-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế | Tiểu luận môn Pháp luật đại cương
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay thì vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam lại càng được đặt ra nghiên cứu và xem xét hơn bao giờ hết. Qua đó đòi hỏi cần phải có những chính sách, chủ trương lộ trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền một cách phù hợp, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (GELA220405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
KHOA : ĐIỆN - ĐIỆN TỬ ----------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG ***
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ GVHD:
TS. Phạm Công Thiên Đỉnh Lớp HP: 19CLC_T2_Tiết 10-12 Nhóm SV: Nhóm 09
Họ và tên thành viên MSSV Hoàng Anh Khoa 23151127 Nguyễn Tuấn Phong 23151156 Nguyễn Đình Khánh 23151122 Phạm Hải Nam 23151144
Nguyễn Đoàn Tấn Tiến 23151186
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11, năm 2023
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ STT Họ Tên MSSV Nhiệm Vụ Ký tên Điểm số 1 Hoàng Anh Khoa 23151127
Phần mở đầu, kết luận, 1.1 =>1.5 2 Nguyễn Tuấn Phong 23151156 1.6 => 1.7 3 Nguyễn Đình 23151122 2.1 => 2.2 Khánh 4 Phạm Hải Nam 23151144 Chỉnh sửa bản mềm tiểu luận, 2.3 => 2.4 5 Nguyễn Đoàn Tấn 23151186 3.1 => 3.3 Tiến
Nhận xét của giáo viên ….
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………… ……………….….
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………… ….….
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………… ….….…. KÝ TÊN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT XHCN
: Xã hội chủ nghĩa ĐCSVN
: Đảng cộng sản Việt Nam MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1.
Lý do lựa chọn đề tài......................................................................................1 2.
Tình hình nghiên cứu.....................................................................................1 3.
Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................1 4.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.....................................................................1 5.
Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2 6.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.......................................................................2 7.
Kết cấu............................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN..................................3 1.1.
Định nghĩa nhà nước pháp quyền..............................................................3 1.2.
Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế....................................................................4 1.3.
Bản chất, đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa............4 1.4.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền............................................................8 1.5.
Cơ sở của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam................11 1.6.
Cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.............13 1.7.
Nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam......................................................................................................14
CHƯƠNG II...............................................................................................................15
THỰC TIỄN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.....................................15 2.1.
Bối cảnh hội nhập quốc tế.........................................................................15 2.2.
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN hiện nay.................................................................................16 2.3.
Chủ trương của Đảng ta đối với công tác xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế...................................................18 2.4.
Thời cơ và thành tựu của công tác xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế tại Việt Nam........................................19
CHƯƠNG III.............................................................................................................22
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ.......................................................................................................22 3.1.
Những thách thức đặt ra đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế...................................22 3.2.
Những lưu khi đối với Đảng ta khi xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế...............................................................25 3.3.
Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phù hợp với bối cảnh
hội nhập quốc tế.....................................................................................................27
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................31 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay thì vấn đề
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam lại càng được đặt ra nghiên cứu và xem
xét hơn bao giờ hết. Qua đó đòi hỏi cần phải có những chính sách, chủ trương lộ trình
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền một cách phù hợp, không chỉ phù hợp
với tình hình thực tiễn ở nước ta mà còn đảm bảo được sự hài hòa đối với quá trình hội
nhập như hiện nay. Chính vì lẽ em lựa chọn đề tài “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” để làm cơ sở tìm
hiểu về việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
qua đó có được cái nhìn khái quát hơn về hoạt động này.
2. Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế đã và đang được nhiều cơ quan nhà nước, tác giả quan tâm và nghiên
cứu. Trong đó kể đến bài viết “Hội nhập quốc tế và tiến trình hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đăng trên trang điện tử Bộ Tư Pháp; bài viết
“Đánh giá tác động của hội nhập quốc tế đến xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam” đăng trên báo điện tử Chính Phủ… Từ cơ sở các bài viết nêu trên, em nhận
thấy các bài viết sẽ tập trung nghiên cứu vào một lĩnh vực cụ thể, và ít có một bài viết
trình bày đầy đủ về nhà nước pháp quyền cũng như vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chính vì vậy việc xây dựng lên một bài
viết đầy đủ về các vấn đề này là cần thiết và phù hợp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài có mục tiêu là tìm hiểu về nhà nước pháp quyền và qua
đó đưa ra các giải pháp để nâng cao công tác xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: đề tài tập trung nghiên cứu về đối tượng là nhà nước pháp quyền và
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Phạm vi: đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay 1
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài, em tập trung xây dựng lên các phương pháp như tổng hợp,
phân tích, so sánh và phương pháp thực nghiệm.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc nghiên cứu và giải quyết đề tài sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ
đối với khoa học và thực tiễn. Về khoa học, sẽ giúp bổ sung các cơ sở lý luận liên quan
tới nhà nước pháp quyền nói chung và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn sẽ là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền, nhà nghiên
cứu xem xét về thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh mới –
hội nhập quốc tế và các giải pháp đặt ra để nâng cao công tác xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. 7. Kết cấu
Về kết cấu của khóa luận bao gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương I. Khái quát về nhà nước pháp quyền
Chương II. Thực tiễn quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Chương III. Những thách thức đặt ra và giải pháp về công tác xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Với kết kết đi từ giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn, sẽ giải quyết được một
cách hiệu quả đề tài và qua đó đưa ra được góc nhìn tổng quan về đề tài. 2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN I.1.
Định nghĩa nhà nước pháp quyền
Ở nước ta, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(29/11/1991) và được củng cố tại Hội nghị toàn quốc. giữa Đại hội Đảng lần thứ 7
năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Sau này, tại Đại hội X, XI,
nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta có bước phát
triển về chất trong nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Nội dung Điều 2 Hiến pháp (2013) phải thể chế hóa tầm nhìn của Đảng về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước nhân dân dựa trên pháp luật xã hội chủ nghĩa; Việt Nam
là của nhân dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, dựa trên sự liên minh
của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Với bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc như sau:
(1) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
(2) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật
gốc mang tính nền tảng;
(3) Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình
đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối
xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội; 3
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật;
(5) Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của
công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong
khuôn khổ luật pháp. I.2.
Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và trong bối cảnh hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan. Tính tất yếu
khách quan này được quy định bởi đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ tư bản chủ nghĩa là nhà nước có dân
luật - bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản thông qua dân luật. Theo chế độ xã hội chủ
nghĩa thì phải có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - bảo vệ quyền lợi của giai
cấp công nhân thông qua pháp luật của nhân dân lao động và của nhân dân lao động.
Sự tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cũng xuất phát từ đặc điểm, điều kiện lịch sử của đất nước Việt Nam. Việt Nam
đi lên chủ nghĩa xã hội không phải từ một nước tư bản phát triển mà từ một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng nhà nước dân chủ
nhân dân rồi thành nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình này đòi hỏi “Phát triển dân
chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển này và kiểm nghiệm những
hình thức đó trong thực tế”
Ngoài ra, trong tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay, chúng ta cũng
phải nâng cao việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh
mới - hội nhập quốc tế - bởi nếu không thích ứng để bảo đảm thống nhất với tiến trình
hội nhập quốc tế và trong nước thì sẽ rất khó tạo được sự đột phá, tương thích và phát triển.
Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách
quan của quá trình chuyển đổi nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân thành nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sự tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có thể thấy ở chỗ nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là hình thức sử dụng tối ưu quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bởi vì
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một phương thức tổ chức dân chủ và quyền
lực nhà nước, trong đó pháp luật là cơ sở để thực hiện dân chủ, thực hiện quyền lực,
thực hiện các quyền, nghĩa vụ và phục vụ mọi chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, trong thế
kỷ 21 này, việc xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành một yêu cầu quý giá đối với 4
các quốc gia; một hướng đi khách quan tất yếu đối với các nước dân chủ trong thế giới
hiện đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung này. I.3.
Bản chất, đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Về cơ bản, ngay giữa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1994), khi Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà
nước pháp quyền đã khẳng định bản chất của nó. Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
“Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật”.
Kể từ Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tăng cường bản chất nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước. thống nhất và thuộc về nhân dân. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhân dân có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân và
nhân dân giao quyền lực cho nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhân
dân có nghĩa là nhân dân bỏ phiếu trực tiếp, phổ thông hoặc bầu các cơ quan chính
quyền một cách gián tiếp thông qua người đại diện của mình và người đại diện của họ
tham gia quản lý quyền lực. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì dân có nghĩa là
mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải phục vụ nhân dân, nếu không phục
vụ nhân dân hoặc không vì nhân dân thì phải thay đổi.
Như vậy, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đất
nước chịu sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Vì vậy, pháp luật trong nhà nước pháp
quyền phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm sự bình
đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người. Căn cứ vào tính chất nêu trên của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn về cấu trúc nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta có thể chỉ ra một số nét cơ
bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam, đất nước theo pháp luật xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ.
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của
chế độ nhà nước
Tập trung càng cao thì dân chủ càng được mở rộng, và ngược lại. Tập trung ở
đây không phải là tập trung quan liêu, với tập trung độc đoán. Dân chủ ở đây là dân
chủ thực sự, chứ không phải dân chủ mang tính hình thức, hay dân chủ “không giới 5
hạn”, dân chủ cực đoan, muốn làm gì thì làm. Tập trung trên cơ sở dân chủ thì tập
trung sẽ thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng cao hơn. Tập trung là đòi hỏi của
chính bản thân dân chủ. Ngược lại, một nền dân chủ dựa trên sự tập trung hóa dễ dàng
đạt được mức độ thống nhất cao. Bản thân nền dân chủ lúc đó đã trở thành một yêu
cầu của sự tập trung hóa. Dân chủ mà không tập trung hóa thực chất là mất dân chủ.
Tập trung hóa không có dân chủ về cơ bản là phi tập trung hóa.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ cơ bản của mọi hoạt động nhà nước và xã hội, quyết định tính hợp hiến, hợp
pháp của mọi tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải hệ
thống hiến pháp, pháp luật nào cũng có thể bảo đảm khả năng xây dựng nhà nước pháp
quyền mà hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể là nền tảng
pháp quyền của nhà nước và xã hội.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Nhân quyền là một tiêu chí quan trọng để đánh giá nguyên tắc pháp quyền của
nền hành chính công. Hoạt động của nhà nước phải dựa trên sự tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, tạo điều kiện để mọi người thực hiện quyền của mình theo quy định
của pháp luật. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được pháp luật quy định chặt
chẽ và bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được xác định bởi những
nguyên tắc cụ thể, bao gồm: Thể chế nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho
phép; Công dân có quyền làm bất cứ điều gì trừ những gì pháp luật cấm.
Thứ tư, Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực
Thực tế cho thấy tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà
nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều
có điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ
quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và 6
thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ
thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và
công bằng, minh bạch. Chính vì vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là
một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn
được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Về hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có
thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất
khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến
pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến
pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp
thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ sáu, Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước sẽ được giới hạn
trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội
Ở mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường,
theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường,
thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các
mặt tiêu cực của thị trường.
Với mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội,
tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ
chức xã hội, các cộng đồng xã hội). Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối
quan hệ tương tác, quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế
và xã hội mà nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và
xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện những tư tưởng quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công
lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp. 7
Như vậy với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát
vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng. I.4.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền
Sự thật cho thấy tư tưởng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện sớm trong lịch
sử ở phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông, trường phái pháp luật có nguồn
gốc từ Trung Quốc từ cuối thời Xuân Thu (tư tưởng Pam Lai, tư tưởng Quan Tông, tư
tưởng Đồ Sơn) cho đến thời Chiến Quốc. (Thời Chiến Quốc) đã thiết lập nền tảng của
pháp luật. Suy nghĩ Các nhà tư tưởng như Phạm Lợi, Quan Trọng, Tư Sản), Thần Bát
Hari, Thần Đạo, Thượng Đường, Hàn Phi Tử đều có trình độ phát triển cao, là nhân tố
quan trọng trong sự thống nhất của nhà Tấn với Trung Quốc. . Hàn Phi Tử (khoảng
280-233 TCN) viết cuốn sách cùng tên để đời là Hàn Phi Tử, dựa trên sự tổng hợp ý
kiến của các luật gia thời kỳ đầu, đặc biệt là tư tưởng thời Chiến Quốc. Ngược lại với
quan điểm của Khổng Tử rằng “con người ngay từ đầu đã biết bản chất của cái thiện”,
Hàn Phi Tử lại tin rằng “con người ngay từ đầu đã biết bản chất của cái ác”, vì vậy
không phải một người có thể thay đổi thành điều tốt nhờ những việc làm tốt. . Mô hình
đạo đức của chính quyền là họ có thể duy trì trật tự xã hội. Thay vào đó, cần dùng sức
mạnh của pháp luật để buộc người dân phải tuân theo. “Ông ghét khen ngợi, đau đớn
và trừng phạt nên lãnh đạo và ngăn chặn hình phạt là con đường cai trị đất nước”. Ông
cho rằng luật pháp phải giống như một cây gậy (cây gậy tròn) và một chiếc cáng (cây
gậy vuông), tức là nó phải là một tiêu chuẩn để đo lường hành vi của con người. Pháp
luật phải phổ biến, có hiệu lực, phổ quát, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, mạch lạc, công
bằng và được chính quyền bảo đảm (về “nước” - là trong tay nhà vua).
Ở phương Tây, nhà nước pháp quyền được ra đời bởi các nhà tư tưởng Hy Lạp
như Socrates (469-399 TCN), Plato (428-347 TCN) và Aristotle (201-120 TCN),
nhưng không phải trước khi thể hiện rõ tính chất tân hiện đại. , chủ yếu thông qua hai
nhà tư tưởng John Locke (1632-1704) và Montesquieu (1689-1755). Triết gia người
Anh John Locke được coi là người sáng lập ra khái niệm phân chia quyền lực. Ông
cho rằng quyền lập pháp và quyền hành chính nên được tách biệt. "Chính phủ mang lại
lợi ích cho tất cả mọi người nếu những người làm ra luật không làm ra luật và những
người làm ra luật không làm ra luật." Montesquieu là một triết gia người Pháp, người
đã phát triển lý thuyết phân chia quyền lực của John Locke trong lý thuyết phân chia 8
quyền lực ("Séparation de pouvoirs"). Ông tin rằng mọi nhà nước đều có ba quyền:
luật pháp, hành pháp và tư pháp. Để ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, ba quyền lực
này phải được tách biệt với nhau. “Khi quyền lập pháp và quyền hành pháp được kết
hợp trong tay một người hoặc Thượng viện thì không có tự do. Bởi vì người dân sợ
rằng người đó hoặc Hạ viện đó sẽ biến một số luật thành quyền hành chính để điều
chỉnh các thủ tục hành chính. Sẽ không có tự do nếu quyền tư pháp không tách rời
khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Khi quyền tư pháp và hành chính được thống nhất,
cá nhân sẽ có được quyền sống và quyền tự do của công dân. Thẩm phán làm ra luật.
Khi quyền tư pháp kết hợp với quyền hành chính thì thẩm phán có quyền thi hành án.
Còn ở nước ta, ngay từ năm 1919, trong áng thơ dịch “Việt Nam yêu cầu ca”
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đưa ra yêu cầu:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” Nguyễn Ái Quốc1
Quả thực, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã nhận thức được tầm quan trọng của
pháp luật trong lãnh đạo, quản lý xã hội. Vì vậy, trong luận cứ của người dân An Nam,
ông đưa ra 4 điều liên quan đến nhà nước pháp quyền. Hệ tư tưởng pháp quyền này đã
thấm sâu vào tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
Thực tiễn những năm gần đây đã khẳng định việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là một hướng phát triển tất yếu,
khách quan, quy phạm. định hướng kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu, hợp tác với
tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 70 năm ngành tư pháp (24/8/2015), Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định và nhấn mạnh nội dung nguyên tắc: “… bất chấp
hoàn cảnh”. Chúng ta phải vững vàng về lập trường tư tưởng của mình. , sẽ luôn bảo
vệ mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật của nước ta…”. Việc xây dựng
1 Đây là một tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng. Năm 1919, khi gửi bản yêu
sách tám điểm tới Hội nghị Versailles đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
nêu những điều liên quan đến pháp quyền, đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi
bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. 9
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ, phát
huy quyền con người, quyền công dân, củng cố vị thế lãnh đạo của Đảng trong tình
hình mới. Lãnh đạo đảng thông qua nhà nước trở thành phương pháp quan trọng nhất
trong phương pháp quản lý của đảng, giúp củng cố vị thế thống trị của đảng trong việc
hợp pháp hóa quyền lực chính trị trong quyền lực công; nhờ đó, đường lối của Đảng
được thể chế hóa, các nguồn lực, lực lượng của đất nước được sử dụng có hiệu quả để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền được bổ sung và hoàn thiện thêm trong các
Văn kiện của các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII và gần đây nhất là Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII, với một số điểm đáng lưu ý, cụ thể:
Thứ nhất, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cùng với hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, được gọi là một trong các đột phá chiến
lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 (gọi tắt là Chiến
lược 2021-2030). Cụ thể là, Chiến lược 2020-2030 đã xác định một trong các đột phá
chiến lược là “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN...Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả”.
Thứ hai, về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược 2021-2030 nhấn
mạnh thêm một số yêu cầu cụ thể về mặt nội hàm về xây dựng Nhà nước pháp quyền:
- Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội: tiếp tục
hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội
nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành
pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh...Nhà nước thực hiện tốt chức
năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản
hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế,
chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. 10
- Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm
chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực
kiến tạo phát triển. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành
Hiến pháp năm 2013. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp
luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ
thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức
cạnh tranh quốc tế lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung
tâm...Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường...Nâng cao năng
lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những nhiệm vụ trên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu “Nghiên cứu,
ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp ở Việt Nam đến năm 2030,
trong đó có Chiến lược cải cách pháp luật và tư pháp, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây là
đề xuất mới so với các điều khoản của các hội nghị trước, chúng tôi sẽ tiếp thu những
phản ánh, ý kiến của Đảng về luật dân sự, đồng thời sẽ đề xuất các hoạt động nghiên
cứu và hoàn thiện ở các phần sau. Nội dung, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật
dân sự Việt Nam trong bối cảnh mới, đặc biệt là hội nhập quốc tế. I.5.
Cơ sở của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất,cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có
sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh””. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng: (1) Có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (2) Có nhiều 11
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; (3) Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; (4) Thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển,
là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; (5) Các nguồn lực nhà nước được phân
bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ hai, cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là chế độ
dân chủ nhất nguyên do ĐCSVN lãnh đạo. Chúng ta đều rõ, bản chất của một nền dân
chủ không phụ thuộc vào chế độ nhiều đảng hay chế độ một đảng, mà phụ thuộc vào
đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, giai cấp nào, sử dụng quyền lực nhà nước
bảo vệ lợi ích của ai. Cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn ĐCSVN là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc. ĐCSVN “không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân”. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên ĐCSVN hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này ghi rõ trong Hiến Pháp năm 2013 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí. Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là cơ quan quyền lực của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức không khác biệt, không mẫu thuẫn mà
thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc. Do
vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng cần tăng
cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí. I.6.
Cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 12
Điều 2, khoản 3 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)
quy định: “3. Quyền lực của Chính phủ được củng cố bằng cách phân chia, thống nhất
và kiểm soát giữa các đơn vị Chính phủ trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sau Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1991, “Nền tảng xây dựng Nhà nước
trong thời kỳ chuyển tiếp xã hội chủ nghĩa” được xuất bản nhằm phổ biến thủ tục hành
chính của pháp luật dân sự Việt Nam và bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan Chính
phủ. . Tại kỳ họp thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII năm 1995, thủ tục hành
chính của pháp luật dân sự Việt Nam đã được sửa đổi. Nói cách khác, quyền lực nhà
nước được thống nhất, có sự phân công lao động và phối hợp chặt chẽ giữa các trung
tâm. Nó có quyền lập pháp, hành chính và tư pháp. Kể từ Đại hội Đảng lần thứ XI và
Cương lĩnh xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Đại hội Đảng lần thứ XII, hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam tiếp tục tuân theo quy
định pháp quyền. Việc củng cố sự phân công lao động, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan quản lý trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một
bước tiến quan trọng. Ý tưởng thống nhất quyền lực chính phủ thông qua sự phân chia,
phối hợp và kiểm soát hoàn toàn giữa các cơ quan chính phủ trong việc quản lý quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp là sai lầm. Bản chất của pháp luật trong tình hình hiện nay.
Sự phân quyền là khác nhau, như hệ thống hành chính của pháp luật tư sản của
chính phủ, hệ thống hành chính của hệ thống xã hội Việt Nam của pháp luật chính phủ
là sự phân bổ, phối hợp và quyền lực tuyệt đối trong quản lý của chính phủ. hành
chính và công lý. Bởi nhà nước pháp quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một thứ, thuộc về nhân dân. Vì vậy, chúng tôi không chia sẻ nó với người hoặc
tổ chức khác, dù vì mục đích hay hình thức. Khi các cơ quan chính phủ thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là họ đang thực hiện các quyền được nhân dân
ủy quyền, ủy quyền. Ba ngành luật, hành chính và tư pháp của dân luật Việt Nam có
mục đích chung là phục vụ nhân dân. I.7.
Nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 13
Thứ nhất, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc cơ bản
không chỉ là “nguyên tắc” được lý luận Mác-Lênin và tư tưởng nhà nước Hồ Chí
Minh phê duyệt mà còn là kết quả tổng hợp của một lý luận rút ra từ thực tiễn lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam không có lợi ích gì ngoài lợi ích của nhân dân Việt Nam và nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là bảo đảm Nhà nước Việt Nam thực sự
mang bản chất công nhân; bảo đảm thực sự sự quản lý của dân do dân vì dân. Bảo
đảm và tăng cường sự lãnh đạo của đảng chính trị là cơ sở và điều kiện tiên quyết cho
sự thống nhất quyền lực nhà nước và thuộc về nhân dân. Nó cũng là cơ sở, tiền đề để
phối hợp, phát huy sức mạnh tập thể của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành
sứ mệnh và giữ vững bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải
đồng bộ trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp gắn liền với việc đổi mới đồng
bộ hệ thống chính trị theo hướng trật tự, hiệu lực, hiệu quả. Chúng ta đều biết rằng để
bảo đảm sự thống nhất trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, chúng ta phải đồng thời xây dựng các thể chế lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chỉ xây dựng một trong ba phần sẽ tạo ra độ trễ và không đồng bộ. Khi đó, hiệu quả
quản lý nhà nước kém hiệu quả. Ngoài ra, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam phải đi đôi với đổi mới hệ thống chính trị thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. 14 CHƯƠNG II.
THỰC TIỄN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2.1.
Bối cảnh hội nhập quốc tế
Theo ngữ nghĩa thì "hội nhập" có nguồn gốc từ "liên kết" và thường có nghĩa là
hành động hoặc quá trình kết hợp các phần tử riêng biệt. Kết hợp các phần thành một
tổng thể (nhất thể, kết hợp) và kết hợp các yếu tố khác nhau (tụ hội, nhóm).
Với ý nghĩa đó, có thể thấy hội nhập quốc tế sau Thế chiến thứ hai đã phát triển
nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Nó được phát triển ở các cấp độ khác nhau: song
phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và quốc tế. Nó thu hút hầu hết các nước trên
thế giới. Mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện hơn.
Ở cấp độ quốc tế, Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của nó được thành
lập sau Thế chiến thứ hai với các thành viên đến từ hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Từ năm 1995, quá trình hội nhập kinh tế, thương mại dần được mở rộng thông qua
việc hình thành Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) và sau đó là Tổ
chức Thương mại Thế giới (WHO). Ngày nay, WTO đã phát triển một hệ thống “luật
chơi” bao trùm hầu hết các khía cạnh của quan hệ kinh tế giữa các thành viên và trở
thành cơ sở cho các hiệp định kinh tế khu vực khác trên thế giới.
Ở cấp khu vực, tuyển dụng bắt đầu từ những năm 1950 và bùng nổ từ những
năm 1990 cho đến nay. Một số tổ chức khu vực đã được thành lập trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là kinh tế. Tính đến tháng 5 năm 2012, 511 hiệp định thương mại khu vực
(RTA) đã được thông báo cho WTO. Ngoài ra, hàng trăm ACR đang trong quá trình
đàm phán. Trên thực tế, quá trình hội nhập chung vào Liên minh châu Âu (EU) đã đạt
đến trình độ cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể siêu quốc gia. Các nước
thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Á (ASEAN) đang mở rộng và làm sâu sắc thêm
quá trình hội nhập khu vực bằng cách xây dựng Cộng đồng ASEAN trên ba trục an
ninh chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Quá trình hội nhập còn được điều chỉnh bởi các hiệp định song phương dưới
các hình thức hiệp ước liên minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác 15