân tôi. Tôi sẽ được đem hết trí tuệ, sức lực
của mình để cống hiến, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, góp sức xây dựng
đất nước ngày càng tốt đẹp và phát triển hơn.
Phấn đấu vào đảng đồng nghĩa với việc cống hiến nhiều hơn cho quốc gia, dân
tộc. Động cơ đúng đắn dẫn đến hành động đúng, nhận thức sâu rộng và sâu sắc về
lý tưởng của đảng, là động lực chỉ đạo. Để giao dịch. Giữ vững phẩm chất của
người đảng viên, không lùi bước trước khó khăn, thử thách, sự cám dỗ của đồng
tiền, quyền lực. Vào đảng để phục vụ lý tưởng cách mạng của đảng, hy sinh và
chiến đấu. Chiến đấu để đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn.
Tạo dựng được lòng tin của mọi tầng lớp xã hội đối với đảng và nhà nước. Trong
việc lựa chọn động lực để tham gia đảng, tôi sẵn sàng đối mặt với khó khăn. Vượt
khó, thực hiện nhiệm vụ được giao, giữ vững niềm tin vào Đảng, vào thực tiễn của
Nhà nước để nâng cao hiểu biết của bản thân, tiếp thu kiến thức.
Thứ hai: Để trở thành một đảng viên tôi luôn cố gắng trau dổi bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức cách mạng. Kiên định với mục tiêu, lý tưởng đã chọn, không
giảm sút niềm tin, ý chí chiến đấu. Nỗ lực học tập, nâng cao hiểu biết và nhận thức 4
về lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tu
dưỡng rèn luyện suốt đời để có được phẩm chất cách mạng trong sáng đi đôi với
chống chủ nghĩa cá nhân.
Tôi hiểu rằng, trong bối cảnh hiện nay, các đồng chí phải quyết tâm đưa đất
nước từ kém phát triển trở thành nước giàu, mạnh, văn minh. Thể hiện bản lĩnh
chính trị, nhận thức đúng đắn, không vì tiền. Giàu có mà đánh mất phẩm chất
đáng quý của một người đảng viên, nghĩa là phải từ chối lợi ích của cá nhân mà
chống lại những phát ngôn ích kỷ, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích nhóm, đi
ngược lại lợi ích chung của cộng đồng. Điều gì có lợi cho cách mạng, cho nhân
dân Khi xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh trước hết quan tâm đến trình độ, phẩm chất
của người cán bộ cách mạng. Cách mạng phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, công tâm, chính trực, liêm khiết trong hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trở thành Đảng viên là giác ngộ lý tưởng cộng sản, trung thành với sự nghiệp
độc lập dân tộc, tự do của nhân dân, xứng đáng với phẩm chất hàng đầu mà Người
đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.
Ghi nhớ lời căn dặn của Người, không được quên lý tưởng cao cả của mình là
phấn đấu cho Tổ quốc, cho lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, luôn đặt lợi ích chung
của Đảng lên trên lợi ích cá nhân.
Thứ ba: Luôn rèn luyện, nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Phấn đấu học tập thật tốt, khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì nhiệm vụ học
tập là nhiệm vụ trọng tâm. Tích cực tham gia học tập chính trị, tham gia các buổi
sinh hoạt chính trị công dân sinh viên, lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng.
Trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi, không ngừng
nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác, học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ.
Thứ tư: Gắn bó mật thiết và máu thịt với nhân dân, phát huy truyền thống quý
báu của Đảng Cộng sản việt Nam là tình cảm quân dân, tình cảm giữa người lãnh
đạo với quần chúng nhân dân. Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, công tác xã
hội, các hoạt động ngoại khóa, tình nguyện, gắn bó với tập thể, với nhân dân.
Tôn trọng, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau giữa bạn bè, đồng nghiệp trong môi
trường học tập, đơn vị công tác, với bà con làng xóm. Thể hiện rõ vai trò, khả năng
lãnh đạo, tập hợp quần chúng, gương mẫu để xứng đáng trở thành đảng viên của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mở rộng các mối quan hệ xã hội, vận động gia đình, người thân tham gia vào
các phong trào ở địa phương, làm cho quần chúng phấn khởi và tin tưởng và sự 5
lãnh đạo của Đảng. Hết lòng phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Hiểu rõ và nắm vững quan điểm giai cấp, đường lối của Đảng, dựa vào quần
chúng nhân dân, giáo dục và phát động quần chúng thực hiện đúng chính sách
pháp luật của Nhà nước. Khiêm tốn, gần gũi nhân dân, thật thà, ngay thẳng, luôn
chăm lo đến đời sống của nhân dân.
Tăng cường tính kỷ luật, tự giác của bản thân, góp phần xây dựng sự đoàn kết,
nhất trí trong Đảng. Đoàn kết là sức mạnh, do đó phải đoàn kết, nhất trí để làm tròn
nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Giữ vững sự đoàn kết, nhất trí và kỷ luật của mỗi cá
nhân đảng viên là then chốt của thành công.
Thứ năm: Tích cực tham gia vào công tác xây dựng Đảng, các cấp ủy Đảng từ
Trung ương đến địa phương. Tôi nhận thức được rằng, bằng kiến thức, kinh
nghiệm của bản thân mình cần tham gia vào việc góp ý kiến, xây dựng chi bộ,
đảng bộ. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở Đảng bằng những việc làm cụ thể như
tham gia các phòng trào, hoạt động của đảng bộ, chi bộ với tinh thần trách nhiệm
cao trong công việc, chủ động, sáng tạo, góp phần đưa chủ trương của Đảng vào
cuộc sống. Kịp thời phản ánh những tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân với Đảng. Kiên quyết đấu tranh giữa vững ổn định chính trị – xã
hội ở cơ sở, đơn vị.
Tham gia đóng góp ý kiến, giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để
tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú đủ điểu
kiện, tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét kết nạp.
Thứ sáu: Không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, vận
động nhân dân sống và học tập theo pháp luật góp phần xây dựng đất nước giàu
mạnh, văn minh. Quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu xã hội
chủ nghĩa, tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng.
Thứ bảy: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng mà
Người để lại là vô giá. Học tập và làm theo tấm gương của người là nhiệm vụ rất
quan trọng, đồng thời cũng là niềm vinh dự của mỗi đảng viên.
Tinh thần của Người là tinh thần yêu nước, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân,
phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp
thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Học tập tư tưởng của Người, tôi nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn những hy
sinh to lớn của các thế hệ cha ông vì sự nghiệp thống nhất đất nước, trọn vẹn non
sông. Phát huy truyền thống anh hùng dân tộc bất khuất và lương tâm, trách nhiệm
của mỗi thế hệ người Việt Nam sau này. 6
Trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng của Đảng, có ý chí vươn lên,
quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu. Đoàn kết trong Đảng, đấu tranh với mọi
hành vi chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, lương tâm nghề nghiệp trong sáng.
Phát huy tình thần hiếu học, vận dụng những kiến thức khoa học kĩ thuật vào sản
xuất và đời sống. Ngăn chặn những biểu hiện trì trệ, lười học tập, lười lao động.
Biết quý trọng công sức lao động của tập thể, của nhân dân. Phải liêm chính,
không xa hoa, lãng phí, không chạy theo danh vọng, địa vị mà không màng đến lợi
ích của nhân dân. Bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải, không bao che, giấu giếm khuyết
điểm. Có thái độ lên án, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Trở thành Đảng viên là trăn trở khi thấy nhân dân còn gặp nhiều khó khăn do
đó phải biết chủ động lắng nghe, động viên, lãnh đạo nhân dân ra sức học tập, xây
dựng, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Có ý thức phê bình và tự phê bình,
nghiêm khắc với bản thân, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và lối sống.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Người trong việc nêu cao phẩm giá con
người Việt Nam trong thời kỳ mới. Giữ gìn chuẩn mực đạo đức, truyền thống dân
tộc trong quần chúng nhân dân. Lao động, học tập, công tác với tinh thần hăng say,
có chất lượng và hiệu quả cao.
Chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo danh vọng, lạm dụng
quyền hạn, giành giật lợi ích cho mình. Bảo vệ chân lý và quan điểm của Đảng,
chân thành, khiêm tốn, nói đi đôi với làm. Không thờ ơ, lãnh đạm với những khó
khăn của nhân dân. Không làm ẩu, bòn rút của công, loại bỏ những tiêu cực, bất
chính, tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội.
Mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng nhân dân, gắn bó với người dân, phê
phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng nhân dân, vi phạm kỷ
cương, kỷ luật của Đảng.
Tất cả vì nhân dân, dù bất cứ ở cương vị nào cũng phải gần dân, học dân,
không xa rời nhân dân, chia sẻ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, phát huy những
ưu điểm, sửa chữa những sai lầm, yếu kém.
Mở rộng tình đoàn kết quốc tế, chống áp bức, bất công. Tích cực, chủ động hội
nhập khu vực và quốc tế, hợp tác, cùng có lợi. Đa dạng hóa, đa phương hóa, có
tinh thần hữu nghị, đoàn kết quốc tế. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, chống chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
1.4. Nhiệm vụ của Người Đảng viên 7
Trung thành tuyệt đối với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng. “Hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi có sự phân công, điều động
của Đảng thì phải phục tùng tuyệt đối”.
Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, học tập, nâng cao trình độ
kiến thức, có lối sống lành mạnh. Tích cực tham gia phòng chống tham nhũng,
chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tôn trọng và gần gũi nhân dân.
Tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội, vận động quần chúng nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tham gia công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt Đảng, giữ kỷ luật, đoàn kết thống nhất trong Đảng. 8
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC
TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
Xây dựng đội ngũ đảng viên vốn là một nhiệm vụ hệ trọng và phức tạp, phải
giải quyết nhiều mối quan hệ nhằm đạt mục tiêu là tạo ra được một đội ngũ đảng
viên trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, của dân tộc; Có
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín lãnh đạo quần chúng tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Do vây, trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên phải thực sự có thái độ
nghiêm túc, cách làm khoa học. Trong chỉ dẫn của các nhà kinh điển và kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy, muốn xây dựng thành công đội ngũ đảng viên bảo đảm
chất lượng phải tuân theo những vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:
2.1. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi chính Đảng đều mang trong
mình bản chất chính trị riêng. Bản chất này xét cho cùng, đều do hệ tư tưởng,
đường lối và tính chất hành động của Đảng đó quy định. Ngoài ra, do trưởng thành
trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau mà mỗi Đảng viên còn có bản sắc, truyền thống riêng.
Sự khẳng định bản chất chính trị của một Đảng có ý nghĩa quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng. Nó vừa chỉ rõ mục tiêu xây dựng Đảng, vừa có giá trị
hiệu triệu những người có chung mục đích hướng về Đảng. Mơ hồ hoặc do dự
trong việc khẳng định bản chất Đảng sớm muộn sẽ làm mất phương hướng xây
dựng đội ngũ của Đảng. Kinh nghiệm cho thấy, trong mọi thời kỳ, đặc biệt ở
những thời điểm cách mạng gặp khó khăn, việc khẳng định lập trường chính trị
trong xây dựng Đảng càng trở nên bức thiết, nó liên quan đến sự tồn vong của một Đảng.
Trong lịch sử xây dựng Đảng ta, Đảng luôn luôn khẳng định phương hướng
tăng cường bản chất giai cấp công nhân, phấn đấu xây dựng một Đảng Mác -
Lênin chân chính. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới, nhất là
trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp hiện nay, Đại hội VII của
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa”2.
Để giữ vững bản chất chính trị của mình, “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
2 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 3 - 4. 9
đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”3. Trước sau như một,
Đảng xác định toàn bộ hoạt động của mình là lấy việc phục vụ Tổ quốc, phục vụ
giai cấp và phục vụ nhân dân làm mục đích cao nhất, ngoài ra Đảng không còn lợi
ích nào khác. Đó là bản chất của Đảng ta, đồng thời cũng chính là phương hướng
chính trị chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ Đảng viên của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2.2. Xác định đúng đắn những điều kiện của người trở thành đảng viên
Điều kiện trở thành đảng viên và các nguyên tắc kết nạp người vào Đảng là
những vấn đề then chốt trong việc hình thành Đảng. Đây là một trong những điểm
trọng yếu nhất thường diễn ra cuộc đấu tranh giữa một bên là lập trường cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin với những trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại đủ mọi màu sắc.
Với mục đích xây dựng thành công một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Điều 1 “Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam” đã
chỉ rõ những điều kiện của người được xét để công nhận là Đảng viên của Đảng.
Để bảo đảm bản chất cách mạng, khoa học của Đảng, hướng lựa chọn kết nạp
Đảng viên phải là những người trải qua rèn luyện trong phong trào cách mạng, đã
chứng tỏ là người ưu tú nhất trong quần chúng có giác ngộ về lý tưởng về cộng
sản chủ nghĩa, có động cơ vào Đảng đúng đắn, trung thành với Tổ quốc, với chủ
nghĩa xã hội, gương mẫu và phát huy tác dụng tích cực trong lao động, sản xuất,
công tác và học tập, có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín
nhiệm. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, phải tiếp tục phương hướng trên, song
cần chú ý chỉ đạo phát triển Đảng nhằm tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa đội
ngũ, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng.
Cùng với việc đề ra các điều kiện trở thành Đảng viên, nhất thiết phải có những
nguyên tắc kết nạp người vào Đảng phù hợp với bản chất và tính tiên phong của
đảng. Những nguyên tắc này phải bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ, song cũng phải
tránh định kiến, hẹp hòi. Chỉ như vậy, mới thực sự làm cho Đảng thu hút được
những người ưu tú, đồng thời ngăn ngừa được những phần tử cơ hội và những
người chưa đủ điều kiện vào Đảng. Những quy định về thủ tục kết nạp, về thời kì
dự bị và quy trình xét công nhận Đảng viên chính thức đều có tác dụng góp phần
làm nội bộ Đảng trong sạch.
2.3. Tổ chức lãnh đạo hoạt động của đội ngũ đảng viên
Là một Đảng hành động, nên đội ngũ đảng viên của Đảng nhất thiết phải được
đưa vào hoạt động thực tiễn, song có tổ chức, phải có lãnh đạo chung. Để vừa
thống nhất lãnh đạo hoạt động, vừa phát huy vai trò tự giác, sáng tạo của người 3 Sdd, trang 3 và 4. 10
đảng viên, Đảng phải xác định phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của người đảng
viên. Chỉ như vậy, những hoạt động của đảng viên mới thiết thực góp phần tạo nên
những chuyển biến chung trong hoạt động lãnh đạo của đảng.
Căn cứ vào vai trò của người đảng viên và những yêu cầu cơ bản trong việc
xây dựng Đảng ta, điều lệ Đảng đã quy định rõ nhiệm vụ cơ bản của người đảng viên là: -
Phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, pháp luật
của nhà nước và nhiệm vụ được giao. -
Phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã
hội ở nơi làm việc và nơi ở. Tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách và pháp luật. -
Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chính trị, kiến
thức năng lực công tác, phẩm chất đạo đức cách mạng, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực. -
Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của
Đảng, phục tùng kỉ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự
phê bình và phê bình, trung thực với Đảng, tuyên truyền phát triển ảnh hưởng của
Đảng, làm công tác kết nạp Đảng viên mới tham gia sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí theo quy định.
Thông qua rèn luyện và hoạt động thực tiễn, trong đội ngũ đảng viên xuất hiện
các mức độ phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ không như nhau, chính vì thế, vấn đề
sàng lọc đội ngũ Đảng viên phải được tiến hành thường xuyên. Đề việc phân tích
chất lượng đảng viên đúng và quá trình sàng lọc chính xác, Đảng ta chỉ rõ tiêu
chuẩn người đảng viên trong giai đoạn hiện nay là: “Đảng viên phải là người có
giác ngộ chính trị, trung thành với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích
tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; có đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn
bó với quần chúng; gương mẫu và phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác và
quản lý giỏi, hoàn thành nhiệm vụ được giao, chấp hành đúng Điều lệ Đảng và
pháp luật Nhà nước; thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức và năng
lực công tác, có ý thức tổ chức kỉ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”4
Việc sàng lọc đội ngũ đảng viên phải trên cơ sở nắm vững tiêu chuẩn đảng viên
và có những giải pháp đúng đắn, cụ thể với từng loại. Trong tình hình của Đảng ta
hiện nay, cần quán triệt phương hướng giải quyết sau:
4 Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), tr 37 11 -
Bồi dưỡng và phát huy những đồng chí giữ được tư cách đảng viên,
có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có trình độ và năng lực hoàn thành nhiệm
vụ, được quần chúng tín nhiệm. -
Giúp đỡ những đồng chí hạn chế về kiến thức năng lực hoặc hoàn
cảnh khó khăn. Những trường hợp không khắc phục được khó khăn hoặc không
còn khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ thì bản thân tự xem xét hoặc chi bộ
động viên các đồng chí đó tự nguyện rút ra khỏi Đảng; tổ chức Đảng có thẩm
quyền cấp giấy xác nhận tuổi Đảng và thường xuyên quan tâm giúp đỡ. Những
người lạc hậu về chính trị không còn tha thiết với Đảng, không còn tác dụng với
quần chúng thì vận động họ ra khỏi Đảng. -
Giáo dục, xử lý hoặc định thời hạn phấn đấu cho những đảng viên vi
phạm sinh hoạt Đảng không hoàn thành nhiệm vụ được giao, nếu không có chuyển
biến thì đưa ra khỏi Đảng. -
Xử lý nghiêm khắc những người cơ hội về chính trị, nói và làm trái
quan điểm, đường lối của Đảng, tham nhũng, thoái hóa, biến chất, bị quần chúng oán ghét.
Cũng như vấn đề kết nạp đảng viên, các hoạt động phân tích, chọn lọc, đưa
người ra khỏi Đảng phải đúng các nguyên tắc thủ tục chặt chẽ
2.4. Triệt để khai thác yếu tố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Với mục đích luôn làm cho Đảng vững mạnh trong mọi thời kỳ, mọi tình
huống, công tác xây dựng Đảng đòi hỏi phải khai thác triệt để những yếu tố, những
khả năng cho phép nhằm tổ chức sự lãnh đạo của Đảng có hiệu quả nhất. Trong
lĩnh vực xây dựng đội ngũ đảng viên, cần khai thác những yếu tố cơ bản sau đây:
Một là: Cần có một cơ cấu đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của
Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng khai
triển ở các lĩnh vực trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong xử lí vấn đề này cần
chống khuynh hướng nặng về cơ cấu đội ngũ mà hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên. Hậu
quả của tình trạng này là bệnh hình thức nặng về chỉ tiêu mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng.
Hai là: Trên cơ sở coi trọng, bảo đảm chất lượng cần tính đến số lượng đảng
viên cần thiết đáp ứng quy mô của sự lãnh đạo, tuy nhiên cần phải chống khuynh
hướng chạy theo số lượng thuần túy, coi nhẹ chất lượng.
Kinh nghiệm chung trong xây dựng Đảng của các Đảng Cộng sản cho thấy,
đây là những vấn đề rất khoa học, có tác dụng to lớn tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng. Tuy nhiên việc xử lý những yêu cầu trên có hiệu quả đòi hỏi các cấp bộ
Đảng phải nắm vững những vấn đề có tính nguyên tắc, vận dụng linh hoạt trong 12
những hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, tùy tiện xa rời nguyên tắc hoặc giáo điều, máy
móc trong xử lý các yêu cầu trên sẽ đưa lại hậu quả là Đảng đông mà không mạnh.
Trong quá trình xây dựng đội ngũ đảng viên, phải đồng thời xây dựng một hệ
thống tổ chức thật sự khoa học hợp lý để quản lý, lãnh đạo đảng viên. Việc phải
đưa đảng viên vào hệ thống tổ chức để quản lý, lãnh đạo xuất phát từ hai lẽ:
Một la, trong thực tiễn, mỗi hoạt động của người đảng viên đều liên quan trực
tiếp đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Hai là, chỉ có gắn mình trong một tổ chức, sức mạnh của người đảng viên và tổ
chức Đảng mới được phát huy.
Do vậy, trong quá trình xây dựng đội ngũ đảng viên phải đồng thời xây dựng
hệ thống tổ chức phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng Đảng để quản lý
lãnh đạo mọi hoạt của người đảng viên. Song, cho dù hình thức hệ thông tố chức
của mỗi Đảng có thể có sự khác nhau nhưng loại hình tổ chức quản lý trực tiếp
đảng viên là chi bộ Đảng. Đây là loại hình tổ chức tế bào nhỏ nhất của tổ chức
đảng, trực tiếp quản lý và tổ chức sự lãnh đạo của đảng viên.
Theo nguyên tắc của một Đảng kiểu mới, mọi đảng viên đều phải tham gia sinh
hoạt trong một tổ chức nhất định của Đảng mà cụ thể, trực tiếp là trong một chi bộ,
không có ngoại lệ. Chi bộ có trách nhiệm quản lý, giáo dục và tổ chức lãnh đạo
mọi hoạt động của người đảng viên. Kinh nghiệm chung cho thấy, để việc quản lý,
lãnh đạo đảng viên có hiệu quả, chi bộ phải giữ đúng chế độ sinh hoạt, giữ nghiêm
minh kỉ luật Đảng, nội dung sinh hoạt phải phong phú, phương hướng lãnh đạo
phải cụ thể, phải thiết thực.
2.5. Y thức xây dựng, bảo vệ Đảng và bồi dưỡng Đảng
Xét đến cùng, sự nghiệp xây dựng Đảng chỉ thành công khi có sự nổ lực cao
của cán bộ, đảng viên. Do vậy, việc giáo dục ý thức trách nhiệm xây dựng Đảng
cho cán bộ, đảng viên là vấn đề thường xuyên và có tầm quan trọng đặc biệt. Để
những cố gắng phấn đấu của cán bộ, đảng viên trên lĩnh vực này có hiệu quả, yêu
cầu các cấp chỉ đạo (đặc biệt cấp chỉ đạo vĩ mô) phải làm rõ những vấn đề cơ bản:
Tư cách, nhiệm vụ, quyền hạn của đảng viên. Chỉ như vậy, người đảng viên mới có
căn cứ, phương hướng hoạt động rõ ràng, mọi hành vi của họ mới thiết thực góp
phần xây dựng đội ngũ đảng viên.
Đối với các cấp bộ Đảng (trực tiếp là trách nhiệm của các chi bộ) phải tuân thủ
các nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Đối với mỗi đảng viên phải nêu cao ý thức xây
dựng Đảng, nghiêm túc thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình để làm cho bản
thân và tổ chức đảng không ngừng trưởng thành, phát triển. 13
Xây dựng và bảo vệ Đảng là hai nhiệm vụ cơ bản, gắn bó trong suốt quá trình
trưởng thành của Đảng. Đảng phải thường xuyên giáo dục ý thức trách nhiệm bảo
vệ Đảng cho đội ngũ đảng viên.
Trong tình hình hiện nay, để làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”,
nhiệm vụ tự bảo vệ mình càng trở nên cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt đối
với các Đảng Cộng sản cầm quyền, nó liên quan trực tiếp đến sự sống còn của
Đảng và vận mệnh của mỗi quốc gia dân tộc, nhận thức được vấn đề đó, Đảng ta
đã yêu cầu đội ngũ đảng viên phải nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ vững chính
trị nội bộ trong tình hình mới.
Do nhiệm vụ cách mạng luôn vân động phát triển, yêu cầu đội ngũ đảng viên
phải thường xuyên nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và phong cách
là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, phải tùy theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị từng
giai đọan và từng điều kiện cụ thể của người đảng viên để có nội dung bồi dưỡng, giáo dục cho phù hợp.
2.6 Thường xuyên chấn chỉnh đội ngũ
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp của cách mạng đội ngũ đảng viên phải
đương đầu với những khó khăn, thử thách. Chính qua sự kiểm nghiệm của thực
tiễn mới thấy được mức độ rèn luyện, thấy được điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ
đảng viên. Vì vậy, chấn chỉnh, củng cố đội ngũ, làm cho Đảng luôn đủ sức lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng. Nếu
việc chấn chỉnh củng cố đội ngũ đảng viên được tiến hành thường xuyên, nghiêm
túc sẽ bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh của mình trong
bất kì hoàn cảnh nào. Ngược lại, tuy hoàn cảnh thuận lợi, nhưng chủ quan, lơ là
việc chấn chỉnh, củng cố đội ngũ, sớm muộn sẽ làm cho Đảng mất sức chiến đấu
và khó vượt qua những khó khăn, thử thách nghiêm trọng.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, chấn chỉnh đội ngũ đảng viên phải là việc làm
thường xuyên, song cần phải đặc biệt chú trọng ở những thời điểm trước và sau
những bước ngoặt cách mạng. Và ở những thời điểm này, Đảng thường đứng trước
những thử thách to lớn và phức tạp. Trước bước ngoặt cách mạng, đòi hỏi toàn
Đảng phải có những nỗ lực vượt bậc mới hoàn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, chấn
chỉnh, xiết chặt đội ngũ ở thời điểm này là sự chuẩn bị cần thiết đảm bảo cho Đảng
lãnh đạo giành thắng lợi.
Sau những bước ngoặt cách mạng, việc chấn chỉnh đội ngũ vẫn phải đặt ra, vì
nếu gặp thuận lợi, trong Đảng dễ nảy sinh tư tưởng chủ quan, thỏa mãn; ngược lại
nếu cách mạng gặp khó khăn hoặc thất bại tạm thời lại dễ bi quan, giao động. Đây
là những nguy cơ chung đối với các Đảng Cộng sản, song nguy cơ đó càng tăng
hơn đối với những Đảng có phần đông đảng viên xuất thân từ thành phần không 14
phải là vô sản, nhất là khi Đảng thiếu quan tâm giáo dục, rèn luyện lập trường giai
cấp công nhân. Kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng Đảng ta của chủ tịch Hồ Chí Minh
cho thấy: Để tránh lúng túng, bị động sau những bước ngoặt cách mạng, cấp chỉ
đạo vi mô của Đảng phải nắm vững xu thế vận động của cách mạng, dự đóan chính
xác diễn biến tình hình để sớm có kế hoạch chấn chỉnh, củng cố Đảng cho phù hợp. 15
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA
ĐẢNG HIỆN NAY VÀ NHIỆM VỤ CHỈNH ĐỐN ĐỘI NGŨ ĐẢNG
VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
3.1. Thực trạng đội ngũ đảng viên của Đảng
Trải qua cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và sau nhiều năm tiến hành công
cuộc đổi mới, số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung
ương đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách.
Nhất là trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới hiện nay,
đảng viên của Đảng vẫn vững vàng kiên định và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ đảng viên của Đảng ta đang ở trong một tình trạng
không bình thường: Đảng đông nhưng không mạnh. Toàn Đảng có trên 2,1 triệu
đảng viên nhưng bộ phận thực sự tiền phong gương mẫu, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới cả về năng lực, phẩm chất chiếm tỉ lệ chưa cao. Riêng số đảng
viên là người hưu trí đã chiếm 23% tổng số đảng viên. Nhiều đồng chí có phẩm
chất chính trị vững vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng hạn
chế về sức khỏe và khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên tuổi chưa cao,
được rèn luyện trong chiến tranh, nhưng ít có điều kiện học tập và nâng cao trình
độ nay không theo kịp nhiệm vụ mới. Đảng lo ngại nhất là: Nhiều đảng viên giảm
sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát huy được vai trò tích cực trong
quần chúng. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi
dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu,
làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối sống cách mạng có chiều hướng tăng lên,
nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh, quản lý Nhà nước và ngay cả
trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan Đảng và đoàn thể. Trên thực tế,
một số bộ phận đảng viên đã tha hóa, tham nhũng, xa rời quần chúng nhân dân làm
giảm sút nghiêm trong uy tín của Đảng.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là chưa thật sự coi trọng công tác xây
dựng Đảng, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên. Đặc biệt là chưa kịp
thời chỉnh đốn Đảng ngay sau khi nước nhà thống nhất theo di chúc của chủ tịch
Hồ Chí Minh, nên những thiếu sót, khuyết điểm trong Đảng tích tụ lại đến mức độ
trầm trọng như hiện nay.
3.2. Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên của Đảng trong công cuộc đổi mới
Thực trạng hiện nay cho thấy, đội ngũ đảng viên còn khoảng cách xa so với yêu cầu
của công cuộc đổi mới. Vì vậy, việc chỉnh đốn đội ngũ đảng viên là vấn đề tất yếu, cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng. 16
Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên là một cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao
sức chiến đấu của Đảng. Nó không chỉ tác động lớn về chính trị, tư tưởng, tổ chức
trong Đảng, mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống tinh thần, xã hội. Nếu có bước đi,
cách làm khoa học, đúng đắn thì dù tình hình phức tạp đến đâu cũng có thể vượt
qua được; ngược lại tình hình chưa thật nghiêm trọng, nhưng cách làm thiếu thận
trọng, thiếu khoa học sẽ gây ra những rối ren, hậu quả không thể lường được. Để
cuộc chỉnh đốn đội ngũ đảng viên có hiệu quả, cần phải giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là: Phải chuẩn bị tốt trên lĩnh vực tư tưởng.
Là một cuộc vận động có ý nghĩa to lớn, với nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, muốn
tiến hành có hiệu quả, trước hết phải làm tốt công tác tư tưởng cả trong Đảng và
trong quần chúng. Tinh thần cuộc chỉnh đốn đội ngũ đảng phải được quán triệt sâu
sắc trong toàn Đảng, từ các cấp ủy Đảng đến mỗi đảng viên, trong các cơ quan
Nhà nước và các đoàn thể xã hội, đến từng người dân để họ hiểu và tích cực tham
gia, hưởng ứng cuộc chỉnh đốn.
Trên lĩnh vực tư tưởng, trước hết phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ
sự cần thiết, tính chất khó khăn, phức tạp của cuộc chỉnh đốn đội ngũ, xác định rõ
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với quá trình này, để từ đó có ý thức, thái độ
đúng đắn trong xây dựng Đảng. Cũng từ tính chất khó khăn, phức tạp đó mà chuẩn
bị cho cán bộ, đảng viên tinh thần kiên trì, bền bỉ vì sự trong sạch, vững mạnh của
Đảng, tránh chủ quan, nóng vội hoặc tự ty, nản chí trước khó khăn.
Cuối cùng, công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên quán triệt được
mục tiêu của chỉnh đốn đội ngũ là phải đưa công tác xây dựng đội ngũ đảng viên
vào nề nếp khoa học đúng nguyên tắc, tạo ra được một đội ngũ đảng viên đáp ứng
yêu cầu công cuộc đổi mới. Đồng thời bảo đảm sự ổn định về chính trị, khôi phục
và củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động.
Hai là: phải có những giải pháp toàn diện, đồng bộ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là một trong những vấn đề cơ bản,
trung tâm có liên quan chiều mặt, nhiều lĩnh vực trong xây dựng Đảng. Vì vậy,
muốn đổi mới, chỉnh đốn thành công đội ngũ đảng viên, nhất thiết phải thực hiện
công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng,
tổ chức; tiếp tục gắn liền đổi mới nền kinh tế - xã hội. Việc triển khai chỉ đạo,
chỉnh đốn đội ngũ đảng viên phải gắn chặt với việc kiện toàn tổ chức đảng (trực
tiếp là các chi bộ và tổ chức cơ sở), kết hợp chỉnh đốn đội ngũ đảng viên với cuộc
đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực ngoài xã hội.
Tính toàn diện, đồng bộ còn thể hiện ở sự phân cấp trách nhiệm rõ ràng trong
cuộc chỉnh đốn đội ngũ đảng từ cấp chỉ đạo vĩ mô đến tận từng cơ sở đảng, từng 17
chi bộ và đảng viên. Trong đó, cấp chỉ đạo vĩ mô phải xác định rõ những vấn đề
cơ bản để xây dựng Đảng trong điều kiện đổi mới như: về phương hướng xây dựng
Đảng, về tiêu chuẩn đảng viên, về kế hoạch hướng dẫn, chỉ đạo toàn bộ quá trình chỉnh đốn Đảng...
Các cấp trên cấp cơ sở phải nắm vững chủ trương, có kế hoạch vận dụng chỉ
đạo việc chỉnh đốn đội ngũ đảng viên trong phạm vi quản lý, lãnh đạo của mình.
Các tổ chức cơ sở và chi bộ đảng là cấp trực tiếp thực hiện, nên phải quán triệt
đúng tinh thần, kế hoạch chỉnh đốn Đảng theo nguyên tắc tiến hành rà soát, phân
tích chất lượng đội ngũ, tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, đưa
ngay những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng, kết nạp người thực sự đủ tiêu
chuẩn vào Đảng, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đảng viên.
Ba là: phải khoa học, thận trọng vững chắc, kết hợp nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên với kiện toàn chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng.
Tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế là khâu trung tâm quyết định toàn bộ
quá trình chỉnh đốn đảng viên. Về nguyên tắc, trong cuộc chỉnh đốn đội ngũ, tất cả
các đảng viên đều được xem xét, đánh giá, không có ngoại lệ. Tuy nhiên, muốn để
cuộc vận động tiến triển thuận lợi, cùng với việc rà soát toàn bộ đội ngũ, cần xác
định đúng trọng điểm, tập trung giải quyết những “mắt khâu” then chốt, quan
trọng. Đồng thời yêu cầu những cán bộ cấp càng cao, càng phải gương mẫu trong
việc chỉnh đốn đảng để có tác dụng thúc đẩy cấp dưới thực hiện.
Việc triển khai thực hiện phải được tiến hành trong các cấp bộ đảng. Tổ chức
đảng phải chú trọng đến các cơ sở đang có vấn đề phức tạp nảy sinh gây ảnh
hưởng xấu trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác chấn chỉnh đội ngũ phải coi trọng trên cả ba mặt: bồi dưỡng, nâng cao
năng lực, phẩm chất đảng viên (nhất là năng lực lãnh đạo kinh tế trong điều kiện
phát triển kinh tế hàng hóa), đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng
và kết nạp đảng viên mới.
Song, với thực trạng của Đảng ta, trong những năm đầu của cuộc chỉnh đốn
phải kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Thông qua công tác kiểm tra của
Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét đánh giá đúng đảng viên. Để giữ gìn sự
trong sạch của Đảng, cần phải đưa ra khỏi Đảng những người không còn tư cách
đảng viên, “trước hết là những đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, cơ hội,
gây chia rẽ, bè phái, trù dập ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời
xử lý bằng những hình thức lỉ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỉ
luật đảng, dù đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào”5 5 Sđd, tr 25 18
Trong cuộc chỉnh đốn đội ngũ đảng viên theo tinh thần Đại hội VII, cần kiên
quyết xóa tên trong danh sách đảng viên những người không thiết tha với Đảng,
giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không còn tín
nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không đóng
đảng phí ba tháng trong năm mà không có lí do chính đáng. Tập trung chỉ đạo kiên
quyết, có hiệu quả những công việc trên đây mới khắc phục được “sức ỳ” lớn trong
Đảng hiện nay, nhằm nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên phải được tiến hành đồng thời với việc kiện toàn
hệ thống tổ chức của Đảng, mà trực tiếp là việc kiện toàn các chi bộ, các tổ chức
cơ sở đảng và các cấp ủy đảng. Đó là con đường bảo đảm vững chắc kết quả chỉnh
đốn đội ngũ đảng viên.
Theo phương hướng đó, phải nghiên cứu cải tiến sinh hoạt Đảng, nhất là sinh
hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt
những nhiệm vụ do chi bộ phân công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức
chấp hành đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; về đạo đức,
lối sống, quan hệ với quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở. Phải có kế hoạch chỉ đạo
kiện toàn các tổ chức cơ sở, thu hẹp diện cơ sở yếu kém, tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm, xây dựng những tổ chức cơ sở đảng vững mạnh.
Bốn là: kiểm tra chặt chẽ việc tổ chức thực hiện, thường xuyên rút kinh nghiệm
từng bước đưa công tác xây dựng đội ngũ đảng viên trở về nề nếp theo nguyên tắc khoa học
Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ lớn được triển khai trong các tổ chức
đảng với sự tham gia của đội ngũ đảng viên. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về
trình độ nhận thức, về ý thức trách nhiệm, về tinh thần tự phê bình và phê
bình..v..v.. nên nếu không kiểm tra, uốn nắn sẽ dễ xuất hiện các lệch lạc trong tổ chức thực hiện.
Qua sơ kết bước đầu, Đảng ta đã chỉ ra hai khuynh hướng cần khắc phục là:
Hữu khuynh, nể nang, làm lướt và tả khuynh, tiến hành không có lý, có tình. Riêng
những nơi mất đoàn kết nội bộ cần đề phòng các thủ đoạn lợi đụng cơ hội này để
trừng trị, thanh lọc nhau.
Rõ ràng là khi có sự kiểm tra nghiêm túc, chặt chẽ, mới đảm bảo cho nhiệm vụ
chỉnh đốn đội ngũ đảng viên theo mục tiêu, yêu cầu đề ra. Ngược lại, khi đã quan
liêu, buông lỏng kiểm tra, càng đẩy mạnh chỉnh đốn, càng làm cho nội bộ Đảng bị
chia rẽ. Do đó, cuộc chỉnh đốn đội ngũ đảng viên sẽ mất dần ý nghĩa, và trở thành
nguồn gốc của sự không ổn định.
Trên thực tế, Đảng ta đã tiến hành chấn chỉnh đội ngũ đảng viên trong một tình
hình hết sức khó khăn; thực trạng của đội ngũ đảng viên rất trì trệ; Đảng chưa có