II. Ý thức hội kết cấu của ý thức hội: (Đs tinh thần)
1. Khái niệm ý thức hội: khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ phương
diện sinh hoạt tinh thần của hội, nảy sinh từ tồn tại hội phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Mặt tinh thần của hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm
lý, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống,…
- Ta cần thấy sự khác nhau tương đối giữa ý thức hội ý thức nhân.
- Ý thức nhân thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể
(tôi, anh, cậu ta). Ý thức của các nhân đều phản ánh tồn tại hội với
những mức độ khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên mang tính hội.
- Song, ý thức nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng,
tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn hội, một thời đại
hội nhất định.
- Ý thức hội ý thức nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện
chứng với nhau, thâm nhập vào nhau làm phong phú cho nhau.
- Ý thức hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình
thái khác nhau phản ánh tồn tại hội bằng những phương thức khác nhau.
- Ta thể lấy dụ v ý thức hội: truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân
nghĩa của dân tộc. Đức tính cần chăm chỉ truyền thống hiếu học được
truyền từ đời này sang đời khác.
Một số câu ca dao tục ngữ thể hiện tưởng: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo
sau”, ‘’Giọt máu đào hơn ao nước lã’’, “Ta về ta tắm ao ta/ trong đục
ao n vẫn hơn” hay một số tưởng hiện hành như bảo thủ, ganh ghét, ...
2. Kết cấu của ý thức hội:
Theo trình độ phản ánh của ý thức hội đối với tồn tại hội thể phân
biệt ý thức hội thông thường ý thức luận:
Ý thức hội thông thường toàn bộ những tri thức, những quan niệm,
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình
thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa thành luận.
Ý thức luận những tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, qui luật. Ý thức luận khả năng phản ánh hiện thực
khách quan một cách khái quát, sâu sắc chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật hiện tượng. Ý thức luận đạt trình độ cao
mang tính hệ thống tạo thành các hệ tưởng.
Cũng thể phân tích ý thức hội theo hai trình độ hai phương thức
phản ánh đối với tồn tại hội, đó là tâm hội và hệ tư tưởng hội.
Tâm hội khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán… của con người, của một bộ phận hội hoặc của toàn hội hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ phản ánh
đời sống đó.
Đặc điểm của tâm hội: (cả phần đặc điểm cần luôn)
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người;
+ sự phản ánh tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn
tại xã hội;
+ Không khả năng vạch ra đầy đủ, ràng, sâu sắc bản chất các mối quan
hệ hội của con người.
+ Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt luận, còn yếu tố
trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm hội trong sự
phát triển của ý thức hội.
Hệ tưởng hội khái niệm chỉ trình đ cao của ý thức hội, được
hình thành khi con người nhân thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình, toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm hội như:
chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo. Tâm hội hệ tưởng hội
hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức hội đối với
cùng một tồn tại hội, chúng mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy
nhiên, không phải tâm hội tự sản sinh ra hệ tưởng hội.
Đặc điểm của hệ tư tưởng: (cả phần này cần)
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng;
+ khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ hội;
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tưởng của những giai cấp nhất định
truyền trong hội.
+ Hệ tưởng nhận thức luận về tồn tại hội, hệ thống những quan
điểm, tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…), kết quả
sự khái quát hóa những kinh nghiệm hội.
Cần phân biệt hệ tưởng khoa học hệ tưởng không khoa học, thậm
chí phản động. Hệ tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan
hệ vật chất của hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, ảo, xuyên tạc.
Với tính cách một bộ phận của ý thức hội, hệ tưởng ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển khoa học. Lịch các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng
quan trọng của hệ tưởng, đặc biệt tưởng triết học, đối với q trình
khái quát những tài liệu khoa học.
hội giai cấp thì ý thức hội cũng tính giai cấp, phản ánh điều kiện
sinh hoạt vật chất lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. Mỗi
giai cấp đều đời sống sinh hoạt tinh thần đặc thù của nhưng hệ
tưởng thống trị hội bao giờ cũng hệ tưởng của giai cấp thống trị
hội, ảnh ởng đến ý thức của các giai cấp trong đời sống hội.
Theo quan niệm của Mác Ăngghen: “Giai cấp nào chi phối những liệu
sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những liệu sản xuất tinh thần,
thành thử nói chung tưởng của những người không liệu sản xuất tinh
thần cũng đồng thời b giai cấp thống trị đó chi phối”.
3. Tính giai cp của ý thức hội: (Phần này không đề cập trong nd,
thêm vào cho chắc)
Trong hội giai cấp, do các giai cấp những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị hội mỗi giai cấp quy định,
nên ý thức hội của các giai cấp nội dung hình thức phát triển khác nhau
hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức hội biểu hiện tâm hội, cũng như hệ
tưởng hội.
+ Về mặt tâm hội, mi giai cấp đều tình cảm, tâm trạng, thói quen
riêng, thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn hội này hay tập đoàn hội
khác.
+ trình độ hệ tưởng thì tính giai cấp của ý thức hội biểu hiện sâu sắc
hơn nhiều. Trong hội đối kháng giai cấp bao giờ cũng những ởng
hoặc hệ tưởn đối lập nhau: tưởng của gia cấp bóc lột bị bóc lột, của
giai cấp thống trị bị thống trị.
Những tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng tưởng của
giai cấp thống trị về kinh tế chính trị thời đại đó.
Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp
đó, thì hệ tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng lợi ích
của quần chúng lao động chống lại hội người bóc lột người, xây dựng một
hội công bằng không áp bức, bóc lột.
Chủ nghĩa Mác Lênin hệ tưởng khoa học cách mạng của giai cấp
công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến
trình khách quan của sự phát triển lịch sử.
Hệ tưởng Mác Lênin đối lập với hệ tưởng sản hệ tưởng bảo vệ lợi
ích của giai cấp sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp sản giai cấp vô sản t hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt
trên tất c các lĩnh vực, trong đó lĩnh vực hệ tưởng.
Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử cho
rằng, ý thức của các giai cấp trong hội sự tác động qua lại với nhau.
+ Trong hội áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt liệu
sản xuất, phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi b áp bức về
tinh thần, không tránh khỏi ảnh hưởng tưởng của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tưởng giai cấp thống trị đối với hội
tùy thuộc vào trình đ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
+ Giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. thời kỳ đấu
tranh cách mạng phát triển mạnh, thường một số người trong giai cấp
thống trị, nhất những trí thức tiến bộ, từ bỏ giai cấp xuất thân chuyển sang
hàng ngũ giai cấp cách mạng chịu ảnh hưởng của tưởng giai cấp đó.
Trong hội phân chia giai cấp t ý thức nhân, về bản chất,
biểu hiện mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.
Điều này do địa vị những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của giai
cấp quyết định. Nhưng mỗi nhân lại những hoàn cảnh sinh sống riêng,
như hoàn cảnh giáo dục, trường đời, tưởng chính trị tiếp thu được khi
sống trong môi trường gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, nên ý thức của mỗi
người vừa biểu hiện ý thức giai cấp, vừa mang những đặc điểm nhân, tạo
thành tính nhân cách riêng, khác với nhân khác cùng giai cấp.
Trong hội giai cấp, ý thức hội không chỉ mang dấu ấn những điều
kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, còn phản ánh những điều kiện sinh
hoạt chung của dân tộc: Những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa,
hội, điều kiện t nhiên… hình thành trong q trình phát triển lâu dài của
dân tộc.
vậy, trong ý thức hội, ngoài tâm hệ tưởng hội của giai
cấp, còn bao gồm tâm dân tộc, nh cảm, ước muốn, tập quán, thói quen,
tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành
truyền thống dân tộc.
4. Hình thái của ý thức hội: (phần này t cũng thêm vào cho chắc)
- Ý thức hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ
yếu của ý thức hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo triết học.
- Ý thức chính trị: hình thái ý thức chỉ xuất hiện tồn tại trong các hội
giai cấp nhà nước. phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, hội
giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, ng như thái độ của các giai
cấp đối với quyền lực nhà nước.
- Ý pháp quyền toàn bộ các tưởng, quan điểm của một giai cấp v bản
chất vai t của pháp luật, về quyền nghĩa vụ của n nước, các tổ
chức hội công dân, về tính hợp pháp không hợp pháp của hành vi
con người trong hội, cùng với nhận thức tình cảm của con người trong
việc thực thi luật pháp của Nhà nước.
- Ý thức đạo đức toàn bộ những quan niệm, tri thức các trạng thái xúc
cảm tâm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… về những quy tắc đánh giá,
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa nhân với hội, giữa nhân với nhân
trong hội.
- Ý thức khoa học với tính cách một hình thái ý thức hội h thống
tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được
kiểm nghiệm qua thực tiễn.
- Ý thức thẩm mỹ sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan
hệ với nhu cầu thưởng thức sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt
động thưởng thức sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật hình thức biểu hiện
cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
- Ý thức tôn giáo với tính cách hình thái ý thức hội bao gồm tâm tôn
giáo hệ tưởng tôn giáo. Tâm tôn giáo toàn bộ những biểu tượng,
tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ
tưởng tôn giáo hệ thống giáo do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra
truyền trong xã hội.

Preview text:

II. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội: (Đs tinh thần)
1. Khái niệm ý thức xã hội: là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ phương
diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Mặt tinh thần của xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm
lý, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống,…
- Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
- Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể
(tôi, anh, cậu ta). Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với
những mức độ khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội.
- Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng,
tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
- Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện
chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
- Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình
thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau.
- Ta có thể lấy ví dụ về ý thức xã hội: truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân
nghĩa của dân tộc. Đức tính cần cù chăm chỉ và truyền thống hiếu học được
truyền từ đời này sang đời khác.
Một số câu ca dao tục ngữ thể hiện tư tưởng: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo
sau”, ‘’Giọt máu đào hơn ao nước lã’’, “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục
ao nhà vẫn hơn” hay một số tư tưởng hiện hành như bảo thủ, ganh ghét, . .
2. Kết cấu của ý thức xã hội:
Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân
biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm,
… của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình
thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, qui luật. Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực
khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và
mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai phương thức
phản ánh đối với tồn tại xã hội, đó là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội: (cả phần đặc điểm cần luôn)
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người;
+ Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội;
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan
hệ xã hội của con người.
+ Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố
trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự
phát triển của ý thức xã hội.
Hệ tư tưởng xã hội là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được
hình thành khi con người nhân thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình, là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như:
chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội là
hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội đối với
cùng một tồn tại xã hội, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy
nhiên, không phải tâm lý xã hội tự nó sản sinh ra hệ tư tưởng xã hội.
Đặc điểm của hệ tư tưởng: (cả phần này cần)
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng;
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội;
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và truyền bá trong xã hội.
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…), kết quả
sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
– Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học, thậm
chí phản động. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan
hệ vật chất của xã hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc.
– Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển khoa học. Lịch các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng
quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, đối với quá trình
khái quát những tài liệu khoa học.
Xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều kiện
sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. Mỗi
giai cấp đều có đời sống sinh hoạt tinh thần đặc thù của nó nhưng hệ tư
tưởng thống trị xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã
hội, nó có ảnh hưởng đến ý thức của các giai cấp trong đời sống xã hội.
Theo quan niệm của Mác và Ăngghen: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu
sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần,
thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh
thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội: (Phần này cô không đề cập trong nd,
thêm vào cho chắc)
– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định,
nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen
riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác.
+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc
hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những tư tưởng
hoặc hệ tư tưởn đối lập nhau: Tư tưởng của gia cấp bóc lột và bị bóc lột, của
giai cấp thống trị và bị thống trị.
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của
giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp
đó, thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích
của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã
hội công bằng không có áp bức, bóc lột.
– Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến
trình khách quan của sự phát triển lịch sử.
Hệ tư tưởng Mác – Lênin đối lập với hệ tư tưởng tư sản – hệ tư tưởng bảo vệ lợi
ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hệ tư tưởng.
– Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử cho
rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau.
+ Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu
sản xuất, phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về
tinh thần, không tránh khỏi ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội
tùy thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
+ Giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Ở thời kỳ đấu
tranh cách mạng phát triển mạnh, thường có một số người trong giai cấp
thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ, từ bỏ giai cấp xuất thân chuyển sang
hàng ngũ giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp đó.
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân, về bản chất, là
biểu hiện mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.
Điều này là do địa vị và những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của giai
cấp quyết định. Nhưng mỗi cá nhân lại có những hoàn cảnh sinh sống riêng,
như hoàn cảnh giáo dục, trường đời, tư tưởng chính trị tiếp thu được khi
sống trong môi trường gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, nên ý thức của mỗi
người vừa biểu hiện ý thức giai cấp, vừa mang những đặc điểm cá nhân, tạo
thành cá tính và nhân cách riêng, khác với cá nhân khác cùng giai cấp.
– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những điều
kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh
hoạt chung của dân tộc: Những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, điều kiện tự nhiên… hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai
cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen,
tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành
truyền thống dân tộc.
4. Hình thái của ý thức xã hội: (phần này t cũng thêm vào cho chắc)
- Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ
yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học.
- Ý thức chính trị: là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội
có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội
giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai
cấp đối với quyền lực nhà nước.
- Ý pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản
chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi
con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong
việc thực thi luật pháp của Nhà nước.
- Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc
cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá,
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
- Ý thức khoa học – với tính cách là một hình thái ý thức xã hội – là hệ thống
tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được
kiểm nghiệm qua thực tiễn.
- Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan
hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt
động thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện
cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
- Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn
giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng,
tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư
tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội.
Document Outline

  • 2.Kết cấu của ý thức xã hội:
  • 3.Tính giai cấp của ý thức xã hội: (Phần này cô khôn
  • –Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ
  • –Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá n
  • Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư