Quiz: TOP 27 Câu hỏi trắc nghiệm Chương 7 Chiến lược giá cả hàng hoá môn Marketing căn bản (Có đáp án) | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Câu hỏi trắc nghiệm
Có 3 doanh nghiệp X, Y, Z cạnh tranh trong một ngành với mức tiêu thụ hàng hoá trong năm của doanh nghiệp X là 80.000USD, Y là 75.000USD và Z là 45.000USD. Thị phần của doanh nghiệp Y sẽ là: 37,5%.
Nhân tố tình hình cạnh tranh không phải nhân tố bên trong ảnh hưởng đến quyết định về giá.
Nhân tố chính sách marketing hỗn hợp không phải nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến quyết định về giá.
Doanh nghiệp thay đổi giá trong từng giai đọan là do : Cả (a) và (b) đều đúng (Tác động của môi trường bên ngoài ; Tác động của môi trường bên trong).
Trong thị trường độc quyền nhóm, doanh nghiệp nên đặt giá : Tương đương với giá của các đối thủ cạnh tranh.
Đường cầu về một sản phẩm : Cả (a) và (b) (Phản ánh mối quan hệ giữa giá bán và lượng cầu ; Thường có chiều dốc xuống).
Nghiên cứu về mặt hàng gạo cho thấy khi gạo tăng giá thì lượng cầu về gạo giảm nhẹ nhưng tổng doanh thu bán gạo vẫn tăng lên. Đường cầu mặt hàng gạo là đường cầu: Ít co giãn theo giá.
Khi tăng giá 5% người ta thấy cầu giảm 2% thì độ co giãn của cầu theo giá là: 0,4.
Nhà nước điều chỉnh các mức thuế đối với sản phẩm được gọi là : Quản lý giá theo hình thức can thiệp gián tiếp.
Khi nghiệp gặp khó khăn do cạnh tranh gay gắt hoặc do nhu cầu thị trường thay đổi quá đột ngột, không kịp ứng phó thì doanh nghiệp nên theo đuổi mục tiêu marketing: Tồn tại.
Quy trình xác định mức giá bán ban đầu gồm: 6 bước.
Phát biểu sau đây không đúng : Sản lượng tăng không làm thay đổi tổng chi phí biến đổi.
Phương pháp định giá chỉ dựa vào chi phí có hạn chế lớn nhất là: Cả (a), (b) và (c) (Không xét đến cầu của thị trường ; Không biết chắc là có bán được hết số sản phẩm dự tính ban đầu hay không ; Không tính đến mức giá của đối thủ cạnh tranh).
Một doanh nghiệp có FC = 1.500 triệu đồng, VC = 9 triệu đồng, Q = 500 sản phẩm, nếu doanh nghiệp mong muốn lợi nhuận là 15% giá thành thì giá sẽ là: 13,80 triệu đồng/sản phẩm.
Một doanh nghiệp đưa ra mức giá bán 1 sản phẩm là 7.000 đồng, với FC = 1.300 triệu đồng, VC = 5.000 triệu đồng. Nếu doanh nghiệp mong muốn lợi nhuận là 10% giá bán thì cần bán được bao nhiêu sản phẩm: 100.000 sản phẩm.
Khi sản phẩm của doanh nghiệp có những khác biệt so với những sản phẩm cạnh tranh và sự khác biệt này được khách hàng chấp nhận thì doanh nghiệp nên: Định giá cao hơn sản phẩm cạnh tranh.
Xác định % tăng giá nhằm bồi hoàn các khoản chi phí bán hàng và đạt được mức lợi nhuận mong muốn là một trong những công việc của phương pháp định giá: Theo giá trị cảm nhận của khách hàng.
Mua một bộ sản phẩm Johnson với nhiều loại sản phẩm khác nhau sẽ được mua với giá thấp hơn nếu mua các sản phẩm đó riêng lẻ. Đó chính là do người bán định giá: Cho danh mục sản phẩm.
Việc định giá của Vietnam Airlines theo hạng ghế thương gia và phổ thông là việc: Định giá phân biệt theo nhóm khách hàng.
Giá bán lẻ 1kg bột giặt X là 14.000VND/1kg nhưng mua từ 6kg trở lên thì tính ra chỉ phải thanh toán 12.000VND/1kg. Doanh nghiệp bán sản phẩm X đang thực hiện chính sách giá: Chiết khấu do mua số lượng nhiều.
Các công ty điện thoại áp dụng chính sách giá gồm: cước cố định hàng thàng và cước mỗi cuộc gọi. Đó là việc áp dụng : Giá hai phần.
Mục tiêu định giá tối đa hoá lợi nhuận thì tương ứng với kiểu chiến lược giá: Hớt váng.
Trong trường hợp Cầu quá mức thì doanh nghiệp nên chủ động tăng giá.
Trong tình huống năng lực sản xuất dư thừa thì doanh nghiệp cần chủ động hạ giá.
Giảm giá theo phiếu mua hàng để khuyến khích mua thường xuyên là loại chiến lược định giá: Khuyến mại.
Sự khác biệt cơ bản giữa định giá theo chi phí và cảm nhận của khách hàng là ở: Quy trình tiếp cận.
Giá bán sản phẩm là 5.000 đ. Nếu trung gian phân phối tăng 5% giá của nhà sản xuất, để có được 15% lợi nhuận trên giá bán thì chi phí sản xuất tối đa là: 4.167 đ/SP.