lOMoARcPSD| 60860503
ÔN TẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
1/ Ôn phần Ấn Độ tín ngưỡng tôn giáo Phật Giáo
( chương II văn minh Ấn Độ )
2/ Trung Quốc: tín ngưỡng tôn giáo; các thành tựu nổi bật
( chương III văn minh Trung Quốc )
3/Phong trào văn hóa Phục Hưng ( đêm trường trung cổ )
( chương VI Tây Âu thời trung đại )
Cách mạng công nghiệp thế giới lần thứ 1 ảnh hưởng như thế o đến thế giới
Việt Nam
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (khoảng giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ
19) đã những ảnh hưởng sâu rộng đến cả thế giới và Việt Nam. Dưới đây một
cái nhìn tổng quan về những tác động này trong bối cảnh lịch sử văn minh thế giới.
1. Ảnh hưởng đến thế giới
a. Kinh tế
Chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp: Nền kinh tế
chuyển từ sản xuất nông nghiệp chủ yếu sang sản xuất công
nghiệp, với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành như dệt may,
luyện kim và giao thông vận tải.
Tăng trưởng năng suất: Sự ra đời của máy móc và công nghệ
mới giúp tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất và tạo
ra hàng hóa với số lượng lớn.
Thương mại toàn cầu: Sự phát triển của giao thông vận tải
(đường sắt, tàu thủy) đã thúc đẩy thương mại quốc tế, tạo ra các
thị trường mới và kết nối các nền kinh tế.
lOMoARcPSD| 60860503
b. Xã hội
Đô thị hóa: Nhiều người từ nông thôn di đến thành phố để
tìm kiếm việc làm trong các nhà máy, dẫn đến sự phát triển
nhanh chóng của các đô thị.
Giai cấp công nhân: Sự hình thành giai cấp công nhân, với
những điều kiện làm việc khó khăn, đã dẫn đến các phong trào
công nhân và yêu cầu cải cách xã hội.
tưởng văn hóa: Cuộc Cách mạng Công nghiệp đã thúc
đẩy các tưởng mới về tự do, bình đẳng quyền con người,
ảnh hưởng đến các phong trào chính trị hội. 2. Ảnh hưởng
đến Việt Nam
a. Kinh tế
Khai thác tài nguyên: Trong thời kỳ thuộc địa, thực dân Pháp
đã áp dụng các công nghệ và phương thức sản xuất mới để khai
thác tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam, như cao su, than đá
và gỗ.
Thay đổi trong sản xuất nông nghiệp: Một số phương pháp
canh tác mới được áp dụng, nhưng chủ yếu phục vụ cho lợi ích
của thực dân, không mang lại lợi ích cho nông dân Việt Nam. b.
Xã hội
Phong trào yêu nước: Sự bất bình với chế độ thực dân và điều
kiện sống kkhăn đã dẫn đến sự hình thành các phong trào yêu
nước, như phong trào Đông Du, phong trào Cần Vương.
tưởng cải cách: Cuộc Cách mạng Công nghiệp đã ảnh
hưởng đến tưởng cải cách hiện đại hóa Việt Nam, với
lOMoARcPSD| 60860503
những nhân vật như Phan Châu Trinh, Nguyễn Trường Tộ, kêu
gọi cải cách giáo dục và kinh tế.
3. Kết luận
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất không chỉ là một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử văn minh thế giới còn có những tác động sâu sắc đến Việt Nam.
đã thúc đẩy sphát triển kinh tế, hội chính trị, đồng thời tạo ra những thách
thức hội mới cho đất nước trong bối cảnh thuộc địa. Những ảnh hưởng này vẫn
còn được cảm nhận cho đến ngày nay, khi Việt Nam tiếp tục qtrình hiện đại hóa
và hội nhập toàn cầu.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác đọng như thế nào đến Việt Nam con người trên
thế giới
TCCS - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ đã đang diễn ra mạnh mẽ trên
quy mô toàn cầu. Sự phát triển của một số công nghệ mang tính đột phá trong cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ
mạng 5G, công nghệ sinh học... đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi khía cạnh, từ
an ninh - chính trị đến kinh tế, xã hội.
Ở cấp độ toàn cầu
-Tác động tới an ninh - chính trị
Các công nghệ đột phá do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ mang lại
đã tạo điều kiện để các quốc gia ứng phó xhiệu quả hơn với nhiều
thách thức, rủi ro an ninh, ndịch bệnh, khủng bố quốc tế, thảm họa tự
nhiên,... Trong cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thời gian qua,
nhờ sự phát triển của lĩnh vực công nghệ sinh học mà thế giới đã nhanh chóng
nghiên cứu, phát triển được các loại vắc-xin ngăn ngừa sự lây lan nhanh chóng
của vi-rút cũng như các biến thcủa vi-rút, hạn chế tối đa những bất ổn ảnh
hưởng đối với an ninh - chính trị toàn cầu. Bên cạnh đó, những công nghệ đột
phá trong lĩnh vực AI cùng với sự hỗ trợ của mạng 5G cũng góp phần tạo ra
những công cụ hiệu quả để nhận diện và ứng phó với các rủi ro an ninh mạng
lOMoARcPSD| 60860503
toàn cầu, các thảm họa tự nhiên, như sóng thần, bão lũ, hạn hán,... cùng với
các vấn đề xuyên quốc gia khác như nguy cơ khủng bố...
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một cuộc tranh đua về
công nghệ hết sức khốc liệt giữa các quốc gia, gây hệ lụy bất ổn đối với an ninh -
chính trị toàn cầu và thúc đẩy cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Để có thể
giành được vị trí dẫn đầu trong cuộc chiến công nghệ này, các quốc gia không chỉ c
gắng đưa ra các chiến lược, chính sách thúc đẩy khoa học - công nghệ, tăng cường
đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước,... còn dùng mọi biện pháp để kiềm
chế, kìm hãm sự vươn lên của các đối thủ trong cuộc tranh đua này. Cuộc cạnh tranh
giữa Mỹ Trung Quốc một minh chứng. Trong gần một thập niên vừa qua, Trung
Quốc đã vươn lên mạnh mẽ thu hẹp khoảng cách về lĩnh vực khoa học - công
nghệ so với Mỹ. Thậm chí, ở một số lĩnh vực, Trung Quốc được cho là đã bắt kịp
sẽ sớm vượt qua Mỹ như công nghệ AI(1), nắm ưu thế dẫn đầu trong một số công
nghệ như mạng 5G, công nghệ nhận diện khuôn mặt,... với sphát triển mạnh mẽ
của các tập đoàn công nghệ Trung Quốc n ZTE, Huawei, Alibaba, Tencent,
Baidu,...(2). Điều này khiến Trung Quốc trở thành thách thức chiến lược lớn nhất đối
với Mỹ(3). Ngoài ra, cuộc cạnh tranh này cũng tạo nên sức ép cho các quốc gia nhỏ
hơn trong việc “chọn bên”. Rõ ràng, các hành động leo thang trong cuộc cạnh tranh
chiến lược giữa các cường quốc về công nghệ đã tạo ra những rủi ro bất ổn đối
với an ninh - chính trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ với sự gia tăng kết nối thông
qua internet cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về bảo đảm an ninh, an toàn mạng và bảo
mật thông tin đối với các quốc gia và khu vực. Trong thời gian qua, vấn đề an ninh
mạng trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng khi mà các cuộc tấn công
mạng ngày càng đa dạng về hình thức cũng nmức độ ảnh hưởng(4). Theo báo cáo
lOMoARcPSD| 60860503
của Ủy ban châu Âu (EC), số lượng các cuộc tấn công mạng châu Âu tăng 75%
(năm 2020), với 756 sự cố an ninh mạng đã được ghi nhận, chủ yếu nhằm vào hệ
thống chăm sóc sức khỏe, tài chính, năng lượng các kết cấu hạ tầng khác. Hay
căng thẳng diễn ra giữa Mỹ và Tập đoàn Huawei khi Mỹ cho rằng, công nghệ mạng
5G của Trung Quốc thể tạo ra nền tảng trợ giúp các hoạt động gián điệp. Vì thế,
Mỹ đã cấm sử dụng thiết bị của Tập đoàn Huawei trong các mạng nội địa, đồng thời
gây sức ép với các quốc gia đồng minh áp dụng các biện pháp tương tự để bảo đảm
an ninh quốc gia... thể thấy, vấn đề an ninh mạng trong thời đại công nghệ 4.0
cũng là nguyên nhân khiến các mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng.
Một thách thức khác đối với an ninh - chính trị thế giới đó khả năng xảy ra cuộc
chiến tranh sử dụng khí công nghệ mới và khí sinh học. Trong thời gian gần
đây, nhiều quốc gia trên thế giới đầu vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ AI trong
lĩnh vực quân sự, quốc phòng, như chế tạo rô-bốt, tên lửa hành trình, tàu ngầm, máy
bay không người lái,... Bên cạnh đó, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ sinh học
thời gian gần đây cũng tạo ra nhiều lợi thế cho những quốc gia đã ứng dụng thành
công công nghệ này. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, các loại công
nghệ này có nguy cơ trở thành thảm họa đối với nhân loại.
-Tác động tới kinh tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ làm thay đổi nền tảng, thúc đẩy các nền
kinh tế truyền thống chuyển đổi sang kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo. Thực tiễn
cho thấy, các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trước đều góp phần quan trọng
vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu của Công ty kiểm toán hàng đầu
thế giới Pricewaterhouse Coopers (PwC), công nghệ AI thể làm tốc độ tăng trưởng
kinh tế thế giới tăng 14% (tương đương 15,7 nghìn tỷ USD) vào năm 2030(5). Bên
cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng làm gia tăng các yếu tố sản xuất - kinh doanh, kéo
lOMoARcPSD| 60860503
theo tăng thu nhập dẫn đến sự gia tăng tiêu dùng dân cư, tăng đầu tư cho cả nền
kinh tế tăng năng suất lao động. Cùng với đó, nhờ ứng dụng công nghệ, chi phí
giao thông vận tải thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, chuỗi cung ứng toàn cầu s
trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại được giảm bớt. Tất cả những yếu tố
trên góp phần mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động thương mại đầu toàn cầu.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ cũng làm gia tăng khoảng cách
phát triển giữa các quốc gia định hình lại bản đồ kinh tế thế giới. Trong đó, các
nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng công nghệ schiếm ưu thế, trong khi các nền
kinh tế “thâm dụng” tài nguyên khoáng sản hay “thâm dụng” lao động thì dần trở
nên mất lợi thế(6). Nói cách khác, các quốc gia đang phát triển sphải đối mặt với
nguy tụt hậu khi mất đi những lợi thế cạnh tranh cũng như hội mang lại từ cuộc
chiến công nghệ này. Trong khi đó, các nền kinh tế phát triển vốn đã lợi thế tài
chính và nhân lực chất lượng cao, lại biết tận dụng tốt cơ hội sẽ phát triển ngày càng
mạnh mẽ và ổn định hơn. Điều này khiến cục diện kinh tế thế giới ngày càng trở nên
mất cân bằng và nhiều rủi ro hơn.
-Tác động tới xã hội
Các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
hiện nay đã tạo ra những xáo trộn thay đổi về mặt xã hội trên quy mô toàn cầu,
nhưng kết quả đều làm gia tăng năng suất lao động, của cải vật chất, cải thiện sức
khỏe đời sống tinh thần của mọi người dân,... hay nói cách khác, các cuộc cách
mạng công nghiệp đều góp phần phát triển phúc lợi xã hội cho nhân loại. Trong lịch
sử, các cuộc cách mạng công nghiệp đều tạo ra hàng loạt cải cách, điều chỉnh lớn về
chính trị cũng như thể chế xã hội, như cách mạng dân chủ, quyền lợi công đoàn hay
những thay đổi về luật thuế, an sinh hội... Đặc biệt, với những tiến bộ đột phá gần
đây, thế giới đã thể ứng phó tốt hơn với các thách thức toàn cầu, như trong lĩnh
lOMoARcPSD| 60860503
vực môi trường, công nghệ sinh học được ứng dụng vào xử ô nhiễm, khắc phục
suy thoái scố môi trường... Trong lĩnh vực y dược, công nghệ sinh học cũng
được ứng dụng để nghiên cứu, phát triển sản xuất các vắc-xin thiết yếu, vắc-xin thế
hệ mới, chế phẩm chẩn đoán thuốc chữa bệnh... Đặc biệt, trong bối cảnh dịch
bệnh COVID-19, việc sản xuất nhanh chóng các loại vắc-xin phòng, chống dịch bệnh
cho thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của ngành công nghệ sinh học. Ngoài ra, cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ cũng thúc đẩy chuyển dịch cấu lao động
hội, tạo ra những thay đổi vviệc làm, cả về cấu lẫn bản chất công việc với sự
xuất hiện ngày càng đông đảo các tầng lớp sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học,
thiết kế, văn hóa, nghệ thuật, giải trí, truyền thông, giáo dục, y tế...
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ cũng tác động sâu sắc đến mọi
mặt của đời sống hội, nhất vấn đề bất bình đẳng chênh lệch phát triển,...
Theo nhà kinh tế học En-gớt Đi-tơn (Angus Deaton), mọi cuộc cách mạng công
nghiệp đều dẫn đến một giai đoạn phân kỳ, gia tăng khoảng cách phát triển rất lớn
giữa các quốc gia(7). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đang thúc đẩy
phân công lao động theo hướng các ngành, nghề đòi hỏi khả năng đổi mới sáng tạo
cùng với đó, giảm thiểu các công việc chân tay có thu nhập thấp các công việc
tính chất lặp đi, lặp lại. Nhiều lĩnh vực khả năng tự động hóa cao, như chế tạo,
điện thoại viên, người khai thuế, giám định bảo hiểm và một số ngành, nghề khác đã
được thay thế một phần hoặc hoàn toàn. Trong một số công đoạn của ngành bảo hiểm
có thể không cần sự can thiệp của con người, hầu hết truy vấn khách hàng đều được
trả lời tự động... Đã có một số rô-bốt tư vấn xuất hiện trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng... Hệ quả là, một bộ phận người lao động đang làm các công việc này sẽ phải
nghỉ việc hoặc tìm một công việc khác thay thế, thể thất nghiệp trong một thời
gian dài.
Ở cấp độ khu vực
-Tác động về an ninh - chính trị
Trong thời gian gần đây, việc ứng dụng các công nghệ đột phá do cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ mang lại đã góp phần bảo đảm an ninh - chính trị của các
lOMoARcPSD| 60860503
quốc gia trong khu vực. Trong số các quốc gia này, Xin-ga-po được xem là quốc gia
đi đầu trong phát triển khoa học - công nghệ nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. Hiện
nay, quan Khoa học kỹ thuật công nghệ Bộ Nội vụ của Xin-ga-po (HTX) đang
nghiên cứu phát triển ứng dụng AI trong sinh trắc học (thử nghiệm dấu vân tay nhằm
xác định các yếu tố khác ngoài danh tính), phát triển công nghệ chó rô-bốt cứu nạn,
phát triển phương tiện di động đối phó với thiết bị bay không người lái (drone),...
Theo kế hoạch đến năm 2025, Xin-ga-po sẽ kiểm soát an ninh tại tất cả các trạm
kiểm soát nhập cảnh thông qua tự động hóa hoàn toàn với công nghệ quét nhận dạng
vân tay, nhận diện khuôn mặt và nhận diện mống mắt.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
thời gian qua cũng dẫn tới sgia tăng các hình thức mức đphức tạp của loại
hình tội phạm công nghệ cao,... tác động không nhỏ tới an ninh khu vực Đông Nam
Á, bởi đây là một trong những khu vực phát triển năng động tỷ lệ người sử
dụng internet cao trên thế giới. thkể tới một số phương thức lừa đảo qua internet,
như lừa đảo qua thư điện tử doanh nghiệp, tấn công giả mạo, mã độc tống tiền, đánh
cắp dữ liệu thương mại điện tử, mua bán các công cụ độc hại lừa đảo trực tuyến,...
Trong đó, hình thức độc tống tiền đã tăng mạnh trong thời gian gần đây. Theo
thống kê của nhà sản xuất phần mềm bảo mật Kaspersky (Nga), có khoảng 2,7 triệu
độc tống tiền xuất hiện khu vực Đông Nam Á trong ba quý đầu năm 2020,
trong đó In-đô--xi-a quốc gia bị tấn công nhiều nhất với 1,3 triệu lượt(8). Đặc
biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, các đối tượng xu hướng tăng cường
tấn công các bệnh viện, trung tâm chăm sóc sức khỏe và các quan hành chính.
Bên cạnh đó, xu hướng đánh cắp tiền ảo cũng đang gia tăng tại Đông Nam Á khi các
loại tiền ảo phát triển bùng nổ và thiếu sự kiểm soát của các cơ quan chức năng.
Điều đáng nói là, do năng lực trình độ phát triển công nghệ khu vực sự chênh
lệch lớn, các nước trình độ khoa học chậm phát triển hơn dường như không thể
có khả năng ứng phó với thách thức an ninh mạng một cách hiệu quả. Trong khi đó,
chỉ cần một mắt xích yếu kém, vấn đề an ninh bảo mật của khu vực thể sẽ bị rơi
vào tình trạng nguy hiểm.
lOMoARcPSD| 60860503
-Tác động về kinh tế
Đông Nam Á là khu vực với đặc điểm dân số trẻ, tầng lớp trung lưu tăng lên nhanh
chóng trong thời gian gần đây. Với sự nhanh nhạy và năng động trong việc áp dụng
công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ được xem hội lớn đcác
nền kinh tế Đông Nam Á thbứt phá vươn lên nhờ chuyển đổi sang nền kinh tế
số. In-đô--xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po, Thái Lan Việt Nam các
quốc gia được đánh giá sự phát triển kinh tế số mạnh mẽ thời gian qua. Năm 2019,
nền kinh tế số của Đông Nam Á lần đầu tiên chạm ngưỡng 100 tỷ USD, tăng gấp ba
lần trong giai đoạn 2016 - 2019. Đáng chú ý, Việt Nam và In-đô--xi-a được đánh
giá là hai quốc gia tiềm năng lớn nhất đphát triển nền kinh tế số so với các quốc
gia khác trong khu vực, với tốc đtăng trưởng kinh tế số hơn 40%/năm. Tiếp đó
Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan, với mức tăng trưởng kinh tế số đạt
trung bình 20% - 30%/năm. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, kinh tế số của Đông
Nam Á tiềm năng trở thành một trong m nền kinh tế số hàng đầu thế giới với
mức 300 tỷ USD vào năm 2025.
Trong rất nhiều lĩnh vực tiềm năng tăng trưởng nhờ cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, thương mại điện tử hiện là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng
nhanh nhất. Giá trị của ngành thương mại điện tử Đông Nam Á đạt 62 tỷ USD năm
2020, tăng 63% so với năm 2019. Dự báo, quy ngành thương mại điện tử sẽ chạm
mốc 172 tỷ USD vào năm 2025. Ngoài ra, chuyển đổi số cũng tạo ra nhiều hội
phát triển cho những lĩnh vực mới như tài chính, y tế và giáo dục...
Tuy nhiên, chuyển đổi sang kinh tế số trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cũng tác động không nhỏ tới các nền kinh tế trong khu vực, đặc biệt các
doanh nghiệp vừa, nhỏ siêu nhỏ (MSME). Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi các
doanh nghiệp áp dụng các hình, hệ thống, công nghệ mới cùng với hàng loạt điều
chỉnh khác, trong khi đó, MSME thường rất khó để có thể đầu tư thay đổi công nghệ
hiện đại. Phần lớn các doanh nghiệp Đông Nam Á đều MSME nên gặp nhiều
khó khăn khi chuyển đổi, thường khó bắt nhịp với những cơ hội đó. Điều này tạo ra
áp lực cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp lớn trong khu vực hoặc doanh
lOMoARcPSD| 60860503
nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng đòi hỏi
những điều chỉnh về thể chế, chính sách, quy định pháp mới, vấn đcấp phép,
thuế,... Điều này cũng tác động tới các quan hành chính công cả các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh tế số trong một giai đoạn nhất định.
-Tác động tới xã hội
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang tiềm ẩn không ít thách thức cho
nền kinh tế khu vực. Các quốc gia trong khu vực như Cam-pu-chia, In-đô--xi-a,
Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan Việt Nam sphải chuyển đổi khoảng 54% -
56% công việc hiện tại sang tự động hó#a. Đặc biệt, một số lĩnh vực sản xuất công
nghiệp lớn và tính lặp đi, lặp lại như lĩnh vực dệt may da giày sẽ chịu nhiều
tác động nhất. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 2/3 trong số 9,2 triệu lao động
ngành dệt may da giày tại khu vực Đông Nam Á đang bị đe dọa, trong đó 88%
lao động của Cam-pu-chia 64% lao động In-đô--xi-a trong ngành này schịu
ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự động hóa, công nghiệp hóa(9).
Đối với Việt Nam
-Tác động tới an ninh - chính trị
Việt Nam được cho một trong những quốc gia khả năng thích ứng tương đối tốt
với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhờ sự chủ động tạo dựng môi trường
phát triển công nghệ với nguồn nhân lực chất lượng cao về ngành công nghệ. Đây là
điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác các cơ hội mà cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư mang lại. Trong thời gian qua, tỷ lệ ứng dụng thành quả của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thngày càng gia tăng, nhiều sản phẩm được
đưa vào trang btrong các ngành, nghề. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ cũng đang tạo ra nhiều thách thức đối với việc bảo đảm an ninh - chính trị của
Việt Nam. Sự tăng trưởng năng động của Việt Nam cùng với sự bùng nổ của các
công nghệ hiện đại khiến tỷ lệ tham gia internet của các cơ quan chính phủ, tổ chức,
doanh nghiệp và người dân ngày càng nhiều và trở thành mục tiêu của các cuộc tấn
công mạng. Thời gian gần đây, số lượng các cuộc tấn công các trang mạng của các
quan chính phủ, hệ thống tài chính, ngân hàng, htầng thông tin trọng yếu, doanh
lOMoARcPSD| 60860503
nghiệp tại Việt Nam... nhằm đánh cắp thông tin, mật nhà nước, đánh cắp thành tựu
khoa học - công nghệ, sở hữu trí tuệ... ngày càng gia tăng. Theo thống của nhà
sản xuất phần mềm bảo mật Kaspersky, Việt Nam có số lượng máy tính điều khiển
hệ thống công nghiệp bị tấn công mạng nhiều nhất trên thế giới, với tỷ lệ gần
70%(10). Trong khi đó, nền tảng kết cấu hạ tầng mạng của Việt Nam còn nhiều lỗ
hổng bảo mật, chưa được kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Thực trạng này không
chỉ đặt ra thách thức đối với an toàn của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp còn tiềm
ẩn các hoạt động lợi dụng không gian mạng để kích động biểu tình, phát tán thông
tin xấu, độc, sai sự thật nhằm tiến hành các hoạt động khủng bố, tuyên truyền chống
phá chế độ. Điều này tác động trực tiếp tới vấn đề ổn định chính trị - an ninh của Việt
Nam.
-Tác động tới kinh tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ đang mở ra nhiều hội cho các nước trong
khu vực, đặc biệt các nước đang phát triển như Việt Nam. Nhờ tiềm năng to lớn
của chuyển đổi số sự cải thiện đáng kể của các trụ cột chính để tiếp cận cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, như htầng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực
thể chế thời gian qua chính điều kiện để Việt Nam thể tận dụng tối đa các
hội cuộc Cách mạng công nghiệp lần thmang lại. Nhiều lĩnh vực sẽ được
hưởng lợi tcuộc cách mạng này nếu chiến lược phát triển đúng hướng, n
thương mại điện tử, du lịch, công nghệ thông tin, tài chính - ngân hàng, giáo dục, y
tế, chính phủ điện tử... Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới, với việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, quy lớn chất lượng cao, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt
Nam (EVFTA),... sẽ tạo điều kiện tiếp cận thành tựu công nghệ sản xuất mới đtham
gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sở để Việt Nam thể đổi mới hình
tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, góp phần rút ngắn khoảng cách phát
triển giữa Việt Nam các nước trong khu vực trên thế giới. Theo dự báo, tới năm
2030, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể thúc đẩy tăng trưởng nền kinh
tế Việt Nam từ 28,5 tỷ USD - 62,1 tỷ USD, tương đương 7% - 16% GDP(11).
lOMoARcPSD| 60860503
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ cũng tạo ra sức ép lớn đối với
một số ngành, nhóm ngành, như năng lượng, công nghiệp chế tạo, dệt may, điện tử...
trong trung hạn. Một số chuyên gia kinh tế nhận định, trong khi thế giới đang tiến
vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ thì Việt Nam vẫn đang giai đoạn tương
ứng với trình độ cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ hai với công nghệ lạc hậu, thâm
dụng lao động và chủ yếu tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu ở một số khâu
đơn giản, giá trị gia tăng thấp như gia công, lắp ráp... Bên cạnh đó, phần lớn doanh
nghiệp của Việt Nam các MSME phải đối mặt với nhiều rào cản trong quá trình
chuyển đổi số. Trong báo cáo của Tập đoàn Cisco năm 2018 về chỉ số phát triển kỹ
thuật số của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho thấy,
các rào cản của MSME Việt Nam bao gồm thiếu kỹ năng số nhân lực (17%), thiếu
nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh để cho phép chuyển đổi kỹ thuật số (16,7%),
thiếu duy kỹ thuật số hoặc các thách thức vvăn hóa kỹ thuật số trong doanh
nghiệp (15,7%)...(12).
-Tác động tới xã hội
Đối với Việt Nam, 86% lao động trong c ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam
nguy cao mất việc làm dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Con số này sẽ còn lớn hơn vì dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc
làm cho nhiều lao động nhất (ngành dệt may khoảng gần 2,3 triệu người, trong đó
78% lao động nữ; ngành giày dép khoảng gần 0,98 triệu người, trong đó khoảng
74% lao động nữ). Trong số đó, nhiều lao động ít kỹ năng (với 17% 26%
lao động trong ngành dệt may giày dép chỉ trình độ tiểu học) và một tỷ lđáng
kể không còn trẻ, từ 36 tuổi trở lên: 35,84% đối với ngành dệt may 25,37% đối
với ngành giày dép(13).
thể thấy rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ đã đang mở ra nhiều cơ
hội cho các nước, nhất là các quốc gia khu vực Đông Nam Á như Việt Nam nhờ vào
chuyển đổi kinh tế số để thể rút ngắn khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, quá trình
này cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất trong bối cảnh Việt Nam
đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc khéo léo lựa chọn con
lOMoARcPSD| 60860503
đường phát triển phù hợp là bước đi phù hợp để có thể vừa tránh được những rủi ro,
vừa tận dụng tối đa các hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ mang lại./.
Ra đời phật giáo ở phương tây tác động đến Việt Nam như thế nào
Phật giáo, mặc dù có nguồn gốc từ Ấn Độ, đã những ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều
nền văn hóa và tôn giáo trên thế giới, bao gồm cả phương Tây Việt Nam. Dưới
đây là một cái nhìn tổng quan về sự ra đời của Phật giáo ở phương Tây và tác động
của nó đến Việt Nam.
1. Sự ra đời của Phật giáo ở phương Tây
Thế kỷ 19 và 20: Phật giáo bắt đầu được biết đến ở phương
Tây vào thế kỷ 19, khi các nhà nghiên cứu, học giả và du khách
phương Tây bắt đầu khám phá văn hóa tôn giáo của các nước
châu Á, đặc biệt là Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Phong trào m linh: Vào thế kỷ 20, Phật giáo trở thành một
phần của phong trào tâm linh rộng lớn hơn phương Tây, với
sự xuất hiện của các trường phái như Thiền (Zen) Phật giáo
Tây Tạng. Nhiều người phương Tây tìm kiếm sự bình an nội tâm
và tri thức từ giáo lý Phật giáo.
Tổ chức và cộng đồng: Nhiều tổ chức Phật giáo đã được thành
lập phương Tây, như Hội Phật giáo Mỹ (Buddhist Churches of
America) các trung tâm thiền, giúp phổ biến giáo Phật giáo
và thực hành thiền định.
2. Tác động đến Việt Nam
a. Tăng cường sự giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa: Sự phát triển của Phật giáo phương Tây đã
tạo ra hội cho sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước
lOMoARcPSD| 60860503
phương Tây. Nhiều người Việt Nam đã tham gia vào các phong
trào Phật giáo quốc tế, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm.
Đổi mới tư duy: Những tư tưởng và triết lý mới từ phương
Tây đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và thực hành Phật giáo ở
Việt Nam, thúc đẩy sự đổi mới trong các trường phái Phật giáo
truyền thống.
b. Phát triển cộng đồng Phật giáo
Tăng cường sự hiện diện của Phật giáo: Sự quan tâm đến Phật
giáo ở phương Tây đã giúp nâng cao nhận thức về Phật giáo tại
Việt Nam, khuyến khích nhiều người trẻ tìm hiểu thực hành
giáo lý Phật giáo.
Hợp tác quốc tế: Các tổ chức Phật giáo Việt Nam đã tham gia
vào các hoạt động quốc tế, tạo ra hội hợp tác phát triển
giữa các cộng đồng Phật giáo trên toàn thế giới.
c. Thách thức và cơ hội
Thách thức: Sự phát triển của các tôn giáo triết mới
phương Tây thể tạo ra sự cạnh tranh với các tôn giáo truyền
thống ở Việt Nam, bao gồm cả Phật giáo.
hội: Sự giao lưu văn hóa và tôn giáo có thể tạo ra cơ hội cho
sự phát triển và đổi mới trong Phật giáo Việt Nam, giúp thích
ứng với bối cảnh hiện đại.
Kết luận
Sự ra đời phát triển của Phật giáo ở phương Tây đã tạo ra những tác động tích cực
thách thức cho Phật giáo tại Việt Nam. không chỉ thúc đẩy sự giao lưu văn
hóa còn tạo ra hội cho sự phát triển đổi mới trong cộng đồng Phật giáo Việt
lOMoARcPSD| 60860503
Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại có thể giúp Phật giáo Việt Nam phát
triển mạnh mẽ hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Việt Nam tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới như thế nào
Việt Nam đã tiếp thu và ứng dụng những thành tựu văn minh thế giới qua nhiều giai
đoạn lịch sử, từ thời kỳ phong kiến cho đến hiện đại. Dưới đây là một cái nhìn tổng
quan về cách Việt Nam tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới:
1. Thời kỳ phong kiến
a. Tiếp thu văn hóa Trung Quốc
Nho giáo: Việt Nam đã tiếp thu Nho giáo từ Trung Quốc, ảnh
hưởng đến tư tưởng, giáo dục và quản lý nhà nước. Nho giáo
đã trở thành nền tảng cho hệ thống giáo dục chính trị trong
xã hội phong kiến Việt Nam.
Văn học và nghệ thuật: Các tác phẩm văn học, thơ ca, và nghệ
thuật từ Trung Quốc đã được dịch sáng tác lại, tạo nên một
nền văn học phong phú và đa dạng.
b. Ảnh hưởng của Phật giáo
Phật giáo: Được du nhập từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Phật giáo
đã phát triển mạnh mẽ Việt Nam, ảnh hưởng đến văn hóa, nghệ
thuật và triết lý sống của người Việt.
2. Thời kỳ thuộc địa (1858-1945)
a. Tiếp thu công nghệ và khoa học
Công nghệ phương Tây: Trong thời kỳ thực dân Pháp, Việt
Nam đã tiếp thu nhiều công nghệ mới, đặc biệt trong lĩnh vực
giao thông (đường sắt, đường bộ) nông nghiệp (các phương
pháp canh tác hiện đại).
lOMoARcPSD| 60860503
Giáo dục: Hệ thống giáo dục phương Tây được thiết lập, với
việc thành lập các trường học và đại học, giúp nâng cao trình độ
dân trí.
b. Tư tưởng và phong trào cách mạng
tưởng tự do bình đẳng: Các tưởng cách mạng từ
phương Tây, như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội, đã ảnh
hưởng đến các phong trào yêu nước và cách mạng tại Việt Nam,
dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị phong trào đấu
tranh giành độc lập.
3. Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)
a. Cải cách kinh tế
Đổi mới: Chính sách Đổi mới được thực hiện từ năm 1986 đã
mở cửa nền kinh tế Việt Nam, tiếp thu các hình phát triển
kinh tế từ các nước phát triển, như kinh tế thị trường, thu hút đầu
tư nước ngoài và phát triển doanh nghiệp tư nhân.
Công nghệ thông tin: Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu ứng
dụng công nghệ thông tin, phát triển hạ tầng viễn thông
internet, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế số.
b. Giao lưu văn hóa và giáo dục
Hợp tác quốc tế: Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức quốc
tế, kết các hiệp định thương mại tdo, tạo hội cho việc
giao lưu văn hóa, giáo dục và khoa học.
Du học trao đổi sinh viên: Nhiều sinh viên Việt Nam đã đi
du học ở nước ngoài, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm, sau đó
trở về đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
lOMoARcPSD| 60860503
Kết luận
Việt Nam đã tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử,
từ việc tiếp nhận văn hóa và tri thức từ Trung Quốc, đến việc áp dụng công nghệ và
tư tưởng phương Tây trong thời kỳ thuộc địa, và cuối cùng là việc thực hiện các cải
cách kinh tế và giao lưu quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Những thành tựu này đã góp
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60860503
ÔN TẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
1/ Ôn phần Ấn Độ tín ngưỡng tôn giáo Phật Giáo
( chương II văn minh Ấn Độ )
2/ Trung Quốc: tín ngưỡng tôn giáo; các thành tựu nổi bật
( chương III văn minh Trung Quốc )
3/Phong trào văn hóa Phục Hưng ( đêm trường trung cổ )
( chương VI Tây Âu thời trung đại )
Cách mạng công nghiệp thế giới lần thứ 1 ảnh hưởng như thế nào đến thế giới và
Việt Nam
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (khoảng giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ
19) đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến cả thế giới và Việt Nam. Dưới đây là một
cái nhìn tổng quan về những tác động này trong bối cảnh lịch sử văn minh thế giới.
1. Ảnh hưởng đến thế giới a. Kinh tế
Chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp: Nền kinh tế
chuyển từ sản xuất nông nghiệp chủ yếu sang sản xuất công
nghiệp, với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành như dệt may,
luyện kim và giao thông vận tải. •
Tăng trưởng năng suất: Sự ra đời của máy móc và công nghệ
mới giúp tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất và tạo
ra hàng hóa với số lượng lớn. •
Thương mại toàn cầu: Sự phát triển của giao thông vận tải
(đường sắt, tàu thủy) đã thúc đẩy thương mại quốc tế, tạo ra các
thị trường mới và kết nối các nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 60860503 b. Xã hội
Đô thị hóa: Nhiều người từ nông thôn di cư đến thành phố để
tìm kiếm việc làm trong các nhà máy, dẫn đến sự phát triển
nhanh chóng của các đô thị. •
Giai cấp công nhân: Sự hình thành giai cấp công nhân, với
những điều kiện làm việc khó khăn, đã dẫn đến các phong trào
công nhân và yêu cầu cải cách xã hội. •
Tư tưởng và văn hóa: Cuộc Cách mạng Công nghiệp đã thúc
đẩy các tư tưởng mới về tự do, bình đẳng và quyền con người,
ảnh hưởng đến các phong trào chính trị và xã hội. 2. Ảnh hưởng đến Việt Nam a. Kinh tế
Khai thác tài nguyên: Trong thời kỳ thuộc địa, thực dân Pháp
đã áp dụng các công nghệ và phương thức sản xuất mới để khai
thác tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam, như cao su, than đá và gỗ. •
Thay đổi trong sản xuất nông nghiệp: Một số phương pháp
canh tác mới được áp dụng, nhưng chủ yếu phục vụ cho lợi ích
của thực dân, không mang lại lợi ích cho nông dân Việt Nam. b. Xã hội
Phong trào yêu nước: Sự bất bình với chế độ thực dân và điều
kiện sống khó khăn đã dẫn đến sự hình thành các phong trào yêu
nước, như phong trào Đông Du, phong trào Cần Vương. •
Tư tưởng cải cách: Cuộc Cách mạng Công nghiệp đã ảnh
hưởng đến tư tưởng cải cách và hiện đại hóa ở Việt Nam, với lOMoAR cPSD| 60860503
những nhân vật như Phan Châu Trinh, Nguyễn Trường Tộ, kêu
gọi cải cách giáo dục và kinh tế. 3. Kết luận
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất không chỉ là một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử văn minh thế giới mà còn có những tác động sâu sắc đến Việt Nam. Nó
đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và chính trị, đồng thời tạo ra những thách
thức và cơ hội mới cho đất nước trong bối cảnh thuộc địa. Những ảnh hưởng này vẫn
còn được cảm nhận cho đến ngày nay, khi Việt Nam tiếp tục quá trình hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác đọng như thế nào đến Việt Nam và con người trên thế giới
TCCS - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên
quy mô toàn cầu. Sự phát triển của một số công nghệ mang tính đột phá trong cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ
mạng 5G, công nghệ sinh học... đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi khía cạnh, từ
an ninh - chính trị đến kinh tế, xã hội.
 Ở cấp độ toàn cầu
-Tác động tới an ninh - chính trị
Các công nghệ đột phá do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại
đã tạo điều kiện để các quốc gia ứng phó và xử lý hiệu quả hơn với nhiều
thách thức, rủi ro an ninh, như dịch bệnh, khủng bố quốc tế, thảm họa tự
nhiên,... Trong cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thời gian qua,
nhờ sự phát triển của lĩnh vực công nghệ sinh học mà thế giới đã nhanh chóng
nghiên cứu, phát triển được các loại vắc-xin ngăn ngừa sự lây lan nhanh chóng
của vi-rút cũng như các biến thể của vi-rút, hạn chế tối đa những bất ổn ảnh
hưởng đối với an ninh - chính trị toàn cầu. Bên cạnh đó, những công nghệ đột
phá trong lĩnh vực AI cùng với sự hỗ trợ của mạng 5G cũng góp phần tạo ra
những công cụ hiệu quả để nhận diện và ứng phó với các rủi ro an ninh mạng lOMoAR cPSD| 60860503
toàn cầu, các thảm họa tự nhiên, như sóng thần, bão lũ, hạn hán,... cùng với
các vấn đề xuyên quốc gia khác như nguy cơ khủng bố...
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một cuộc tranh đua về
công nghệ hết sức khốc liệt giữa các quốc gia, gây hệ lụy bất ổn đối với an ninh -
chính trị toàn cầu và thúc đẩy cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Để có thể
giành được vị trí dẫn đầu trong cuộc chiến công nghệ này, các quốc gia không chỉ cố
gắng đưa ra các chiến lược, chính sách thúc đẩy khoa học - công nghệ, tăng cường
đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước,... mà còn dùng mọi biện pháp để kiềm
chế, kìm hãm sự vươn lên của các đối thủ trong cuộc tranh đua này. Cuộc cạnh tranh
giữa Mỹ và Trung Quốc là một minh chứng. Trong gần một thập niên vừa qua, Trung
Quốc đã vươn lên mạnh mẽ và thu hẹp khoảng cách về lĩnh vực khoa học - công
nghệ so với Mỹ. Thậm chí, ở một số lĩnh vực, Trung Quốc được cho là đã bắt kịp và
sẽ sớm vượt qua Mỹ như công nghệ AI(1), nắm ưu thế dẫn đầu trong một số công
nghệ như mạng 5G, công nghệ nhận diện khuôn mặt,... với sự phát triển mạnh mẽ
của các tập đoàn công nghệ Trung Quốc như ZTE, Huawei, Alibaba, Tencent,
Baidu,...(2). Điều này khiến Trung Quốc trở thành thách thức chiến lược lớn nhất đối
với Mỹ(3). Ngoài ra, cuộc cạnh tranh này cũng tạo nên sức ép cho các quốc gia nhỏ
hơn trong việc “chọn bên”. Rõ ràng, các hành động leo thang trong cuộc cạnh tranh
chiến lược giữa các cường quốc về công nghệ đã tạo ra những rủi ro và bất ổn đối
với an ninh - chính trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự gia tăng kết nối thông
qua internet cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về bảo đảm an ninh, an toàn mạng và bảo
mật thông tin đối với các quốc gia và khu vực. Trong thời gian qua, vấn đề an ninh
mạng trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng khi mà các cuộc tấn công
mạng ngày càng đa dạng về hình thức cũng như mức độ ảnh hưởng(4). Theo báo cáo lOMoAR cPSD| 60860503
của Ủy ban châu Âu (EC), số lượng các cuộc tấn công mạng ở châu Âu tăng 75%
(năm 2020), với 756 sự cố an ninh mạng đã được ghi nhận, chủ yếu nhằm vào hệ
thống chăm sóc sức khỏe, tài chính, năng lượng và các kết cấu hạ tầng khác. Hay
căng thẳng diễn ra giữa Mỹ và Tập đoàn Huawei khi Mỹ cho rằng, công nghệ mạng
5G của Trung Quốc có thể tạo ra nền tảng trợ giúp các hoạt động gián điệp. Vì thế,
Mỹ đã cấm sử dụng thiết bị của Tập đoàn Huawei trong các mạng nội địa, đồng thời
gây sức ép với các quốc gia đồng minh áp dụng các biện pháp tương tự để bảo đảm
an ninh quốc gia... Có thể thấy, vấn đề an ninh mạng trong thời đại công nghệ 4.0
cũng là nguyên nhân khiến các mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng.
Một thách thức khác đối với an ninh - chính trị thế giới đó là khả năng xảy ra cuộc
chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ mới và vũ khí sinh học. Trong thời gian gần
đây, nhiều quốc gia trên thế giới đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ AI trong
lĩnh vực quân sự, quốc phòng, như chế tạo rô-bốt, tên lửa hành trình, tàu ngầm, máy
bay không người lái,... Bên cạnh đó, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ sinh học
thời gian gần đây cũng tạo ra nhiều lợi thế cho những quốc gia đã ứng dụng thành
công công nghệ này. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, các loại công
nghệ này có nguy cơ trở thành thảm họa đối với nhân loại. -Tác động tới kinh tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi nền tảng, thúc đẩy các nền
kinh tế truyền thống chuyển đổi sang kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo. Thực tiễn
cho thấy, các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trước đều góp phần quan trọng
vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu của Công ty kiểm toán hàng đầu
thế giới Pricewaterhouse Coopers (PwC), công nghệ AI có thể làm tốc độ tăng trưởng
kinh tế thế giới tăng 14% (tương đương 15,7 nghìn tỷ USD) vào năm 2030(5). Bên
cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng làm gia tăng các yếu tố sản xuất - kinh doanh, kéo lOMoAR cPSD| 60860503
theo tăng thu nhập và dẫn đến sự gia tăng tiêu dùng dân cư, tăng đầu tư cho cả nền
kinh tế và tăng năng suất lao động. Cùng với đó, nhờ ứng dụng công nghệ, chi phí
giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ
trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại được giảm bớt. Tất cả những yếu tố
trên góp phần mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm gia tăng khoảng cách
phát triển giữa các quốc gia và định hình lại bản đồ kinh tế thế giới. Trong đó, các
nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng công nghệ sẽ chiếm ưu thế, trong khi các nền
kinh tế “thâm dụng” tài nguyên khoáng sản hay “thâm dụng” lao động thì dần trở
nên mất lợi thế(6). Nói cách khác, các quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với
nguy cơ tụt hậu khi mất đi những lợi thế cạnh tranh cũng như cơ hội mang lại từ cuộc
chiến công nghệ này. Trong khi đó, các nền kinh tế phát triển vốn đã có lợi thế tài
chính và nhân lực chất lượng cao, lại biết tận dụng tốt cơ hội sẽ phát triển ngày càng
mạnh mẽ và ổn định hơn. Điều này khiến cục diện kinh tế thế giới ngày càng trở nên
mất cân bằng và nhiều rủi ro hơn. -Tác động tới xã hội
Các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư hiện nay đã tạo ra những xáo trộn và thay đổi về mặt xã hội trên quy mô toàn cầu,
nhưng kết quả đều làm gia tăng năng suất lao động, của cải vật chất, cải thiện sức
khỏe và đời sống tinh thần của mọi người dân,... hay nói cách khác, các cuộc cách
mạng công nghiệp đều góp phần phát triển phúc lợi xã hội cho nhân loại. Trong lịch
sử, các cuộc cách mạng công nghiệp đều tạo ra hàng loạt cải cách, điều chỉnh lớn về
chính trị cũng như thể chế xã hội, như cách mạng dân chủ, quyền lợi công đoàn hay
những thay đổi về luật thuế, an sinh xã hội... Đặc biệt, với những tiến bộ đột phá gần
đây, thế giới đã có thể ứng phó tốt hơn với các thách thức toàn cầu, như trong lĩnh lOMoAR cPSD| 60860503
vực môi trường, công nghệ sinh học được ứng dụng vào xử lý ô nhiễm, khắc phục
suy thoái và sự cố môi trường... Trong lĩnh vực y dược, công nghệ sinh học cũng
được ứng dụng để nghiên cứu, phát triển sản xuất các vắc-xin thiết yếu, vắc-xin thế
hệ mới, chế phẩm chẩn đoán và thuốc chữa bệnh... Đặc biệt, trong bối cảnh dịch
bệnh COVID-19, việc sản xuất nhanh chóng các loại vắc-xin phòng, chống dịch bệnh
cho thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của ngành công nghệ sinh học. Ngoài ra, cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã
hội, tạo ra những thay đổi về việc làm, cả về cơ cấu lẫn bản chất công việc với sự
xuất hiện ngày càng đông đảo các tầng lớp sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học,
thiết kế, văn hóa, nghệ thuật, giải trí, truyền thông, giáo dục, y tế...
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tác động sâu sắc đến mọi
mặt của đời sống xã hội, nhất là vấn đề bất bình đẳng và chênh lệch phát triển,...
Theo nhà kinh tế học En-gớt Đi-tơn (Angus Deaton), mọi cuộc cách mạng công
nghiệp đều dẫn đến một giai đoạn phân kỳ, gia tăng khoảng cách phát triển rất lớn
giữa các quốc gia(7). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang thúc đẩy
phân công lao động theo hướng các ngành, nghề đòi hỏi khả năng đổi mới sáng tạo
cùng với đó, giảm thiểu các công việc chân tay có thu nhập thấp và các công việc có
tính chất lặp đi, lặp lại. Nhiều lĩnh vực có khả năng tự động hóa cao, như chế tạo,
điện thoại viên, người khai thuế, giám định bảo hiểm và một số ngành, nghề khác đã
được thay thế một phần hoặc hoàn toàn. Trong một số công đoạn của ngành bảo hiểm
có thể không cần sự can thiệp của con người, hầu hết truy vấn khách hàng đều được
trả lời tự động... Đã có một số rô-bốt tư vấn xuất hiện trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng... Hệ quả là, một bộ phận người lao động đang làm các công việc này sẽ phải
nghỉ việc hoặc tìm một công việc khác thay thế, có thể thất nghiệp trong một thời gian dài.  Ở cấp độ khu vực
-Tác động về an ninh - chính trị
Trong thời gian gần đây, việc ứng dụng các công nghệ đột phá do cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư mang lại đã góp phần bảo đảm an ninh - chính trị của các lOMoAR cPSD| 60860503
quốc gia trong khu vực. Trong số các quốc gia này, Xin-ga-po được xem là quốc gia
đi đầu trong phát triển khoa học - công nghệ nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. Hiện
nay, Cơ quan Khoa học và kỹ thuật công nghệ Bộ Nội vụ của Xin-ga-po (HTX) đang
nghiên cứu phát triển ứng dụng AI trong sinh trắc học (thử nghiệm dấu vân tay nhằm
xác định các yếu tố khác ngoài danh tính), phát triển công nghệ chó rô-bốt cứu nạn,
phát triển phương tiện di động đối phó với thiết bị bay không người lái (drone),...
Theo kế hoạch đến năm 2025, Xin-ga-po sẽ kiểm soát an ninh tại tất cả các trạm
kiểm soát nhập cảnh thông qua tự động hóa hoàn toàn với công nghệ quét nhận dạng
vân tay, nhận diện khuôn mặt và nhận diện mống mắt.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
thời gian qua cũng dẫn tới sự gia tăng các hình thức và mức độ phức tạp của loại
hình tội phạm công nghệ cao,... tác động không nhỏ tới an ninh khu vực Đông Nam
Á, bởi đây là một trong những khu vực phát triển năng động và có tỷ lệ người sử
dụng internet cao trên thế giới. Có thể kể tới một số phương thức lừa đảo qua internet,
như lừa đảo qua thư điện tử doanh nghiệp, tấn công giả mạo, mã độc tống tiền, đánh
cắp dữ liệu thương mại điện tử, mua bán các công cụ độc hại và lừa đảo trực tuyến,...
Trong đó, hình thức mã độc tống tiền đã tăng mạnh trong thời gian gần đây. Theo
thống kê của nhà sản xuất phần mềm bảo mật Kaspersky (Nga), có khoảng 2,7 triệu
mã độc tống tiền xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á trong ba quý đầu năm 2020,
trong đó In-đô-nê-xi-a là quốc gia bị tấn công nhiều nhất với 1,3 triệu lượt(8). Đặc
biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, các đối tượng có xu hướng tăng cường
tấn công các bệnh viện, trung tâm chăm sóc sức khỏe và các cơ quan hành chính.
Bên cạnh đó, xu hướng đánh cắp tiền ảo cũng đang gia tăng tại Đông Nam Á khi các
loại tiền ảo phát triển bùng nổ và thiếu sự kiểm soát của các cơ quan chức năng.
Điều đáng nói là, do năng lực và trình độ phát triển công nghệ ở khu vực có sự chênh
lệch lớn, các nước có trình độ khoa học chậm phát triển hơn dường như không thể
có khả năng ứng phó với thách thức an ninh mạng một cách hiệu quả. Trong khi đó,
chỉ cần một mắt xích yếu kém, vấn đề an ninh bảo mật của khu vực có thể sẽ bị rơi
vào tình trạng nguy hiểm. lOMoAR cPSD| 60860503 -Tác động về kinh tế
Đông Nam Á là khu vực với đặc điểm dân số trẻ, tầng lớp trung lưu tăng lên nhanh
chóng trong thời gian gần đây. Với sự nhanh nhạy và năng động trong việc áp dụng
công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xem là cơ hội lớn để các
nền kinh tế Đông Nam Á có thể bứt phá vươn lên nhờ chuyển đổi sang nền kinh tế
số. In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po, Thái Lan và Việt Nam là các
quốc gia được đánh giá có sự phát triển kinh tế số mạnh mẽ thời gian qua. Năm 2019,
nền kinh tế số của Đông Nam Á lần đầu tiên chạm ngưỡng 100 tỷ USD, tăng gấp ba
lần trong giai đoạn 2016 - 2019. Đáng chú ý, Việt Nam và In-đô-nê-xi-a được đánh
giá là hai quốc gia có tiềm năng lớn nhất để phát triển nền kinh tế số so với các quốc
gia khác trong khu vực, với tốc độ tăng trưởng kinh tế số hơn 40%/năm. Tiếp đó là
Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan, với mức tăng trưởng kinh tế số đạt
trung bình 20% - 30%/năm. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, kinh tế số của Đông
Nam Á có tiềm năng trở thành một trong năm nền kinh tế số hàng đầu thế giới với
mức 300 tỷ USD vào năm 2025.
Trong rất nhiều lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng nhờ cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, thương mại điện tử hiện là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng
nhanh nhất. Giá trị của ngành thương mại điện tử ở Đông Nam Á đạt 62 tỷ USD năm
2020, tăng 63% so với năm 2019. Dự báo, quy mô ngành thương mại điện tử sẽ chạm
mốc 172 tỷ USD vào năm 2025. Ngoài ra, chuyển đổi số cũng tạo ra nhiều cơ hội
phát triển cho những lĩnh vực mới như tài chính, y tế và giáo dục...
Tuy nhiên, chuyển đổi sang kinh tế số trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cũng tác động không nhỏ tới các nền kinh tế trong khu vực, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (MSME). Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi các
doanh nghiệp áp dụng các mô hình, hệ thống, công nghệ mới cùng với hàng loạt điều
chỉnh khác, trong khi đó, MSME thường rất khó để có thể đầu tư thay đổi công nghệ
hiện đại. Phần lớn các doanh nghiệp ở Đông Nam Á đều là MSME nên gặp nhiều
khó khăn khi chuyển đổi, thường khó bắt nhịp với những cơ hội đó. Điều này tạo ra
áp lực cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp lớn trong khu vực hoặc doanh lOMoAR cPSD| 60860503
nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng đòi hỏi
những điều chỉnh về thể chế, chính sách, quy định pháp lý mới, vấn đề cấp phép,
thuế,... Điều này cũng tác động tới các cơ quan hành chính công và cả các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh tế số trong một giai đoạn nhất định. -Tác động tới xã hội
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang tiềm ẩn không ít thách thức cho
nền kinh tế khu vực. Các quốc gia trong khu vực như Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a,
Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam sẽ phải chuyển đổi khoảng 54% -
56% công việc hiện tại sang tự động hó#a. Đặc biệt, một số lĩnh vực sản xuất công
nghiệp lớn và có tính lặp đi, lặp lại như lĩnh vực dệt may và da giày sẽ chịu nhiều
tác động nhất. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 2/3 trong số 9,2 triệu lao động
ngành dệt may và da giày tại khu vực Đông Nam Á đang bị đe dọa, trong đó 88%
lao động của Cam-pu-chia và 64% lao động In-đô-nê-xi-a trong ngành này sẽ chịu
ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự động hóa, công nghiệp hóa(9).  Đối với Việt Nam
-Tác động tới an ninh - chính trị
Việt Nam được cho là một trong những quốc gia có khả năng thích ứng tương đối tốt
với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhờ sự chủ động tạo dựng môi trường
phát triển công nghệ với nguồn nhân lực chất lượng cao về ngành công nghệ. Đây là
điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác các cơ hội mà cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư mang lại. Trong thời gian qua, tỷ lệ ứng dụng thành quả của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng gia tăng, nhiều sản phẩm được
đưa vào trang bị trong các ngành, nghề. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư cũng đang tạo ra nhiều thách thức đối với việc bảo đảm an ninh - chính trị của
Việt Nam. Sự tăng trưởng năng động của Việt Nam cùng với sự bùng nổ của các
công nghệ hiện đại khiến tỷ lệ tham gia internet của các cơ quan chính phủ, tổ chức,
doanh nghiệp và người dân ngày càng nhiều và trở thành mục tiêu của các cuộc tấn
công mạng. Thời gian gần đây, số lượng các cuộc tấn công các trang mạng của các
cơ quan chính phủ, hệ thống tài chính, ngân hàng, hạ tầng thông tin trọng yếu, doanh lOMoAR cPSD| 60860503
nghiệp tại Việt Nam... nhằm đánh cắp thông tin, bí mật nhà nước, đánh cắp thành tựu
khoa học - công nghệ, sở hữu trí tuệ... ngày càng gia tăng. Theo thống kê của nhà
sản xuất phần mềm bảo mật Kaspersky, Việt Nam có số lượng máy tính điều khiển
hệ thống công nghiệp bị tấn công mạng nhiều nhất trên thế giới, với tỷ lệ gần
70%(10). Trong khi đó, nền tảng kết cấu hạ tầng mạng của Việt Nam còn nhiều lỗ
hổng bảo mật, chưa được kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Thực trạng này không
chỉ đặt ra thách thức đối với an toàn của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp mà còn tiềm
ẩn các hoạt động lợi dụng không gian mạng để kích động biểu tình, phát tán thông
tin xấu, độc, sai sự thật nhằm tiến hành các hoạt động khủng bố, tuyên truyền chống
phá chế độ. Điều này tác động trực tiếp tới vấn đề ổn định chính trị - an ninh của Việt Nam. -Tác động tới kinh tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước trong
khu vực, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Nhờ tiềm năng to lớn
của chuyển đổi số và sự cải thiện đáng kể của các trụ cột chính để tiếp cận cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, như hạ tầng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực và
thể chế thời gian qua chính là điều kiện để Việt Nam có thể tận dụng tối đa các cơ
hội mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Nhiều lĩnh vực sẽ được
hưởng lợi từ cuộc cách mạng này nếu có chiến lược phát triển đúng hướng, như
thương mại điện tử, du lịch, công nghệ thông tin, tài chính - ngân hàng, giáo dục, y
tế, chính phủ điện tử... Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới, với việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, quy mô lớn và chất lượng cao, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt
Nam (EVFTA),... sẽ tạo điều kiện tiếp cận thành tựu công nghệ sản xuất mới để tham
gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu, tạo cơ sở để Việt Nam có thể đổi mới mô hình
tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, góp phần rút ngắn khoảng cách phát
triển giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo dự báo, tới năm
2030, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể thúc đẩy tăng trưởng nền kinh
tế Việt Nam từ 28,5 tỷ USD - 62,1 tỷ USD, tương đương 7% - 16% GDP(11). lOMoAR cPSD| 60860503
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo ra sức ép lớn đối với
một số ngành, nhóm ngành, như năng lượng, công nghiệp chế tạo, dệt may, điện tử...
trong trung hạn. Một số chuyên gia kinh tế nhận định, trong khi thế giới đang tiến
vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn tương
ứng với trình độ cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ hai với công nghệ lạc hậu, thâm
dụng lao động và chủ yếu tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu ở một số khâu
đơn giản, giá trị gia tăng thấp như gia công, lắp ráp... Bên cạnh đó, phần lớn doanh
nghiệp của Việt Nam là các MSME phải đối mặt với nhiều rào cản trong quá trình
chuyển đổi số. Trong báo cáo của Tập đoàn Cisco năm 2018 về chỉ số phát triển kỹ
thuật số của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho thấy,
các rào cản của MSME Việt Nam bao gồm thiếu kỹ năng số và nhân lực (17%), thiếu
nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh để cho phép chuyển đổi kỹ thuật số (16,7%),
thiếu tư duy kỹ thuật số hoặc các thách thức về văn hóa kỹ thuật số trong doanh nghiệp (15,7%)...(12). -Tác động tới xã hội
Đối với Việt Nam, 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam
có nguy cơ cao mất việc làm dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Con số này sẽ còn lớn hơn vì dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc
làm cho nhiều lao động nhất (ngành dệt may khoảng gần 2,3 triệu người, trong đó
78% là lao động nữ; ngành giày dép khoảng gần 0,98 triệu người, trong đó có khoảng
74% là lao động nữ). Trong số đó, có nhiều lao động ít kỹ năng (với 17% và 26%
lao động trong ngành dệt may và giày dép chỉ có trình độ tiểu học) và một tỷ lệ đáng
kể không còn trẻ, từ 36 tuổi trở lên: 35,84% đối với ngành dệt may và 25,37% đối với ngành giày dép(13).
Có thể thấy rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mở ra nhiều cơ
hội cho các nước, nhất là các quốc gia khu vực Đông Nam Á như Việt Nam nhờ vào
chuyển đổi kinh tế số để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, quá trình
này cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam
đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc khéo léo lựa chọn con lOMoAR cPSD| 60860503
đường phát triển phù hợp là bước đi phù hợp để có thể vừa tránh được những rủi ro,
vừa tận dụng tối đa các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại./.
Ra đời phật giáo ở phương tây tác động đến Việt Nam như thế nào
Phật giáo, mặc dù có nguồn gốc từ Ấn Độ, đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều
nền văn hóa và tôn giáo trên thế giới, bao gồm cả phương Tây và Việt Nam. Dưới
đây là một cái nhìn tổng quan về sự ra đời của Phật giáo ở phương Tây và tác động của nó đến Việt Nam.
1. Sự ra đời của Phật giáo ở phương Tây
Thế kỷ 19 và 20: Phật giáo bắt đầu được biết đến ở phương
Tây vào thế kỷ 19, khi các nhà nghiên cứu, học giả và du khách
phương Tây bắt đầu khám phá văn hóa và tôn giáo của các nước
châu Á, đặc biệt là Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. •
Phong trào tâm linh: Vào thế kỷ 20, Phật giáo trở thành một
phần của phong trào tâm linh rộng lớn hơn ở phương Tây, với
sự xuất hiện của các trường phái như Thiền (Zen) và Phật giáo
Tây Tạng. Nhiều người phương Tây tìm kiếm sự bình an nội tâm
và tri thức từ giáo lý Phật giáo. •
Tổ chức và cộng đồng: Nhiều tổ chức Phật giáo đã được thành
lập ở phương Tây, như Hội Phật giáo Mỹ (Buddhist Churches of
America) và các trung tâm thiền, giúp phổ biến giáo lý Phật giáo
và thực hành thiền định.
2. Tác động đến Việt Nam
a. Tăng cường sự giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa: Sự phát triển của Phật giáo ở phương Tây đã
tạo ra cơ hội cho sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước lOMoAR cPSD| 60860503
phương Tây. Nhiều người Việt Nam đã tham gia vào các phong
trào Phật giáo quốc tế, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm. •
Đổi mới tư duy: Những tư tưởng và triết lý mới từ phương
Tây đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và thực hành Phật giáo ở
Việt Nam, thúc đẩy sự đổi mới trong các trường phái Phật giáo truyền thống.
b. Phát triển cộng đồng Phật giáo
Tăng cường sự hiện diện của Phật giáo: Sự quan tâm đến Phật
giáo ở phương Tây đã giúp nâng cao nhận thức về Phật giáo tại
Việt Nam, khuyến khích nhiều người trẻ tìm hiểu và thực hành giáo lý Phật giáo. •
Hợp tác quốc tế: Các tổ chức Phật giáo Việt Nam đã tham gia
vào các hoạt động quốc tế, tạo ra cơ hội hợp tác và phát triển
giữa các cộng đồng Phật giáo trên toàn thế giới.
c. Thách thức và cơ hội
Thách thức: Sự phát triển của các tôn giáo và triết lý mới ở
phương Tây có thể tạo ra sự cạnh tranh với các tôn giáo truyền
thống ở Việt Nam, bao gồm cả Phật giáo. •
Cơ hội: Sự giao lưu văn hóa và tôn giáo có thể tạo ra cơ hội cho
sự phát triển và đổi mới trong Phật giáo Việt Nam, giúp nó thích
ứng với bối cảnh hiện đại. Kết luận
Sự ra đời và phát triển của Phật giáo ở phương Tây đã tạo ra những tác động tích cực
và thách thức cho Phật giáo tại Việt Nam. Nó không chỉ thúc đẩy sự giao lưu văn
hóa mà còn tạo ra cơ hội cho sự phát triển và đổi mới trong cộng đồng Phật giáo Việt lOMoAR cPSD| 60860503
Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại có thể giúp Phật giáo Việt Nam phát
triển mạnh mẽ hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Việt Nam tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới như thế nào
Việt Nam đã tiếp thu và ứng dụng những thành tựu văn minh thế giới qua nhiều giai
đoạn lịch sử, từ thời kỳ phong kiến cho đến hiện đại. Dưới đây là một cái nhìn tổng
quan về cách Việt Nam tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới:
1. Thời kỳ phong kiến
a. Tiếp thu văn hóa Trung Quốc
Nho giáo: Việt Nam đã tiếp thu Nho giáo từ Trung Quốc, ảnh
hưởng đến tư tưởng, giáo dục và quản lý nhà nước. Nho giáo
đã trở thành nền tảng cho hệ thống giáo dục và chính trị trong
xã hội phong kiến Việt Nam. •
Văn học và nghệ thuật: Các tác phẩm văn học, thơ ca, và nghệ
thuật từ Trung Quốc đã được dịch và sáng tác lại, tạo nên một
nền văn học phong phú và đa dạng.
b. Ảnh hưởng của Phật giáo
Phật giáo: Được du nhập từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Phật giáo
đã phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, ảnh hưởng đến văn hóa, nghệ
thuật và triết lý sống của người Việt.
2. Thời kỳ thuộc địa (1858-1945)
a. Tiếp thu công nghệ và khoa học
Công nghệ phương Tây: Trong thời kỳ thực dân Pháp, Việt
Nam đã tiếp thu nhiều công nghệ mới, đặc biệt trong lĩnh vực
giao thông (đường sắt, đường bộ) và nông nghiệp (các phương
pháp canh tác hiện đại). lOMoAR cPSD| 60860503 •
Giáo dục: Hệ thống giáo dục phương Tây được thiết lập, với
việc thành lập các trường học và đại học, giúp nâng cao trình độ dân trí.
b. Tư tưởng và phong trào cách mạng
Tư tưởng tự do và bình đẳng: Các tư tưởng cách mạng từ
phương Tây, như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội, đã ảnh
hưởng đến các phong trào yêu nước và cách mạng tại Việt Nam,
dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị và phong trào đấu tranh giành độc lập.
3. Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)
a. Cải cách kinh tế
Đổi mới: Chính sách Đổi mới được thực hiện từ năm 1986 đã
mở cửa nền kinh tế Việt Nam, tiếp thu các mô hình phát triển
kinh tế từ các nước phát triển, như kinh tế thị trường, thu hút đầu
tư nước ngoài và phát triển doanh nghiệp tư nhân. •
Công nghệ thông tin: Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu và ứng
dụng công nghệ thông tin, phát triển hạ tầng viễn thông và
internet, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế số.
b. Giao lưu văn hóa và giáo dục
Hợp tác quốc tế: Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức quốc
tế, ký kết các hiệp định thương mại tự do, tạo cơ hội cho việc
giao lưu văn hóa, giáo dục và khoa học. •
Du học và trao đổi sinh viên: Nhiều sinh viên Việt Nam đã đi
du học ở nước ngoài, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm, sau đó
trở về đóng góp cho sự phát triển của đất nước. lOMoAR cPSD| 60860503 Kết luận
Việt Nam đã tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử,
từ việc tiếp nhận văn hóa và tri thức từ Trung Quốc, đến việc áp dụng công nghệ và
tư tưởng phương Tây trong thời kỳ thuộc địa, và cuối cùng là việc thực hiện các cải
cách kinh tế và giao lưu quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Những thành tựu này đã góp
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay.