Quiz: Top 50 câu hỏi trắc nghiệm môn Toán cao cấp (có đáp án) | Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Câu hỏi trắc nghiệm
M=Pr¿¿
Trong đó:
M là khoản tiền trả hàng tháng.
P là số tiền vay ban đầu.
r là lãi suất hàng tháng (lãi suất hàng năm chia cho 12).
n là số tháng vay.
Với P=$20.000, r=4%/12/100=0.00333 và n=6∗12=72, ta có:
M=$20.000×0.00333¿=$313
Khi các yếu tố khác không đổi, nếu một yếu tố nào làm tăng cầu hàng hóa nước ngoài so với hàng hóa trong nước thì đồng nội tệ sẽ tăng giá. Điều này là do khi nhu cầu hàng hóa nước ngoài tăng, nhu cầu đối với đồng nội tệ để mua hàng hóa đó cũng tăng, dẫn đến giá trị của đồng nội tệ tăng lên.
a. Rủi ro phá sản: Rủi ro này liên quan đến khả năng một công ty không thể trả nợ và phải tuyên bố phá sản. Nhà đầu tư có thể giảm rủi ro này bằng cách đầu tư vào nhiều công ty khác nhau.
b. Rủi ro thanh khoản: Đây là rủi ro liên quan đến khả năng một tài sản không thể được bán nhanh chóng mà không làm mất giá trị. Nhà đầu tư có thể giảm rủi ro này bằng cách đầu tư vào các tài sản có thị trường sôi động, như cổ phiếu hoặc trái phiếu.
c. Rủi ro đa dạng hóa: Đây không phải là một loại rủi ro cụ thể mà là một chiến lược để giảm rủi ro bằng cách mua nhiều loại tài sản khác nhau. Đa dạng hóa giúp giảm rủi ro không hệ thống, nhưng không thể loại bỏ rủi ro hệ thống.
=> Rủi ro mà nhà đầu tư không thể loại trừ bằng cách mua nhiều loại tài sản là rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống, còn được gọi là rủi ro thị trường, là những rủi ro mà tất cả các tài sản trong thị trường đều phải đối mặt, bao gồm các biến động do các sự kiện kinh tế toàn cầu, chính sách tiền tệ, chính trị, và các yếu tố khác mà không thể tránh được thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Thương phiếu là một công cụ nợ ngắn hạn do doanh nghiệp phát hành để huy động vốn. Doanh nghiệp phát hành thương phiếu thường là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có uy tín và khả năng tài chính tốt. Các doanh nghiệp này thường có nhu cầu vốn ngắn hạn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, như thanh toán các khoản nợ, chi trả lương thưởng, mua nguyên vật liệu,...
Các cá nhân giàu có và các ngân hàng nhỏ thường không có nhu cầu phát hành thương phiếu. Các cá nhân giàu có có thể huy động vốn từ các kênh khác như ngân hàng, chứng khoán,... Các ngân hàng nhỏ thường không có đủ quy mô và uy tín để phát hành thương phiếu.
Doanh nghiệp có rủi ro tín dụng cao thường khó huy động vốn từ các kênh truyền thống như ngân hàng. Do đó, họ thường sử dụng các kênh huy động vốn khác, chẳng hạn như trái phiếu hoặc vay mượn từ các nhà đầu tư cá nhân.
Khi một ngân hàng thương mại mua trái phiếu chính phủ từ Ngân hàng trung ương, Ngân hàng trung ương sẽ ghi có số tiền tương ứng vào tài khoản dự trữ của ngân hàng thương mại đó. Điều này làm tăng dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Dự trữ của hệ thống ngân hàng là một trong những nhân tố quyết định cung tiền. Khi dự trữ của hệ thống ngân hàng tăng, các ngân hàng thương mại sẽ có thể tạo ra thêm tiền thông qua hoạt động cho vay. Điều này làm tăng cung tiền.
Tỷ giá hối đoái của CAD so với USD ngày hôm qua là 1,2828 USD/CAD. Điều này có nghĩa là 1 USD có thể đổi được 1,2828 CAD.
Tỷ giá hối đoái của CAD so với USD ngày hôm nay là 1,1212 USD/CAD. Điều này có nghĩa là 1 USD có thể đổi được 1,1212 CAD.
Sự thay đổi tỷ giá hối đoái này được tính bằng công thức sau:
% Thay đổi = (Giá trị mới - Giá trị cũ) / Giá trị cũ * 100
Trong trường hợp này, ta có:
% Thay đổi = (1,1212 - 1,2828) / 1,2828 * 100
% Thay đổi = -12,60%
Vậy, CAD đã giảm giá 12,60%.
Các khoản cho vay là loại tài sản chính của một ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay là tiền mà ngân hàng cho các cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác vay. Các khoản cho vay này thường có lãi suất, giúp ngân hàng tạo ra lợi nhuận.
Các loại tài sản khác của ngân hàng thương mại bao gồm:
Trái phiếu chính phủ: Đây là các chứng khoán do chính phủ phát hành để huy động vốn. Trái phiếu chính phủ thường được coi là an toàn và có lãi suất thấp.
Trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu: Đây là các chứng khoán do doanh nghiệp phát hành để huy động vốn. Trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu có rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ, nhưng cũng có thể mang lại lợi nhuận cao hơn.
Các tài sản thế chấp: Đây là các tài sản được sử dụng để đảm bảo cho các khoản vay. Nếu người vay không trả được nợ, ngân hàng có thể tịch thu tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Trong số các loại tài sản trên, các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của một ngân hàng thương mại.
Đáp án đúng là (a) Lạm phát dự tính tăng.
Lạm phát là sự gia tăng của giá cả hàng hóa và dịch vụ trong một thời gian nhất định. Khi lạm phát tăng, giá trị của tiền mặt sẽ giảm. Điều này có nghĩa là số tiền bạn có sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn.
Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ, do đó nhà đầu tư mua trái phiếu sẽ nhận được một khoản tiền lãi cố định trong một thời gian nhất định. Lãi suất trái phiếu thường được điều chỉnh theo lạm phát. Khi lạm phát tăng, lãi suất trái phiếu cũng sẽ tăng lên. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẽ nhận được một khoản tiền lãi cao hơn để bù đắp cho sự mất giá của tiền mặt.
Vì vậy, khi lạm phát dự tính tăng, nhà đầu tư sẽ có khuynh hướng mua trái phiếu nhiều hơn để bảo vệ giá trị của tài sản.
Các đáp án còn lại là không chính xác vì:
Bạn dự đoán kim cương sẽ tăng giá trị: Kim cương là một loại tài sản có giá trị cao, nhưng nó không có khả năng sinh lời như trái phiếu.
Thu nhập của bạn giảm: Thu nhập thấp hơn có thể khiến bạn khó mua trái phiếu hơn.
Phí giao dịch trái phiếu giảm: Phí giao dịch thấp hơn có thể khiến việc mua trái phiếu trở nên hấp dẫn hơn, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định duy nhất.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có quy mô nhỏ và khả năng tiếp cận thị trường vốn hạn chế. Do đó, họ thường huy động vốn từ các trung gian tài chính, chẳng hạn như ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư,...
Các trung gian tài chính có thể cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ các sản phẩm và dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu của họ, chẳng hạn như cho vay, bảo lãnh, bảo hiểm,...
Các đáp án còn lại là không chính xác vì:
Cơ quan chính phủ: Cơ quan chính phủ thường cung cấp vốn cho các doanh nghiệp lớn hoặc các dự án trọng điểm quốc gia.
Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu là nơi các doanh nghiệp lớn và nhà nước phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu là nơi các doanh nghiệp lớn phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Chứng khoán 2006 thì mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào bán lần đầu ra công chúng là mười nghìn đồng Việt Nam. Mệnh giá của trái phiếu chào bán ra công chúng là một trăm nghìn đồng Việt Nam và bội số của một trăm nghìn đồng Việt Nam.
Trong đó:
A là số tiền sau khi gửi tiết kiệm.
P là số tiền gốc ban đầu.
r là lãi suất hàng năm.
n là số lần lãi được nhập gốc mỗi năm.
t là số năm gửi tiết kiệm.
Ở đây, chúng ta biết A = $5.000, P = $2.000, r = 7% = 0.07 (được chuyển từ phần trăm sang dạng thập phân), và n = 1 (vì lãi được gộp mỗi năm). Chúng ta cần tìm t.
Thay các giá trị đã biết vào công thức, ta có: 5000=2000∗¿
Giải phương trình trên, ta tìm được t = 13,54 năm. Vì vậy, sau 13,54 năm, số tiền tiết kiệm của ông C sẽ là $5.000.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá hối đoái được xác định bởi thị trường và không bị can thiệp bởi chính phủ hoặc ngân hàng trung ương. Điều này có nghĩa là, nếu một quốc gia khác gặp lạm phát, giá trị của tiền tệ của quốc gia đó sẽ giảm so với tiền tệ của quốc gia đang sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Do đó, quốc gia sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn sẽ được bảo vệ tốt hơn trước lạm phát từ các quốc gia khác.
Tham gia thị trường tài chính trực tiếp là việc các nhà đầu tư mua trực tiếp các chứng khoán từ các nhà phát hành. Trong trường hợp này, nhà đầu tư mua cổ phiếu trực tiếp từ doanh nghiệp phát hành trong đợt IPO.
Các đáp án còn lại không phải là tham gia thị trường tài chính trực tiếp vì:
Doanh nghiệp mua trái phiếu trên thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi các nhà đầu tư mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Doanh nghiệp không phải là nhà đầu tư, do đó việc doanh nghiệp mua trái phiếu trên thị trường thứ cấp không được coi là tham gia thị trường tài chính trực tiếp.
Nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là một tổ chức trung gian tàichính, do đó việc nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư không được coi là tham gia thị trường tài chính trực tiếp.
Doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng: Vay vốn từ ngân hàng là một hình thức huy động vốn gián tiếp, do đó việc doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng không được coi là tham gia thị trường tài chính trực tiếp.
Lý thuyết PPP cho rằng tỷ giá hối đoái giữa hai loại tiền tệ sẽ cân bằng khi sức mua tương đương của hai loại tiền tệ đó là như nhau. Khi mức giá của một quốc gia tăng tương đối so với mức giá của quốc gia khác, thì đồng tiền của quốc gia đó sẽ mất giá so với đồng tiền của quốc gia khác. Điều này là do hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó trở nên đắt hơn so với hàng hóa và dịch vụ của quốc gia khác.
Ví dụ, giả sử một chiếc bánh mì ở Việt Nam có giá 20.000 đồng và một chiếc bánh mì ở Hoa Kỳ có giá 1 USD. Theo lý thuyết PPP, tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam (VND) và đồng đô la Mỹ (USD) sẽ là 20.000 VND/USD.
Nếu mức giá của bánh mì ở Việt Nam tăng lên thành 30.000 đồng, thì tỷ giá hối đoái mới cần phải là 30.000 VND/USD để duy trì sức mua tương đương. Điều này có nghĩa là đồng VND sẽ mất giá so với đồng USD.
Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ đầu tư bởi các yếu tố sau:
Được quản lý chuyên nghiệp: Quỹ đầu tư được quản lý bởi một đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức trong lĩnh vực đầu tư. Điều này giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận.
Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư: Quỹ đầu tư thường đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình bằng cách đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro khi thị trường biến động.
Tính năng động của quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư có thể linh hoạt điều chỉnh danh mục đầu tư của mình để phù hợp với các thay đổi của thị trường. Điều này giúp nhà đầu tư tối đa hóa lợi nhuận trong mọi tình huống thị trường.
Như vậy, cả ba yếu tố trên đều là những lý do chính khiến nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân quyết định đầu tư thông qua quỹ đầu tư.
Cấu trúc rủi ro của lãi suất giải thích nguyên nhân khác biệt về lãi suất giữa các công cụ nợ cùng kì hạn. Theo lí thuyết này, lãi suất được coi là phần bù rủi ro, mức rủi ro của công cụ nợ càng lớn, lãi suất càng cao và ngược lại. Các loại rủi ro của công cụ nợ bao gồm rủi ro vỡ nợ, tính lỏng và qui định về thuế thu nhập.
Khi một người gửi tiền mặt vào một tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, M1 (tiền mặt và tiền gửi thanh toán) tăng lên, trong khi M2 (bao gồm M1 và các loại tiền gửi có thể chuyển đổi thành tiền mặt) không thay đổi.
Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn bao gồm các công cụ vốn và các công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên một năm. Các khoản vay thương mại và tiêu dùng không phải là công cụ lưu thông trên thị trường vốn.
Một trái phiếu trả lãi định kỳ, mệnh giá 10 triệu đồng, thời gian đáo hạn là 3 năm, lãi suất danh nghĩa 10% và lợi suất đáo hạn là 9%. Một nhà đầu tư A mua trái phiếu này và ngay sau khi nhận tiền lãi vào cuối năm thứ nhất thì nhà đầu tư A bán trái phiếu này đi. Biết rằng lợi suất đáo hạn của trái phiếu lúc ông bán là 8%, tỷ suất lợi nhuận của nhà đầu tư A là: 10,76%
Trái phiếu chiết khấu mệnh giá $1.000, thời gian đáo hạn 1 năm, đang được bán với giá $950. Lợi suất chiết khấu của trái phiếu này là: 5,26%
Chứng khoán là một loại tài sản, bao gồm các loại như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ,... Chứng khoán được phát hành bởi các tổ chức, doanh nghiệp, chính phủ,... nhằm huy động vốn.
Về bản chất, chứng khoán là một loại công cụ nợ hoặc vốn chủ sở hữu của tổ chức, doanh nghiệp, chính phủ,... Do đó, chứng khoán là tài sản đối với người phát hành.
Các đáp án còn lại là không chính xác vì:
Khoản nợ đối với người cho vay: Chứng khoán có thể được coi là khoản nợ đối với người cho vay trong trường hợp chứng khoán đó là trái phiếu. Tuy nhiên, không phải tất cả các chứng khoán đều là trái phiếu.
Tài sản đối với người cho vay: Chứng khoán không phải là tài sản đối với người cho vay. Người cho vay là người mua chứng khoán và nhận được khoản tiền lãi hoặc trái tức từ chứng khoán đó.
Tài sản đối với người đi vay: Chứng khoán không phải là tài sản đối với người đi vay. Người đi vay là người phát hành chứng khoán và nhận được tiền từ việc bán chứng khoán đó.
Lợi suất đáo hạn là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận thu được từ trái phiếu và giá trái phiếu. Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ phần trăm giữa lãi trái phiếu và mệnh giá trái phiếu. Khi giá trái phiếu bằng mệnh giá, lợi nhuận thu được từ trái phiếu bằng lãi trái phiếu, do đó lợi suất đáo hạn bằng lãi suất danh nghĩa.
Trong đó:
P là giá bán trái phiếu C là lãi trái phiếu i là lợi suất hiện hành của trái phiếu n là số năm đáo hạn của trái
phiếu. F là mệnh giá trái phiếu
Thay các giá trị cho biết vào công thức, ta được:
P=0.0913+0.0834+0.0761+0.7862
P=1,037
Tiền quy ước (fiat money) là loại tiền không có giá trị thực, chỉ được chấp nhận bởi sự tin tưởng của người sử dụng. Tiền quy ước thường được phát hành bởi cơ quan chính quyền và không có sự bảo chứng bởi vàng hay bất kỳ tài sản nào khác. Việc chuyển từ tiền có giá trị thực (commodities money) sang tiền quy ước giúp tiết kiệm được khối lượng vàng đáp ứng cho các mục đích sử dụng khác, như trang sức, công nghiệp, y tế, v.v.
Điều kiện ngang bằng lãi suất là điều kiện nói rằng tỷ giá hối đoái giữa hai quốc gia sẽ điều chỉnh để bảo toàn sự ngang bằng về lãi suất của hai quốc gia đó. Nếu không có điều kiện này, nguồn vốn sẽ được tự do di chuyển từ quốc gia có lãi suất thấp sang quốc gia có lãi suất cao, gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Tiền thực hiện chức năng thước đo giá trị khi được sử dụng để so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Tiền làm cho việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ trở nên dễ dàng hơn bằng cách cung cấp một đơn vị đo lường chung cho giá trị.
Dự trữ cấp 2 của ngân hàng thương mại là những tài sản có tính thanh khoản cao nhưng không phải là tiền dự trữ. Chứng khoán đầu tư là một loại dự trữ cấp 2, bao gồm các trái phiếu, cổ phiếu, giấy tờ có giá và các khoản đầu tư khác có thể được bán nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu thanh toán của ngân hàng.
Lợi suất đáo hạn của trái phiếu có thể được tính bằng công thức sau:
Trong đó:
YTM là lợi suất đáo hạn
C là lãi trái phiếu
F là mệnh giá trái phiếu P là giá trái phiếu n là số năm đáo hạn của trái phiếu
Thay các giá trị cho biết vào công thức, ta được:
Trái phiếu a: YTM = = 0.08
Trái phiếu b: YTM==0.1022
Trái phiếu c: YTM= =0.05
Trái phiếu d: YTM==0.0418
Ta thấy trái phiếu d có lợi suất đáo hạn thấp nhất.
Trong thông tin bất cân xứng, vấn đề được tạo ra trước khi giao dịch xảy ra được gọi là lựa chọn nghịch, trong khi vấn đề được tạo ra sau khi giao dịch xảy ra được gọi là rủi ro đạo đức.
Giá của trái phiếu nào sẽ biến động ít nhất khi lãi suất thị trường thay đổi là: Trái phiếu có lãi suất danh nghĩa (lãi coupon) 5%, thời gian đáo hạn 5 năm
Giá của trái phiếu sẽ biến động ít nhất khi lãi suất thị trường thay đổi nếu trái phiếu có thời gian đáo hạn ngắn hơn và lãi suất danh nghĩa thấp hơn.
Khi vay thế chấp với lãi suất cố định, số tiền trả hàng tháng sẽ không thay đổi. Tuy nhiên, phần lãi suất trong số tiền trả hàng tháng sẽ giảm dần, do đó, phần vốn gốc phải trả hàng tháng sẽ tăng dần. Điều này có nghĩa là, khi bạn trả nợ, bạn sẽ trả một phần lớn lãi suất vào những năm đầu tiên, và sau đó dần dần trả nhiều hơn vào vốn gốc khi bạn tiến gần đến ngày đáo hạn của khoản vay. Điều này được gọi là lịch trả nợ theo hình thức vay hoàn trả cố định.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán.
Định nghĩa về đa dạng hóa được thể hiện qua câu: Đừng đặt tất cả những quả trứng của bạn trong một cái giỏ. Đây là một cách diễn đạt thông dụng để mô tả nguyên tắc đa dạng hóa trong đầu tư, nghĩa là không nên đầu tư tất cả vốn vào một loại tài sản duy nhất.
Giá trị hiện tại (PV) của một khoản tiền nhận được trong tương lai (FV) có thể được tính bằng công thức sau:
PV=
Trong đó:
PV là giá trị hiện tại
FV là giá trị tương lai (số tiền nhận được trong tương lai)
r là lãi suất
n là số năm
Thay các giá trị cho biết vào công thức, ta được:
PV=
Vì vậy, giá trị hiện tại của $2,000 nhận được sau 1 năm với lãi suất là 6% là $1,887.
Rủi ro là: Sự bất trắc
Thị trường thứ cấp là nơi mà các chứng khoán đã được phát hành được mua bán. Chức năng chính của thị trường thứ cấp là cung cấp cho các nhà đầu tư một cơ hội để thoát ra hoặc vào các khoản đầu tư, do đó cung cấp vốn cho tổ chức phát hành.
Khi chính phủ hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh, điều này sẽ tác động đến suất sinh lời dự tính của tài sản. Doanh nghiệp sẽ có khả năng sinh lời cao hơn từ tài sản của mình do chi phí vay vốn giảm.
Lạm phát là tình trạng giá cả tăng lên, nhưng không phải nguyên nhân của lạm phát là do giá cả tăng lên. Nguyên nhân của lạm phát thường do nhiều yếu tố khác nhau như tăng trưởng tiền tệ, nhu cầu và cung cấp hàng hóa và dịch vụ, và chính sách của chính phủ.
Hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán đều đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt vốn đến các cơ hội đầu tư. Chúng bổ sung cho nhau và cung cấp các lựa chọn đầu tư với mức độ rủi ro và lợi nhuận tiềm năng khác nhau.
Để số tiền nhận được sau 1 năm đầu tư (FV) là như nhau, biết giá trị ban đầu (PV) của hai khoản đầu tư là như nhau, lãi suất danh nghĩa của khoản đầu tư thứ hai phải cao hơn do lãi suất được gộp mỗi quý so với mỗi nửa năm của khoản đầu tư thứ nhất.
Để tính lãi suất danh nghĩa của khoản đầu tư thứ hai, ta cần sử dụng công thức sau: i=¿
Trong đó: i là lãi suất danh nghĩa r là lãi suất thực (lãi suất danh nghĩa của khoản đầu tư thứ nhất) m là số lần gộp lãi trong một năm (m = 4 vì lãi suất được gộp mỗi quý)
Thay các giá trị cho biết vào công thức, ta được: i=¿
Vì vậy, lãi suất danh nghĩa của khoản đầu tư thứ hai phải là 9,31% để số tiền nhận được sau 1 năm đầu tư là như nhau.