lOMoARcPSD| 60857655
CHƯƠNG TRÌNH “KHÁM PHÁ LỊCH SỬ THẾ GIỚI”
Nhạc hiệu
Lời dẫn chào:
Mỹ: Xin kính chào quý vị các bạn đang theo dõi chương trình “KHÁM PHÁ
LỊCH SỬ THẾ GIỚI” được phát sóng vào Thứ hàng tuần lúc ….. trên kênh
Marvel . Hoài Mỹ Mỹ Duyên rất vui khi được đồng hành cùng quý vị các
bạn trong chương trình ngày hôm nay.
Duyên: Chương trình hôm nay, chúng tôi muốn đưa quý vị và các bạn tìm hiểu
về La Mã cổ đại- lịch sử của nền cộng hòa sớm nhất trên Thế giới.
CLIP VỀ LA MÃ ( Cộng hòa La Mã là nền cộng hòa sớm nhất của thế giới.
Thời điểm chuyển giao Công nguyên, La đã vươn lên, trở thành đế chế Á
Âu Phi kiểm soát toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải, Tuy nhiên, đế chế nào rồi
cũng có ngày tàn. Cuối cùng, vì nhiều do khác nhau, phần Tây La Mã đã diệt
vong, chính thức đưa toàn bộ châu Âu (trừ chính phần phía Đông của đế chế này)
bước vào thời kỳ Đêm trường Trung Cổ, khiến cả hội phương Tây tụt hậu so
với phần còn lại của thế giới ngót nghìn năm. )
Duyên: Qúy vị các bạn vừa được xem qua 1 đoạn clip bài ca vong quốc của
Đông La Mã cổ đại, sau đây chúng ta sẽ cùng điểm qua các nôi dung chính của
chương trình hôm nay:
1. Tổng quan về La Mã cổ đại
+ Địa lí, dân cư
+ Lịch sự hình thành và phát triển
2. Những thành tựu văn minh
+ Chữ viết
+ Văn học
+ Tín ngưỡng và tôn giáo
+ Sử học
+ Khoa học tự nhiên
+ Nghệ thuật
+ Triết học
+ Pháp luật
Mỹ: Đầu tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về địa dân của La cổ
đại.
Từ rất lâu về trước, vào khoảng 1500 năm TCN, trên bán đảo Italia. Đây
bán đảo dài và hẹpNam Âu, hình chiếc ủng vươn ra Địa Trung Hải. Ý
nơi nhiều đồng bằng màu mỡ đổng cỏ thuận lợi cho việc chăn nuôi
lOMoARcPSD| 60857655
gia súc, nơi nhiều đồng chì, sắt chế tạo công cụ sx khí. Hơn thế,
bờ biển phía Nam có nhiều vịnh và cảng, do đó có quan hệ sớm vs Hi Lạp.
Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La còn xâm chiếm bên ngoài lập thành 1
đế quốc rộng lớn bao gồm đất đại của 3 châu Âu, Á, Phi nằm bao quanh
Địa Trung Hải.
Duyên: Một cộng đồng người di cư đã vượt qua dãy Alps và biển
Adriatic tới phía Đông bán đảo rồi khai hoang. Cư dân chủ yếu người Ý(
Italotes)- dân chủ yếu dân mặt sớm nhất bán đảo Ý.Trong đó,
bộ phận sống ở vùng Latium gọi là người Latinh. Về sau, 1 trong số số đó
được gọi là người La Mã. Ngoài ra, còn có người Gôloa, người Êtơruxcơ,
người Hy Lạp. Họ sinh sống, trồng trọt một thị trấn nhỏ tên thành
Roma. Và ng chính những người dân di này, bằng những nỗ lực phi
thường đã trở thành những người khởi tạo nên đế chế La Mã – một đế chế
mà ngày nay vẫn được gọi là đế chế không có điểm kết thúc.
Mỹ: Tiếp theo, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ lược về lịch sử La Mã cổ đại.
Lịch sLa Mã cổ đại thể chia thành hai thời kì lớn là thời cộng hòa
và thời kỳ dân chủ.
-Thời kỳ cộng hoà.
+Sự thành lập chế độ cộng hoà
Theo truyền thuyết, thành La Mã( Rôma) do vua Romulus xây dựng năm
753 TCN. Sự thực nhà nước La ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN, do cuộc
cải cách của vua Xecviut Tuliut. Quản hội thời này gồm 3
quan:
Viện nguyên lão: gồm thủ lĩnh của 300 thị tộc, quan quyền lực
tối cao.
Đại hôi nhân dân người La Mã hay gọi là ĐH Curi: theo truyền thống
của hội thị tộc thì tất cả đàn ông của 300 thị tộc đều đc tham dự ĐH Curi
và thể hiện ý muốn của mình bằng lá phiếu.
Vua: do ĐH Curi bầu ra, thực chất chỉ là thủ lĩnh quân sự liên minh 3
bộ lạc.
Vào khoảng 510 TCN, người La nổi dậy khởi nghĩa lật đổ vua Téc canh
kiểu ngạo, châm dứt thời kỳ vương chính, mở ra thời kì Cộng hòa. Từ đây,
bộ máy nhà nước thời này bên cạnh Viện nguyên lão còn có Đại hội ndan
là 2 cơ quan chấp chính có quyền ngang nhau, nhiệm kì là 1 năm.
Duyên: Sự thành lập đế quốc La Mã
lOMoARcPSD| 60857655
Khi mới thành lập, La chỉ là một thành bang nhỏ miền Trung bán đảo
Ý. Từ thế kỉ IV TCN, La Mã không ngừng xâm lược ra bên ngoài, và hơn
một thế kỷ sau, La Mã đã chinh phục được toàn bộ bán đảo Ý. Cuộc chiến
tranh Tuynít kéo dài từ năm 264-146 TCN đã khiến toàn bộ đất đai của
Cáctagiơ biến thành của La Mã. Đến giữa thế kỉ thứ II TCN, Makedonia bị
biến thành 1 tỉnh của La Mã. Sang thế kỉ thứ I TCN, cả vùng đất bờ Đông
Địa Trung Hải cungc bị La chiếm. Cuối cùng, đến năm 30 TCN, Ai
Cập cũng bị nhập vào bản đồ La Mã. Tuy nhiên cũng từ thế kỉ thứ I TCN,
chế đcộng hào La rơi vào khủng hoảng trầm trọng,bởi hàng loạt cuộc
nội chiến.
Mỹ: Thời kì quân chủ
Quá trình chuyển biến chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ
Cũng từ thế kỉ I TCN, chế độ cộng hòa ở La Mã dần dần bị chế độ
độc tài thay thế. Những tướng lĩnh được phe phải trong giai cấp chủ nô tạo
điều kiện dần bước lên vũ đài chính trị, hình thành nên chính quyền tay 3
trong lịch sử. Đến năm 31 TCN, Ôctavianút đã đánh bại lực lượng của
Antoniút Clêôpát. Năm 29 TCN, ông trở về La trở thành kẻ thống
trị duy nhất của toàn đế quốc rộng lớn. Đến năm 27 TCN, ông được Viện
nguyên lão Hội đồng nhân dân La tôn làm nguyên thủ, danh hiệu
Ôgút- đấng chí tôn nhiều danh hiệu cao quý khác. Như vậy, tuy chưa
xưng hoàng đế nhưng dưới lớp áo nền Cộng hòa, Ôctavianút đã trở thành
hoàng đế.
Như vậy, La tuy vẫn khoác cái áo ngoài của chế độ cộng hoà
nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế.
Duyên: Sự suy vong của đế quốc La Mã
Đến thời quân chủ, chế độ lệ La ngày càng khủng hoảng trầm
trọng. Trong khi La đang suy yếu thì đến thế kỉ IV, ngưới Giécmanh
bao gồm các tộc Tây Gốt, Đông Gốt, Văngđan, Phrăng, Ănglo
Xắcxông,Buốcgongđơ, đã di ạt vào kanhx thổ của đế quốc La Mã.
Sang thế kỉ V, 1 số bộ lạc Giécmanh thành lập các vương quốc của mình
trên đất đai của Tây La Mã, dần biến nơi đây thành vùng nhỏ bé, chính
quyền rơi vào tay người Giécmanh. Năm 476, thủ lĩnh người Giécmanh là
Ôđôacrơ lật đổ Rômulút- vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La
rồi tự xưng hoàng đế, đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã. Còn
đế quốc Đông La thì vẫn tiếp tục tồn tại đi dần vào con đường phong
kiến hoá và thường được gọi đế quốc Bidantium, viết tiếp những trang
sử của đế quốc La Mã vĩ đại. Nhưng đến năm 1452, Đông La Mã cũng b
Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt.
lOMoARcPSD| 60857655
Mỹ: Chúng ta sẽ cùng bước sang khám phá những thành tựu của nền văn
minh La cổ đại. Cùng như đã nói phần địa dân cư, khu vực giao
lưu và có mối quan hệ vs Hi Lạp từ rất sớm. Nên từ lâu, La Mã đã tiếp thu
nhiều thành tựu văn minh của Hi Lạp, nhất sau khi Hi Lạp bị nhập vào
đế quốc La thì ảnh hưởng ngày càng sâu sắc hơn. Chính nhà thơ La
Hôratiút đã nói: “Người Hi Lạp bị người La Mã chinh phục, những người
bị chinh phục ấy lại chinh phục trở lạo kẻ đi chinh phục mình…”, Người
ta thường gọi là nền văn minh Hi-La, nền văn minh này đã phát triển toàn
diện cho mình những thành tựu rực rỡ về mọi mặt như văn học, nghệ
thuật, sử học, KHTN, triết học.
Duyên: Đầu tiên là về Chữ viết:
Người La Mã chính thức chữ viết vào thế kỉ VI TCN nguồn gốc từ
văn tự Hy Lạp. Vào cuối thế kỉ IV TCN người Hy Lạp đã sáng tạo ra hệ
thống 24 chữ cái.Người La Mã tiếp thu chữ cái của Hy Lạp tạo thành chữ
Latin, ban đầu gồm 20 chữ i, sau đó hoàn thiện hệ thống 26 mẫu tự
Latin.Đây một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng
rộng rãi trong toàn bộ đế quốc trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên
thế giới sau này.Về sau, người La Mã đã dùng chữ cái để tạo ra chữ số La
Mã, được sử dụng cho đến ngày nay.
Mỹ: Còn khi nói về Văn học:
Người La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Đặc biệt
sau khi đánh chiếm thành phố Tatento của Hy Lạp trên bán đảo Ý vào
năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn học Hy Lạp, do đó chịu
nhiều ảnh hưởng của văn học Hy Lạp.
Văn học La cũng bao gồm nhiều thể loại sử thi, thơ, trữ tình, thơ trào
phúng, văn xuôi, kịch.
Nói về La không thể không nhắc đến những u chuyện thần thoại cùng
những vị thần đại gắn liền với nơi đây. Người La hầu như tiếp thu
hoàn toàn kho tàng thần thoại và hệ thống các thần thoại của Hy
Lạp.
Chỉ có một điều khác là người La Mã đặt lại tên cho các vị thần đó.
Vd: Thần Dớt của Hi Lạp trở thành thần Giupite của La Mã.
Thần Hêra, vợ thần Dớt thành thần Giunong vợ của Giupite.
Thần Đêmêta, thần nghề nông của Hi Lạp thành thần Xêrét, thần ngũ cốc,
thần bảo vệ màu màng của La Mã,…
Duyên: Một cột mốc đánh dấu những thành tựu của La Mã phải nói đến thơ ca,
Thời cộng hòa, La Mã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch như:
Anđrônicút đã dịch Ôđixê ra tiếng Latinh, Catulus đã sáng tác nhiều bài thơ trữ
tình….
lOMoARcPSD| 60857655
Nói về tình yêu của ông với nắng Clôđia, em quan bảo dân Côđiút, nhà thơ viết:
“Anh vừa giận vừa yêu,
Có thể em sẽ hỏi vì sao anh như vậy
Anh chẳng biết nhưng anh cảm thấy
Đau khổ vô cùng vì vừa giận vừa yêu.”
Thời kỳ thống trị của Ôctavianút là thời kì thơ ca La phát triển nhất . Để phục
vụ cho chế độ chính trị của Ôctavianút nhóm tao đàn Mêxen được thành lập,
Mêxen thân cận của Ôctavianút. Trong nhóm này có những nhà tnổi tiếng
như Horace, Ovidius, Vergilius.
Thơ trữ tình:
Đại diện là Ovidius ( 43- 17 TCN ) Ông có nhiều tác phẩm hay như
“những bài thơ buồn”, “thơ về kinh” …nhưng bị Ôctavianút đày đi đến
vùng Bắc Hải nhưng không rõ nguyên nhân. Thơ sthi: Chúng được phân
biệt bởi các chủ đề và câu chuyện được tính; Trong khi người Hy Lạp thu
thập những truyền thuyết về những anh hùng vĩ đại, Latina thu thập những
câu chuyện tuyệt vời về những người đàn ông bình thường.
Đại diện Vergilius (70-19 TCN ) nhà thơ lớn nhất của La Mã.
Ông được Mêxen chú ý với tác phẩm đầu tiên Những bài ca của người chăn
nuôi. qua Mêxen được Ôctavianút chú ý. Mỹ: Một đoạn thành tựu đáng
nhớ phải kđến đó thloại kịch. La các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút,
Ennius, Plantút, Terexia, cũng những nhà soạn bi kịch hài kịch. Năm 240
TCN ở La Mã bắt đầu diễn kịch, từ đó các nsoạn kịch La thường dịch bi
kịch hài kịch Hy Lạp, đồng thời cũng phỏng theo kịch của Hy Lạp để soạn
những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc là cải biên các vở kịch của Hy Lạp thành
các vở kịch của La Mã.
Duyên: Khép lại thành tựu về văn học, ta mở rat rang mới về tín ngưỡng và tôn
giáo vùng đất La cổ đại. Thần thoại cổ xưa của La Mã cho rằng các vị thần
không ngự trị ở đỉnh cao mà có sự kết hợp giữa thần thánh và con người.
Không vị cách hóa các vị thần, có thể hình dung như những siêu tục.
Họ luôn tin trong mỗi con người, địa thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh
của chính nó, như là linh hồn.
Đến thời Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy
tu.
Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng
thêm sức mạnh. Thần Jupiter thần Zeus, thần Mars (thần của chiến tranh)
là thần Ares và Neptune (thần của biển) là thần Poseidon.
lOMoARcPSD| 60857655
Đến thế kỷ thứ 2, đạo Đốc bắt đầu lan tỏa vào Đế quốc La Mã, sự
hiềm khích xung đột. được công nhận dưới triều vua Constantinus
I, các đạo khác chống đối bị cấm vào năm 391.
Đạo Kitô du nhập từ đầu Công nguyên nhưng đến 337 mới phát triển mạnh
mẽ.
Mỹ: Sự phát triển của đạo Kitô:
+ Theo truyền thống, người sáng tạo ra đạo Kitô giáo Jesus Christus, con
Thiên Chúa, nhập thể trong lòng nữ đồng trinh Maria. Năm 30 tuổi ông bắt
đầu đi rao giảng Phúc Âm.
+ Thánh kinh Kitô có Cựu ước và Tân ước. Giáo lý của đạo tin vào Thiên
Chúa Ba Ngôi (tam vị nhất thể). quan niệm cứu rỗi, thiên đường, địa
ngục, thiên thần... Ban đầu, đạo Kitô tổ chức thành các công đoạn, đến thế
kỷ II phát triển thành Giáo hội.
+ Khi mới ra đời, đạo Kitô bị hoàng đế và quan lại trấn áp tàn bạo. Nhưng
số người theo đạo không giảm tăng lên. Về sau, đề ra nguyên tắc
“vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn
giáo không liên quan tới chính trị.
+ Các hoàng đế La dần chung sống với đạo Kitô. Năm 311, một hoàng
đế ngừng đàn áp các tín đồ. Năm 313, được hoàng đế La công nhận
hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế đã gia nhập đạo Kitô. + Hoàng đế
theo đạo Kitô dẫn tới sự truyền giáo được mở rộng. Tđó, đạo Kitô được
truyền rộng rãi khắp vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế
quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu và lan rộng khắp Châu Âu.
Duyên: Nối tiếp với các thành tựu nổi bật trên chúng ta sẽ cùng tìm tìm hiểu
về những thành tựu về sử học cùng đặc biệt của nền văn minh La Mã cổ đại
này !
Từ khoảng giữa thế kỉ V TCN, ở La Mã đã có những tài liệu tương tự như
lịch sử gọi Niên đại ký. Nhưng shọc của La đến cuối thế kỉ III TCN
mới xuất hiện người được coi nhà sử học đầu tiên nhà soạn kịch
Nơviút. Do đã tham gia cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất nên ông đã viết
tập sthi Cuộc chiến tranh Puních, những tác phẩm này chỉ một số
đoạn.
Người đầu tiên viết lịch sử La Mã bằng văn xuôi là Phabiút (sinh năm 254
TCN), ông sử dụng ngôn ngữ Hy Lạp để viết tác phẩm chứng tỏ lúc bấy
giờ văn xuôi La Mã chưa xuất hiện.
Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử Carton(234-149
TCN),tác phẩm của ông nhan đề “Nguồn gốc” gồm 7 chương.
Phương pháp viết sử của ông không theo niên đại mà trình bày theo vấn
đề, vì vậy có thể coi ông là nhà sử học đầu tiên thực sự của La Mã.
lOMoARcPSD| 60857655
Từ Cactông về sau, La cố rất nhiều nhà sử học xuất sắc như Polybit,
Titút Liviút, Taxitut, Plutác. Pôlibius (205-125 TCN) người Hy Lạp bị
đưa sang La làm con tin, tác phẩm của ông bộ “thông sử” gồm 40
quyển viết về lịch sử của Hy Lạp, La Mã và các nước phía đông Địa Trung
Hải. Ông nói “Sử học là 1 triết học lấy sự việc thật để dạy người tốt”. Titus
Livius(59 TCN- 17CN) nsử học xuất sắc trong thời kỳ Ôctavianút,
tác phẩm sử học lớn nhất của ông là “lịch sử La Mã Từ khi xây thành đến
nay”gồm 142 quyển, ít nhiều đề cao quyền thống trị của La tại vùng
Địa Trung Hải.
Mỹ: : Đặc điểm phương pháp sử học của Livius thứ nhất là : Nêu cao chủ nghĩa
yêu nước trong việc viết sử, đề cao quá khứ vinh quang của La Mã, ca ngợi sự
anh dũng của nhân dân La Mã . Thứ hai là : Chú ý đến tác dụng của giáo dục sử
học: nhấn mạnh các phong tục tốt đẹp ngày xưa, đem những tập quán tốt đẹp ấy
so sánh với hiện tượng đổi phong bại tục lúc bấy giờ. Taxitus (cuối TK I - đầu
TK II) Tác phẩm của ông là “Lịch sử biên niên” viết về thời kì đầu của đế quốc
La Mã.
=> Những thành tựu sử học của La đã góp phần quan trọng vào sự phát triển
của sử học thế giới.
Duyên: Khép lại phần sử học ta tiếp tục tìm hiểu đến một thành tựu cũng không
kém phần quan trọng của nền văn minh La cổ đại đó chính những thành
tựu về Khoa học tự nhiên : Ở thời La Mã, các lĩnh vực này tuy không phát triển
bằng Hy Lạp, nhưng cũng có nhiều thành tựu quan trọng và một số nhà khoa học
tiêu biểu như :Nhà khoa học nổi tiếng nhất của La Mã là Plinius (23-79): tác
phẩm đầu tiên là “Naturalis Historia" (lịch sử tự nhiên) gồm 37 chương. Đó
bản tập hợp các ngành khoa học như Thiên văn học, Vật học, Địa học,
Nhân loại học, Hội họa, Điêu khắc,.. thời bấy giờ => Vì vậy, đây được xem như
một bộ "Bách khoa toàn thư" của La Mã cổ đại. Còn xét về Y học đại biểu tiêu
biểu nhất Claudius Galenus(131-đầu thế kỉ III), ông người tiên phong
của phương pháp thí nghiệm trong giải phẫu y học. Trên sở tiếp thu các
thành tựu y học trước đó, nhất là của Hipôcrát, ông đã viết nhiều tác phẩm để lại
sau này.Một số tác phẩm của ông được dịch thành tiếng Ả Rập, Do Thái, Latinh.
Cho đến đến thế kỷ 19, một số quan điểm của Claudius Galenus vẫn được các
sinh viên y học tìm hiểu và học tập trên giảng đường. Ngày nay, các sử gia đánh
giá ông là một trong những thầy thuốc có tầm ảnh hưởng lớn nhất của trong lịch
sử y học nhân loại.
Mỹ: Bên cạnh đó, chúng ta còn 1 số nhà khoa học nổi tiếng như: Claudius
Ptolemaeus người đầu tiên vẽ bản đồ Trái Đất, lấy Địa Trung Hải làm trung
tâm. Nổi tiếng với tác phẩm “Hệ thống vũ trụ” và Heron (TK I): 1 kỹ sư tài ba
lOMoARcPSD| 60857655
nhà toán học xuất sắc, ông đưa ra cách tính diện tích hình cầu phép tính gần
đúng với nó.
m lại, cách đây trên dưới 2000 năm, nền khoa học của La Mã cổ đại đã
những thành tựu rất lớn. Những thành tựu y đã đặt sở cho sự phát
triển huy hoàng của khoa học thời cận hiện đại, đồng thời là 1 tiền đề quan
trọng trong sự phát triển của nền Triết học của Hi-La.
Duyên: Tiếp tục ta sẽ cùng tìm hiểu về nghệ thuật La Mã gồm ba mặt chủ yếu
kiến trúc , điêu khắc và hội họạ:
Đầu tiên ta sẽ tìm hiểu về kiến trúc:
Người La cổ đại xây dựng các công trình kiến trúc cùng độc đáo, thành
tựu về kiến trúc của La Mã rất rực rỡ và có nhiều sáng tạo.
Các công trình kiến trúc của La gồm: Tường thành, đền miếu, cung điện,…
những công trình này đặc biệt phát triển vào thời Octavianut.
Điểm đặc biệt là ở thời gian TK I TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông thay
thế cho đá cẩm thạch.
Một số đặc điểm nổi bật và loại hình kiến trúc như:
Thiết kế mái vòm rộng lớn
Sử dụng bê tông
Hệ thống cống rãnh trong xây dựng
Thiết kế hệ thống sưởi trong nhà Một Số Công Trình Kiến Trúc Tiêu
Biểu:
Đền Pantheon:
Được xem là kiệt tác kiến trúc 2000 năm tuổi của đế chế La Mã cổ đại.
Một trong những di tích thuộc La Mã cđại được bảo tồn nguyên vẹn nhất
cho đến thời điểm hiện tại.
Lịch sử xây dựng:
Đền Pantheon ban đầu được xây dựng vào khoảng năm 27 TCN bởi Marcus
Agrippa.
Nó đã bị hư hỏng nặng nề sau hai trận hỏa hoạn vào năm 80 và năm 110. Sau đó,
vào năm 118-124 dưới triều đại vua Publius Aelius Hadrianus, Pantheon được
xây dựng lại hoàn toàn với thiết kế tồn tại cho đến ngày nay.
Mỹ: Mục đích xây dựng:
lOMoARcPSD| 60857655
Trong tiếng Hy Lạp, Pantheon nghĩa là “ tất cả các vị thần” mặc đa số đều cho
rằng đền Pantheon được xây dựng để thờ các vị thần La nhưng mục đích sử
dụng ban đầu của ngôi đền thực chất vẫn là một bí ẩn.
Tnhà khối chính hình tròn, mái hình bán cầu lợp bằng một loại đá nhẹ đường
kính mái 43,3m, đúng bằng chiều cao tòa nhà.
Từ đáy vòm trở xuống nhà được chia làm 2 tầng. Tầng dưới cao 13m dùng hàng
cột thức coranh. Tầng trên cao 8,7m chỉ dùng các mảng tường nảy trụ làm bằng
đá cẩm thạch. Những mảng tường nảy trụ này hợp làm 1 với 5 hàng ô cờ được
khoét lõm trên vòm trần (gọi là Kêxon) tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, thư thái.
Vòm mái được kết thúc bằng 1 lỗ tròn đường kính 8,92m.
Đền Pantheon với 1500m² sàn sảnh vào sâu tới 14m 16 cột tròn đường
kính 1,5m, cao 14m, trên lợp mái dốc về hai phía. Hai dốc tròn hai bên sảnh đặt
tượng hoàng đế và tượng Marcus Agrippa. Đấu trường Colosseum
Được xây dựng trong vòng 8 năm (72-80) Vật
liệu chủ yếu là đá cẩm thạch.
Lịch sử xây dựng:
Được xây dựng vào năm 72 sau công nguyên, là một công trình phản ánh
đời sống tinh thần của người La Mã cổ đại. Đây là đấu trường lớn nhất thủ
đô Roma.
Kiến trúc xây dựng: Đấu trường có 4 tầng (tầng trệt + 3 tầng được xây
bằng đá chồng lên nhau), dài 600m, rộng 200m, ban đầu chứa được
26.000 người. Khán đài hình elip của đấu trường được nâng cao dần
lên, tổ chức theo kiểu nền dốc bậc, xung quanh bức tường cao để bảo
vệ an toàn cho người xem, có sức chứa đến 50.000 người.
Mục đích: tổ chức những trận đấu làm tmua vui cho vua chúa, quý
tộc kéo dài suốt 100 ngày.
Ước tính có đến 500.000 người, 1 triệu động vật đã chết khi tham gia vào trò chơi
bạo lực này.
Kĩ thuật: Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kỹ thuật
cho sự phát triển của nền văn minh thế giới:
1. Chế tạo thủy tinh (khoảng thế kỷ đầu trước công nguyên)
2. Sử dụng chì
3. Khai thác than4. Chế tạo xi-măng.
Họ cũng những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng nước nhằm lợi
dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm.
lOMoARcPSD| 60857655
Duyên: Đó là những thành tựu nổi bật về kiến trúc tiếp theo chúng ta stìm hiểu
nghệ thuật điêu khắc
Vậy như thế nào là Điêu khắc La Mã cổ đại ?
La cổ đại là một hình thức biểu hiện nghệ thuật xuất hiện trong Đế chế La
Mã, một phong trào khá phức tạp được thể hiện trong các tác phẩm điêu
khắc khác nhau được thực hiện bên cạnh sự phát triển trong kiến trúc.
Điêu khắc thời đế chế La Mã truyền thống được chia làm 5 loại: Quát, lịch
sử, chân dung, phù điêu mộ bản sao tác phẩm Hy Lạp cổ đại. Điêu khắc
của La đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi nền nghệ thuật Hy Lạp. Một số
bản sao của La những tri thức gốc n sót lại được bảo tồn t
người Hy Lạp.
Điêu khắc La Mã đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi Hy Lạp. Đó một số bản
sao của La Mã là những tri thức gốc của Hy Lạp được bảo tồn.
Nghệ thuật điêu khắc La cùng một phong cách với nghệ thuật điêu khắc
Hy Lạp. Chủ yếu thể hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu.
Mỹ: Với mục đích để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo
rất nhiều tượng.
Chất liệu: Các bức tượng La ngoài sử dụng đồng, họ còn sử dụng đá
cẩm thạch đá porphyry trong việc tạo ra các bức tượng. Đây là điểm
khác biệt quan trọng giữa tượng Hy Lạp và La Mã.
Chân dung tác phẩm điêu khắc từ thời Cộng hòa khuynh hướng i
khiêm nhường hơn, thực tế, tự nhiên so với các công trình Đế quốc sớm.
thời kỳ đế quốc, mặc họ thường miêu tả thực tế của thể con người,
chân dung tác phẩm điêu khắc của các hoàng đế La Mã được thường được
sử dụng cho mục đích tuyên truyền và đưa các thông điệp về ý thức hệ
trong tư thế hay trang phục của các nhân vật.
Duyên: Cuối cùng ta cần nhắc đến đó là nghệ thuật về hội họa, rất nhiều thể
loại hội họa của La chịu ảnh hưởng của Etruscan nền văn minh chính của
Địa Trung Hải thời kỳ tiền La Mã. Vào TK III TCN, hội họa Hy Lạp ảnh hưởng
đến La do chiến tranh chiến lợi phẩm mang lại. Rất nhiều gia đình La
Mã đã treo các bức tranh của các họa sĩ Hy Lạp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó La cũng những nét nghệ thuật riêng của
mình. Các tác phẩm hội họa của La còn được giữ lại chủ yếu các
bích họa vẽ phong cảnh, tĩnh vật, các công trình kiến trúc… Chân dung
người tuy cũng còn nhưng rất ít.
lOMoARcPSD| 60857655
Vẽ tranh tường là một hình thức nghệ thuật La Mã được nghiên cứu nhiều,
độc đáo trong khảo cổ học cổ đại vẫn đang tồn tại. Các bức tranh
khảm La Mã sẽ bị mai một nếu núi lửa Vesuvius không phun trào và chôn
vùi 2 thành phố Pompeii Herculaneum, bảo tồn các bức tranh còn
nguyên vẹn đến ngày nay.
Người La thường vẽ tranh phong cảnh - một loại hình nghệ thuật không
được ưa thích ở Hy Lạp. Do đó, nó là một phát minh độc đáo của người La
Mã, hiếm có trong nghệ thuật La Mã. Tranh phong cảnh là sự kết hợp đặc
biệt giữa những nét xưa cũ và sự phát triển của hội họa La Mã, đặc biệt về
kỹ thuật tích hợp và các quan điểm toán học được thể hiện vô cùng thu hút
trong các bức tranh.
Việc đổi mới chính của nghệ thuật La so với nghệ thuật Hy Lạp là s
phát triển của tranh phong cảnh. Tranh bề mặt bóng cùng nhiều màu sắc
được áp dụng cùng tốt tạo cho không gian có chiều sâu rộng. Danh
lam thắng cảnh được thể hiện vô cùng rõ nét mang nét đẹp thực tế đến
cho người nhìn qua khung ảnh.
Mỹ: Tranh chân dung: Vẽ chân dung là loại hình nghệ thuật rất phát triển
trong kỷ nguyên La Mã. Người ta tin rằng kỹ thuật vẽ chân dung thịnh hành
khắp mọi nơi trên đế chế La trong suốt 2 thế kỷ SCN, mặc dù chỉ còn
khoảng 200 bức chân dung còn tồn tại cho đến ngày nay. Bởi các tác phẩm
này đều được vẽ trên gỗ nên chúng rất dễ hỏng. Các tác phẩm chyếu được
tìm thấy trong hầm mộ khô ráo hoặc dưới lớp cát nóng nơi sa mạc khô cằn
người nghĩ rằng các tác phẩm chân dung chỉ có chủ đề vcái chết, về
những người đã khuất. Tuy nhiên, các tác phẩm này ngược lại lại thường
mang chủ đề của sự sống, kvề các hoạt động sinh hoạt hàng ngày: đồ vật,
cuộc sống… sau đó mới là những chân dung để lưu lại hình ảnh của người
đã khuất.
Tranh chân dung trong lăng mộ: Tranh trong lăng mộ là các bức tranh chân
dung được gắn trên xác ướp để đem đi chôn cất. Trên tranh miêu tả một
người duy nhất, diễn tả trọng tâm phần đầu hoặc phần từ ngực trở lên. Nền
luôn là đơn sắc, đôi khi thêm các họa tiết, hoa văn trang trí.
Tại La Mã, vẽ tranh tường tuy phổ biến nhưng nó không được coi là nghệ
thuật đỉnh cao. Hình thức uy tín nhất của nghệ thuật La bên cạnh
điêu khắc chính là sơn bảng, tức là vẽ lên các bảng bằng sơn dầu hoặc sơn
lên tấm gỗ. Thật không may, vì gỗ là loại vật liệu dễ hư hỏng nên còn rất ít
ví dụ về các bức tranh như vậy còn tồn tại.
Duyên : Trong lĩnh vực triêt học thì người La không nhiều sáng tạo
chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp.
lOMoARcPSD| 60857655
Kế thừa triết học Hy lạp, đến thế kỉ I TCN, triết học La cũng tương đối
phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98-
54TCN). Ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẻ từ tư tưởng của nhà
triết học Epicurus (thuyết khắc kỷ). Tác phẩm duy nhất ông để lại
“về bản chất của sự vật”. (Triết học duy vật)
Trong hai thế kỷ đấu SCN, thuyết khắc kỷ được cho là phù hợp với những
đức tính truyền thống với người dân La (Triết học duy tâm). ba môn
đồ nổi tiếng là:
Seneca (Tk III TCN 65 TCN) thầy học của bạo chúa Rông.
tưởngtriết học chủ yếu của ông vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải
độc lập về nội tâm yên tĩnh về tinh thần. Tác phẩm :Bàn về nhân tử, Bàn về
phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc.
Epictetus (thế kỉ I - đầu thế kỉ II) là học trò của Xênéc. Đặc điểm triết học
củaông là chủ nghĩa bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa.
Marchus Orelius (121-180) hoàng đế La (161-180) được gọi
“nhàtriết học trên ngôi báu”. Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người
do thần xếp đặt n con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình phải chịu
đựng mọi khó khăn và thử thách.
Mỹ : Nếu như trong các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La
được xem là học trò của người Hy Lạp thì trong lĩnh vực luật pháp, vị thế của họ
cao hơn nhiều. - Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hòa La đã được thành
lập, bộ máy nhà nước gồm viện nguyên lão, đại hội nhân dân quan chấp
chính. Hệ thống pháp luật của họ kết quả của một quá trình tiến triển lâu dài
được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN
cử 3 người sang tìm hiểu luật pháp của Hy Lạp, nhất là của Xôlông. Năm
452 TCN, La đã thành lập uỷ ban 10 người để soạn luật. Soạn được bộ luật,
khắc trên 10 bảng đồng đặt quảng trường. Năm 450 TCN, cử một uỷ ban 10
người mới, soạn thêm hai bảng nữa vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.
Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống hội như thể lệ
tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, đại vị phụ
nữ… Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản danh dự cho
mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia
trưởng.
Về lĩnh vực chính trị : “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù
của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La
Mã cho kẻ thù.”
lOMoARcPSD| 60857655
Tóm lại, nội dung của Luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống
hội, nhiều mức hình phạt quá khắc nghiệt, nhưng tác dụng hạn chế sự
xét xử độc đoán của quý tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp
La Mã cổ đại.
Những pháp lệnh khác từ giữa thế kỉ V về sau, nhà nước La phải ban hành
nhiều pháp lệnh bổ sung. Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình
dân kết hôn với quý tộc. Năm 367 TCN, lại thông qua ba pháp lệnh quan trọng:
1. xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã
2. Không ai được chiếm quá 50 junjera đất công tức bằng khoảng
125 ha.
3. Bỏ chức lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan chấp
chínhhằng năm, trong 2 quan chấp chính phải có 1 người là bình dân.
Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân, có
hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.
Đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa,
nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.
Duyên: Nói chung Luật của La Mã được chia thành ba ngành lớn
Jus civile tức Dân Luật: tức luật chủ yếu liên quan đến La các
công dân của
Jus gentium tức luật của nhân dân có giá trị cho mọi người dân không
phân biệt dân tộc.
Jus Naturale tức luật tự nhiên. Họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một
trình tự hợp lý, vốn được thể hiện thành công lý và quyền hạn. có nghĩa là
tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau, con người được
hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ chính trị khác không được xâm
phạm.
=> Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở Châu Âu.
Mỹ: Vâng những thông tin đáng chú ý trên cũng đã khép lạp chương trình “Khám
phá lịch sử Thế giới” ngày hôm nay. Mọi thắc mắc xin liên hệ số hotline hoặc gửi
vào hộp tcủa chương trình. Một lần nữa, xin cho phép Hoài Mỹ cùng Mỹ
Duyên chào tạm biệt và hẹn gặp lại.
lOMoARcPSD| 60857655

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655
CHƯƠNG TRÌNH “KHÁM PHÁ LỊCH SỬ THẾ GIỚI” Nhạc hiệu Lời dẫn chào:
Mỹ: Xin kính chào quý vị và các bạn đang theo dõi chương trình “KHÁM PHÁ
LỊCH SỬ THẾ GIỚI” được phát sóng vào Thứ tư hàng tuần lúc ….. trên kênh
Marvel . Hoài Mỹ và Mỹ Duyên rất vui khi được đồng hành cùng quý vị và các
bạn trong chương trình ngày hôm nay.
Duyên: Chương trình hôm nay, chúng tôi muốn đưa quý vị và các bạn tìm hiểu
về La Mã cổ đại- lịch sử của nền cộng hòa sớm nhất trên Thế giới.
CLIP VỀ LA MÃ ( Cộng hòa La Mã là nền cộng hòa sớm nhất của thế giới.
Thời điểm chuyển giao Công nguyên, La Mã đã vươn lên, trở thành đế chế Á –
Âu – Phi kiểm soát toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải, Tuy nhiên, đế chế nào rồi
cũng có ngày tàn. Cuối cùng, vì nhiều lý do khác nhau, phần Tây La Mã đã diệt
vong, chính thức đưa toàn bộ châu Âu (trừ chính phần phía Đông của đế chế này)
bước vào thời kỳ Đêm trường Trung Cổ, khiến cả xã hội phương Tây tụt hậu so
với phần còn lại của thế giới ngót nghìn năm. )
Duyên: Qúy vị và các bạn vừa được xem qua 1 đoạn clip bài ca vong quốc của
Đông La Mã cổ đại, sau đây chúng ta sẽ cùng điểm qua các nôi dung chính của chương trình hôm nay:
1. Tổng quan về La Mã cổ đại + Địa lí, dân cư
+ Lịch sự hình thành và phát triển
2. Những thành tựu văn minh + Chữ viết + Văn học
+ Tín ngưỡng và tôn giáo + Sử học + Khoa học tự nhiên + Nghệ thuật + Triết học + Pháp luật
Mỹ: Đầu tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về địa lí dân cư của La Mã cổ đại.
Từ rất lâu về trước, vào khoảng 1500 năm TCN, trên bán đảo Italia. Đây là
bán đảo dài và hẹp ở Nam Âu, hình chiếc ủng vươn ra Địa Trung Hải. Ý là
nơi có nhiều đồng bằng màu mỡ và đổng cỏ thuận lợi cho việc chăn nuôi lOMoAR cPSD| 60857655
gia súc, nơi có nhiều đồng chì, sắt chế tạo công cụ sx và vũ khí. Hơn thế,
bờ biển phía Nam có nhiều vịnh và cảng, do đó có quan hệ sớm vs Hi Lạp.
Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La Mã còn xâm chiếm bên ngoài lập thành 1
đế quốc rộng lớn bao gồm đất đại của 3 châu Âu, Á, Phi nằm bao quanh Địa Trung Hải.
Duyên: Một cộng đồng người di cư đã vượt qua dãy Alps và biển
Adriatic tới phía Đông bán đảo rồi khai hoang. Cư dân chủ yếu là người Ý(
Italotes)- cư dân chủ yếu là dân cư có mặt sớm nhất bán đảo Ý.Trong đó,
bộ phận sống ở vùng Latium gọi là người Latinh. Về sau, 1 trong số số đó
được gọi là người La Mã. Ngoài ra, còn có người Gôloa, người Êtơruxcơ,
người Hy Lạp. Họ sinh sống, trồng trọt ở một thị trấn nhỏ tên là thành
Roma. Và cũng chính những người dân di cư này, bằng những nỗ lực phi
thường đã trở thành những người khởi tạo nên đế chế La Mã – một đế chế
mà ngày nay vẫn được gọi là đế chế không có điểm kết thúc.
Mỹ: Tiếp theo, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ lược về lịch sử La Mã cổ đại.
Lịch sử La Mã cổ đại có thể chia thành hai thời kì lớn là thời kì cộng hòa và thời kỳ dân chủ. -Thời kỳ cộng hoà.
+Sự thành lập chế độ cộng hoà
Theo truyền thuyết, thành La Mã( Rôma) do vua Romulus xây dựng năm
753 TCN. Sự thực nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN, do cuộc
cải cách của vua Xecviut Tuliut. Quản lí xã hội thời kì này gồm có 3 cơ quan:
Viện nguyên lão: gồm thủ lĩnh của 300 thị tộc, là cơ quan quyền lực tối cao.
Đại hôi nhân dân người La Mã hay gọi là ĐH Curi: theo truyền thống
của xã hội thị tộc thì tất cả đàn ông của 300 thị tộc đều đc tham dự ĐH Curi
và thể hiện ý muốn của mình bằng lá phiếu.
Vua: do ĐH Curi bầu ra, thực chất chỉ là thủ lĩnh quân sự liên minh 3 bộ lạc.
Vào khoảng 510 TCN, người La Mã nổi dậy khởi nghĩa lật đổ vua Téc canh
kiểu ngạo, châm dứt thời kỳ vương chính, mở ra thời kì Cộng hòa. Từ đây,
bộ máy nhà nước thời kì này bên cạnh Viện nguyên lão còn có Đại hội ndan
là 2 cơ quan chấp chính có quyền ngang nhau, nhiệm kì là 1 năm.
Duyên: Sự thành lập đế quốc La Mã lOMoAR cPSD| 60857655
Khi mới thành lập, La Mã chỉ là một thành bang nhỏ ở miền Trung bán đảo
Ý. Từ thế kỉ IV TCN, La Mã không ngừng xâm lược ra bên ngoài, và hơn
một thế kỷ sau, La Mã đã chinh phục được toàn bộ bán đảo Ý. Cuộc chiến
tranh Tuynít kéo dài từ năm 264-146 TCN đã khiến toàn bộ đất đai của
Cáctagiơ biến thành của La Mã. Đến giữa thế kỉ thứ II TCN, Makedonia bị
biến thành 1 tỉnh của La Mã. Sang thế kỉ thứ I TCN, cả vùng đất ở bờ Đông
Địa Trung Hải cungc bị La Mã chiếm. Cuối cùng, đến năm 30 TCN, Ai
Cập cũng bị nhập vào bản đồ La Mã. Tuy nhiên cũng từ thế kỉ thứ I TCN,
chế độ cộng hào La Mã rơi vào khủng hoảng trầm trọng,bởi hàng loạt cuộc nội chiến.
Mỹ: Thời kì quân chủ
Quá trình chuyển biến chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ
Cũng từ thế kỉ I TCN, chế độ cộng hòa ở La Mã dần dần bị chế độ
độc tài thay thế. Những tướng lĩnh được phe phải trong giai cấp chủ nô tạo
điều kiện dần bước lên vũ đài chính trị, hình thành nên chính quyền tay 3
trong lịch sử. Đến năm 31 TCN, Ôctavianút đã đánh bại lực lượng của
Antoniút và Clêôpát. Năm 29 TCN, ông trở về La Mã trở thành kẻ thống
trị duy nhất của toàn đế quốc rộng lớn. Đến năm 27 TCN, ông được Viện
nguyên lão và Hội đồng nhân dân La Mã tôn làm nguyên thủ, danh hiệu
Ôgút- đấng chí tôn và nhiều danh hiệu cao quý khác. Như vậy, tuy chưa
xưng là hoàng đế nhưng dưới lớp áo nền Cộng hòa, Ôctavianút đã trở thành hoàng đế.
⇒ Như vậy, La Mã tuy vẫn khoác cái áo ngoài của chế độ cộng hoà
nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế.
Duyên: Sự suy vong của đế quốc La Mã
Đến thời quân chủ, chế độ nô lệ ở La Mã ngày càng khủng hoảng trầm
trọng. Trong khi La Mã đang suy yếu thì đến thế kỉ IV, ngưới Giécmanh
bao gồm các tộc Tây Gốt, Đông Gốt, Văngđan, Phrăng, Ănglo
Xắcxông,Buốcgongđơ, đã di cư ồ ạt vào kanhx thổ của đế quốc La Mã.
Sang thế kỉ V, 1 số bộ lạc Giécmanh thành lập các vương quốc của mình
trên đất đai của Tây La Mã, dần biến nơi đây thành vùng nhỏ bé, chính
quyền rơi vào tay người Giécmanh. Năm 476, thủ lĩnh người Giécmanh là
Ôđôacrơ lật đổ Rômulút- vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La Mã
rồi tự xưng hoàng đế, đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã. Còn
đế quốc Đông La Mã thì vẫn tiếp tục tồn tại và đi dần vào con đường phong
kiến hoá và thường được gọi là đế quốc Bidantium, viết tiếp những trang
sử của đế quốc La Mã vĩ đại. Nhưng đến năm 1452, Đông La Mã cũng bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt. lOMoAR cPSD| 60857655
Mỹ: Chúng ta sẽ cùng bước sang khám phá những thành tựu của nền văn
minh La Mã cổ đại. Cùng như đã nói ở phần địa lí dân cư, khu vực giao
lưu và có mối quan hệ vs Hi Lạp từ rất sớm. Nên từ lâu, La Mã đã tiếp thu
nhiều thành tựu văn minh của Hi Lạp, nhất là sau khi Hi Lạp bị nhập vào
đế quốc La Mã thì ảnh hưởng ngày càng sâu sắc hơn. Chính nhà thơ La Mã
Hôratiút đã nói: “Người Hi Lạp bị người La Mã chinh phục, những người
bị chinh phục ấy lại chinh phục trở lạo kẻ đi chinh phục mình…”, Người
ta thường gọi là nền văn minh Hi-La, nền văn minh này đã phát triển toàn
diện và có cho mình những thành tựu rực rỡ về mọi mặt như văn học, nghệ
thuật, sử học, KHTN, triết học.
Duyên: Đầu tiên là về Chữ viết:
Người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ
văn tự Hy Lạp. Vào cuối thế kỉ IV TCN người Hy Lạp đã sáng tạo ra hệ
thống 24 chữ cái.Người La Mã tiếp thu chữ cái của Hy Lạp tạo thành chữ
Latin, ban đầu gồm 20 chữ cái, sau đó hoàn thiện hệ thống 26 mẫu tự
Latin.Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng
rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên
thế giới sau này.Về sau, người La Mã đã dùng chữ cái để tạo ra chữ số La
Mã, được sử dụng cho đến ngày nay.
Mỹ: Còn khi nói về Văn học:
Người La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Đặc biệt
sau khi đánh chiếm thành phố Tatento của Hy Lạp ở trên bán đảo Ý vào
năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn học Hy Lạp, do đó chịu
nhiều ảnh hưởng của văn học Hy Lạp.
Văn học La Mã cũng bao gồm nhiều thể loại sử thi, thơ, trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch.
Nói về La Mã không thể không nhắc đến những câu chuyện thần thoại cùng
những vị thần vĩ đại gắn liền với nơi đây. Người La Mã hầu như tiếp thu
hoàn toàn kho tàng thần thoại và hệ thống các thần thoại của Hy Lạp.
Chỉ có một điều khác là người La Mã đặt lại tên cho các vị thần đó.
Vd: Thần Dớt của Hi Lạp trở thành thần Giupite của La Mã.
Thần Hêra, vợ thần Dớt thành thần Giunong vợ của Giupite.
Thần Đêmêta, thần nghề nông của Hi Lạp thành thần Xêrét, thần ngũ cốc,
thần bảo vệ màu màng của La Mã,…
Duyên: Một cột mốc đánh dấu những thành tựu của La Mã phải nói đến thơ ca,
Thời cộng hòa, La Mã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch như:
Anđrônicút đã dịch Ôđixê ra tiếng Latinh, Catulus đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình…. lOMoAR cPSD| 60857655
Nói về tình yêu của ông với nắng Clôđia, em quan bảo dân Côđiút, nhà thơ viết:
“Anh vừa giận vừa yêu,
Có thể em sẽ hỏi vì sao anh như vậy
Anh chẳng biết nhưng anh cảm thấy
Đau khổ vô cùng vì vừa giận vừa yêu.”
Thời kỳ thống trị của Ôctavianút là thời kì thơ ca La Mã phát triển nhất . Để phục
vụ cho chế độ chính trị của Ôctavianút nhóm tao đàn Mêxen được thành lập,
Mêxen là thân cận của Ôctavianút. Trong nhóm này có những nhà thơ nổi tiếng
như Horace, Ovidius, Vergilius. Thơ trữ tình:
Đại diện là Ovidius ( 43- 17 TCN ) Ông có nhiều tác phẩm hay như
“những bài thơ buồn”, “thơ về kinh” …nhưng bị Ôctavianút đày đi đến
vùng Bắc Hải nhưng không rõ nguyên nhân. Thơ sử thi: Chúng được phân
biệt bởi các chủ đề và câu chuyện được tính; Trong khi người Hy Lạp thu
thập những truyền thuyết về những anh hùng vĩ đại, Latina thu thập những
câu chuyện tuyệt vời về những người đàn ông bình thường.
Đại diện là Vergilius (70-19 TCN ) là nhà thơ lớn nhất của La Mã.
Ông được Mêxen chú ý với tác phẩm đầu tiên – Những bài ca của người chăn
nuôi. Và qua Mêxen mà được Ôctavianút chú ý. Mỹ: Một đoạn thành tựu đáng
nhớ phải kể đến đó là thể loại kịch. Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút,
Ennius, Plantút, Terexia, cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Năm 240
TCN ở La Mã bắt đầu diễn kịch, từ đó các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi
kịch và hài kịch Hy Lạp, đồng thời cũng phỏng theo kịch của Hy Lạp để soạn
những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc là cải biên các vở kịch của Hy Lạp thành
các vở kịch của La Mã.
Duyên: Khép lại thành tựu về văn học, ta mở rat rang mới về tín ngưỡng và tôn
giáo vùng đất La Mã cổ đại. Thần thoại cổ xưa của La Mã cho rằng các vị thần
không ngự trị ở đỉnh cao mà có sự kết hợp giữa thần thánh và con người.
• Không vị cách hóa các vị thần, có thể hình dung như những siêu tục.
• Họ luôn tin trong mỗi con người, địa thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh
của chính nó, như là linh hồn.
• Đến thời Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy tu.
• Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng
thêm sức mạnh. Thần Jupiter là thần Zeus, thần Mars (thần của chiến tranh)
là thần Ares và Neptune (thần của biển) là thần Poseidon. lOMoAR cPSD| 60857655
• Đến thế kỷ thứ 2, đạo Cơ Đốc bắt đầu lan tỏa vào Đế quốc La Mã, có sự
hiềm khích và xung đột. Và được công nhận dưới triều vua Constantinus
I, các đạo khác chống đối bị cấm vào năm 391.
• Đạo Kitô du nhập từ đầu Công nguyên nhưng đến 337 mới phát triển mạnh mẽ.
Mỹ: Sự phát triển của đạo Kitô:
+ Theo truyền thống, người sáng tạo ra đạo Kitô giáo là Jesus Christus, con
Thiên Chúa, nhập thể trong lòng nữ đồng trinh Maria. Năm 30 tuổi ông bắt
đầu đi rao giảng Phúc Âm.
+ Thánh kinh Kitô có Cựu ước và Tân ước. Giáo lý của đạo tin vào Thiên
Chúa Ba Ngôi (tam vị nhất thể). Có quan niệm cứu rỗi, thiên đường, địa
ngục, thiên thần... Ban đầu, đạo Kitô tổ chức thành các công đoạn, đến thế
kỷ II phát triển thành Giáo hội.
+ Khi mới ra đời, đạo Kitô bị hoàng đế và quan lại trấn áp tàn bạo. Nhưng
số người theo đạo không giảm mà tăng lên. Về sau, đề ra nguyên tắc
“vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn
giáo không liên quan tới chính trị.
+ Các hoàng đế La Mã dần chung sống với đạo Kitô. Năm 311, một hoàng
đế ngừng đàn áp các tín đồ. Năm 313, được hoàng đế La Mã công nhận
là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế đã gia nhập đạo Kitô. + Hoàng đế
theo đạo Kitô dẫn tới sự truyền giáo được mở rộng. Từ đó, đạo Kitô được
truyền bá rộng rãi khắp vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế
quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu và lan rộng khắp Châu Âu.
Duyên: Nối tiếp với các thành tựu nổi bật ở trên chúng ta sẽ cùng tìm tìm hiểu
về những thành tựu về sử học vô cùng đặc biệt của nền văn minh La Mã cổ đại này !
Từ khoảng giữa thế kỉ V TCN, ở La Mã đã có những tài liệu tương tự như
lịch sử gọi là Niên đại ký. Nhưng sử học của La Mã đến cuối thế kỉ III TCN
mới xuất hiện và người được coi là nhà sử học đầu tiên là nhà soạn kịch
Nơviút. Do đã tham gia cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất nên ông đã viết
tập sử thi Cuộc chiến tranh Puních, những tác phẩm này chỉ có một số đoạn.
Người đầu tiên viết lịch sử La Mã bằng văn xuôi là Phabiút (sinh năm 254
TCN), ông sử dụng ngôn ngữ Hy Lạp để viết tác phẩm chứng tỏ lúc bấy
giờ văn xuôi La Mã chưa xuất hiện.
Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Carton(234-149
TCN),tác phẩm của ông có nhan đề là “Nguồn gốc” gồm 7 chương.
Phương pháp viết sử của ông là không theo niên đại mà trình bày theo vấn
đề
, vì vậy có thể coi ông là nhà sử học đầu tiên thực sự của La Mã. lOMoAR cPSD| 60857655
Từ Cactông về sau, La Mã cố rất nhiều nhà sử học xuất sắc như Polybit,
Titút Liviút, Taxitut, Plutác. Pôlibius (205-125 TCN) là người Hy Lạp bị
đưa sang La Mã làm con tin, tác phẩm của ông là bộ “thông sử” gồm 40
quyển viết về lịch sử của Hy Lạp, La Mã và các nước phía đông Địa Trung
Hải. Ông nói “Sử học là 1 triết học lấy sự việc thật để dạy người tốt”. Titus
Livius(59 TCN- 17CN) là nhà sử học xuất sắc trong thời kỳ Ôctavianút,
tác phẩm sử học lớn nhất của ông là “lịch sử La Mã Từ khi xây thành đến
nay”gồm 142 quyển, ít nhiều đề cao quyền thống trị của La Mã tại vùng Địa Trung Hải.
Mỹ: : Đặc điểm phương pháp sử học của Livius thứ nhất là : Nêu cao chủ nghĩa
yêu nước trong việc viết sử, đề cao quá khứ vinh quang của La Mã, ca ngợi sự
anh dũng của nhân dân La Mã . Thứ hai là : Chú ý đến tác dụng của giáo dục sử
học: nhấn mạnh các phong tục tốt đẹp ngày xưa, đem những tập quán tốt đẹp ấy
so sánh với hiện tượng đổi phong bại tục lúc bấy giờ. Taxitus (cuối TK I - đầu
TK II) Tác phẩm của ông là “Lịch sử biên niên” viết về thời kì đầu của đế quốc La Mã.
=> Những thành tựu sử học của La Mã đã góp phần quan trọng vào sự phát triển
của sử học thế giới.
Duyên: Khép lại phần sử học ta tiếp tục tìm hiểu đến một thành tựu cũng không
kém phần quan trọng của nền văn minh La Mã cổ đại đó chính là những thành
tựu về Khoa học tự nhiên : Ở thời La Mã, các lĩnh vực này tuy không phát triển
bằng Hy Lạp, nhưng cũng có nhiều thành tựu quan trọng và một số nhà khoa học
tiêu biểu như :Nhà khoa học nổi tiếng nhất của La Mã là Plinius (23-79): tác
phẩm đầu tiên là “Naturalis Historia" (lịch sử tự nhiên) gồm 37 chương
. Đó
là bản tập hợp các ngành khoa học như Thiên văn học, Vật lí học, Địa lý học,
Nhân loại học, Hội họa, Điêu khắc,.. thời bấy giờ => Vì vậy, đây được xem như
một bộ "Bách khoa toàn thư" của La Mã cổ đại. Còn xét về Y học đại biểu tiêu
biểu nhất là Claudius Galenus(131-đầu thế kỉ III), ông là người tiên phong
của phương pháp thí nghiệm trong giải phẫu y học
. Trên cơ sở tiếp thu các
thành tựu y học trước đó, nhất là của Hipôcrát, ông đã viết nhiều tác phẩm để lại
sau này.Một số tác phẩm của ông được dịch thành tiếng Ả Rập, Do Thái, Latinh.
Cho đến đến thế kỷ 19, một số quan điểm của Claudius Galenus vẫn được các
sinh viên y học tìm hiểu và học tập trên giảng đường. Ngày nay, các sử gia đánh
giá ông là một trong những thầy thuốc có tầm ảnh hưởng lớn nhất của trong lịch sử y học nhân loại.
Mỹ: Bên cạnh đó, chúng ta còn 1 số nhà khoa học nổi tiếng như: Claudius
Ptolemaeus là người đầu tiên vẽ bản đồ Trái Đất, lấy Địa Trung Hải làm trung
tâm. Nổi tiếng với tác phẩm “Hệ thống vũ trụ” và Heron (TK I): 1 kỹ sư tài ba lOMoAR cPSD| 60857655
và nhà toán học xuất sắc, ông đưa ra cách tính diện tích hình cầu và phép tính gần đúng với nó.
Tóm lại, cách đây trên dưới 2000 năm, nền khoa học của La Mã cổ đại đã
có những thành tựu rất lớn. Những thành tựu ấy đã đặt cơ sở cho sự phát
triển huy hoàng của khoa học thời cận hiện đại, đồng thời là 1 tiền đề quan
trọng trong sự phát triển của nền Triết học của Hi-La.

Duyên: Tiếp tục ta sẽ cùng tìm hiểu về nghệ thuật La Mã gồm ba mặt chủ yếu là
kiến trúc , điêu khắc và hội họạ:
Đầu tiên ta sẽ tìm hiểu về kiến trúc:
Người La Mã cổ đại xây dựng các công trình kiến trúc vô cùng độc đáo, thành
tựu về kiến trúc của La Mã rất rực rỡ và có nhiều sáng tạo.
Các công trình kiến trúc của La Mã gồm: Tường thành, đền miếu, cung điện,…
những công trình này đặc biệt phát triển vào thời Octavianut.
Điểm đặc biệt là ở thời gian TK I TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông thay thế cho đá cẩm thạch.
Một số đặc điểm nổi bật và loại hình kiến trúc như:
• Thiết kế mái vòm rộng lớn • Sử dụng bê tông
• Hệ thống cống rãnh trong xây dựng
• Thiết kế hệ thống sưởi trong nhà  Một Số Công Trình Kiến Trúc Tiêu Biểu: • Đền Pantheon:
• Được xem là kiệt tác kiến trúc 2000 năm tuổi của đế chế La Mã cổ đại.
• Một trong những di tích thuộc La Mã cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn nhất
cho đến thời điểm hiện tại. • Lịch sử xây dựng:
Đền Pantheon ban đầu được xây dựng vào khoảng năm 27 TCN bởi Marcus Agrippa.
Nó đã bị hư hỏng nặng nề sau hai trận hỏa hoạn vào năm 80 và năm 110. Sau đó,
vào năm 118-124 dưới triều đại vua Publius Aelius Hadrianus, Pantheon được
xây dựng lại hoàn toàn với thiết kế tồn tại cho đến ngày nay.
Mỹ: Mục đích xây dựng: lOMoAR cPSD| 60857655
Trong tiếng Hy Lạp, Pantheon nghĩa là “ tất cả các vị thần” mặc dù đa số đều cho
rằng đền Pantheon được xây dựng để thờ các vị thần La Mã nhưng mục đích sử
dụng ban đầu của ngôi đền thực chất vẫn là một bí ẩn.
Toà nhà có khối chính hình tròn, mái hình bán cầu lợp bằng một loại đá nhẹ đường
kính mái 43,3m, đúng bằng chiều cao tòa nhà.
Từ đáy vòm trở xuống nhà được chia làm 2 tầng. Tầng dưới cao 13m dùng hàng
cột thức coranh. Tầng trên cao 8,7m chỉ dùng các mảng tường nảy trụ làm bằng
đá cẩm thạch. Những mảng tường nảy trụ này hợp làm 1 với 5 hàng ô cờ được
khoét lõm trên vòm trần (gọi là Kêxon) tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, thư thái.
Vòm mái được kết thúc bằng 1 lỗ tròn đường kính 8,92m.
Đền Pantheon với 1500m² sàn có sảnh vào sâu tới 14m có 16 cột tròn đường
kính 1,5m, cao 14m, trên lợp mái dốc về hai phía. Hai dốc tròn hai bên sảnh đặt
tượng hoàng đế và tượng Marcus Agrippa.  Đấu trường Colosseum
Được xây dựng trong vòng 8 năm (72-80) Vật
liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. • Lịch sử xây dựng:
Được xây dựng vào năm 72 sau công nguyên, là một công trình phản ánh
đời sống tinh thần của người La Mã cổ đại. Đây là đấu trường lớn nhất thủ đô Roma.
• Kiến trúc xây dựng: Đấu trường có 4 tầng (tầng trệt + 3 tầng được xây
bằng đá chồng lên nhau), dài 600m, rộng 200m, ban đầu chứa được
26.000 người. Khán đài hình elip của đấu trường được nâng cao dần
lên, tổ chức theo kiểu nền dốc bậc, xung quanh là bức tường cao để bảo
vệ an toàn cho người xem, có sức chứa đến 50.000 người.
• Mục đích: tổ chức những trận đấu làm trò mua vui cho vua chúa, quý
tộc kéo dài suốt 100 ngày.
Ước tính có đến 500.000 người, 1 triệu động vật đã chết khi tham gia vào trò chơi bạo lực này.
Kĩ thuật: Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kỹ thuật
cho sự phát triển của nền văn minh thế giới:
1. Chế tạo thủy tinh (khoảng thế kỷ đầu trước công nguyên) 2. Sử dụng chì
3. Khai thác than4. Chế tạo xi-măng.
Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng nước nhằm lợi
dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm. lOMoAR cPSD| 60857655
Duyên: Đó là những thành tựu nổi bật về kiến trúc tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc
Vậy như thế nào là Điêu khắc La Mã cổ đại ?
La Mã cổ đại là một hình thức biểu hiện nghệ thuật xuất hiện trong Đế chế La
Mã, là một phong trào khá phức tạp và được thể hiện trong các tác phẩm điêu
khắc khác nhau được thực hiện bên cạnh sự phát triển trong kiến trúc.
• Điêu khắc thời đế chế La Mã truyền thống được chia làm 5 loại: Quát, lịch
sử, chân dung, phù điêu mộ và bản sao tác phẩm Hy Lạp cổ đại. Điêu khắc
của La Mã đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi nền nghệ thuật Hy Lạp. Một số
bản sao của La Mã là những tri thức gốc còn sót lại và được bảo tồn từ người Hy Lạp.
• Điêu khắc La Mã đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi Hy Lạp. Đó là một số bản
sao của La Mã là những tri thức gốc của Hy Lạp được bảo tồn.
• Nghệ thuật điêu khắc La Mã cùng một phong cách với nghệ thuật điêu khắc
Hy Lạp. Chủ yếu thể hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu.
Mỹ: Với mục đích để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo rất nhiều tượng.
• Chất liệu: Các bức tượng La Mã ngoài sử dụng đồng, họ còn sử dụng đá
cẩm thạch và đá porphyry trong việc tạo ra các bức tượng. Đây là điểm
khác biệt quan trọng giữa tượng Hy Lạp và La Mã.
• Chân dung tác phẩm điêu khắc từ thời Cộng hòa có khuynh hướng hơi
khiêm nhường hơn, thực tế, và tự nhiên so với các công trình Đế quốc sớm.
• Ở thời kỳ đế quốc, mặc dù họ thường miêu tả thực tế của cơ thể con người,
chân dung tác phẩm điêu khắc của các hoàng đế La Mã được thường được
sử dụng cho mục đích tuyên truyền và đưa các thông điệp về ý thức hệ
trong tư thế hay trang phục của các nhân vật.
Duyên: Cuối cùng ta cần nhắc đến đó là nghệ thuật về hội họa, có rất nhiều thể
loại hội họa của La Mã chịu ảnh hưởng của Etruscan – nền văn minh chính của
Địa Trung Hải thời kỳ tiền La Mã. Vào TK III TCN, hội họa Hy Lạp ảnh hưởng
đến La Mã do chiến tranh và chiến lợi phẩm mang lại. Rất nhiều gia đình ở La
Mã đã treo các bức tranh của các họa sĩ Hy Lạp.
• Tuy nhiên, bên cạnh đó La Mã cũng có những nét nghệ thuật riêng của
mình. Các tác phẩm hội họa của La Mã còn được giữ lại chủ yếu là các
bích họa vẽ phong cảnh, tĩnh vật, các công trình kiến trúc… Chân dung
người tuy cũng còn nhưng rất ít. lOMoAR cPSD| 60857655
• Vẽ tranh tường là một hình thức nghệ thuật La Mã được nghiên cứu nhiều,
độc đáo trong khảo cổ học cổ đại vì nó vẫn đang tồn tại. Các bức tranh
khảm La Mã sẽ bị mai một nếu núi lửa Vesuvius không phun trào và chôn
vùi 2 thành phố Pompeii và Herculaneum, bảo tồn các bức tranh còn
nguyên vẹn đến ngày nay.
• Người La Mã thường vẽ tranh phong cảnh - một loại hình nghệ thuật không
được ưa thích ở Hy Lạp. Do đó, nó là một phát minh độc đáo của người La
Mã, hiếm có trong nghệ thuật La Mã. Tranh phong cảnh là sự kết hợp đặc
biệt giữa những nét xưa cũ và sự phát triển của hội họa La Mã, đặc biệt về
kỹ thuật tích hợp và các quan điểm toán học được thể hiện vô cùng thu hút trong các bức tranh.
• Việc đổi mới chính của nghệ thuật La Mã so với nghệ thuật Hy Lạp là sự
phát triển của tranh phong cảnh. Tranh có bề mặt bóng cùng nhiều màu sắc
được áp dụng vô cùng tốt tạo cho không gian có chiều sâu và rộng. Danh
lam thắng cảnh được thể hiện vô cùng rõ nét và mang nét đẹp thực tế đến
cho người nhìn qua khung ảnh.
Mỹ: Tranh chân dung: Vẽ chân dung là loại hình nghệ thuật rất phát triển
trong kỷ nguyên La Mã. Người ta tin rằng kỹ thuật vẽ chân dung thịnh hành
ở khắp mọi nơi trên đế chế La Mã trong suốt 2 thế kỷ SCN, mặc dù chỉ còn
khoảng 200 bức chân dung còn tồn tại cho đến ngày nay. Bởi các tác phẩm
này đều được vẽ trên gỗ nên chúng rất dễ hỏng. Các tác phẩm chủ yếu được
tìm thấy trong hầm mộ khô ráo hoặc dưới lớp cát nóng nơi sa mạc khô cằn
• Có người nghĩ rằng các tác phẩm chân dung chỉ có chủ đề về cái chết, về
những người đã khuất. Tuy nhiên, các tác phẩm này ngược lại lại thường
mang chủ đề của sự sống, kể về các hoạt động sinh hoạt hàng ngày: đồ vật,
cuộc sống… sau đó mới là những chân dung để lưu lại hình ảnh của người đã khuất.
• Tranh chân dung trong lăng mộ: Tranh trong lăng mộ là các bức tranh chân
dung được gắn trên xác ướp để đem đi chôn cất. Trên tranh miêu tả một
người duy nhất, diễn tả trọng tâm phần đầu hoặc phần từ ngực trở lên. Nền
luôn là đơn sắc, đôi khi thêm các họa tiết, hoa văn trang trí.
• Tại La Mã, vẽ tranh tường tuy phổ biến nhưng nó không được coi là nghệ
thuật đỉnh cao. Hình thức có uy tín nhất của nghệ thuật La Mã bên cạnh
điêu khắc chính là sơn bảng, tức là vẽ lên các bảng bằng sơn dầu hoặc sơn
lên tấm gỗ. Thật không may, vì gỗ là loại vật liệu dễ hư hỏng nên còn rất ít
ví dụ về các bức tranh như vậy còn tồn tại.
Duyên : Trong lĩnh vực triêt học thì người La Mã không có nhiều sáng tạo mà
chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp. lOMoAR cPSD| 60857655
• Kế thừa triết học Hy lạp, đến thế kỉ I TCN, triết học La Mã cũng tương đối
phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98-
54TCN). Ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẻ từ tư tưởng của nhà
triết học Epicurus (thuyết khắc kỷ). Tác phẩm duy nhất mà ông để lại là
“về bản chất của sự vật”. (Triết học duy vật)
• Trong hai thế kỷ đấu SCN, thuyết khắc kỷ được cho là phù hợp với những
đức tính truyền thống với người dân La Mã (Triết học duy tâm). Có ba môn đồ nổi tiếng là: •
Seneca (Tk III TCN – 65 TCN) là thầy học của bạo chúa Nê Rông. Tư
tưởngtriết học chủ yếu của ông là vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải
độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần. Tác phẩm :Bàn về nhân tử, Bàn về
phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc. •
Epictetus (thế kỉ I - đầu thế kỉ II) là học trò của Xênéc. Đặc điểm triết học
củaông là chủ nghĩa bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa. •
Marchus Orelius (121-180) là hoàng đế La Mã (161-180) được gọi là
“nhàtriết học trên ngôi báu”. Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người
là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình dù phải chịu
đựng mọi khó khăn và thử thách.
Mỹ : Nếu như trong các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La Mã
được xem là học trò của người Hy Lạp thì trong lĩnh vực luật pháp, vị thế của họ
cao hơn nhiều. - Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hòa La Mã đã được thành
lập, bộ máy nhà nước gồm có viện nguyên lão, đại hội nhân dân và quan chấp
chính. Hệ thống pháp luật của họ là kết quả của một quá trình tiến triển lâu dài
được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN
cử 3 người sang tìm hiểu luật pháp của Hy Lạp, nhất là của Xôlông. Năm
452 TCN, La Mã đã thành lập uỷ ban 10 người để soạn luật. Soạn được bộ luật,
khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường. Năm 450 TCN, cử một uỷ ban 10
người mới, soạn thêm hai bảng nữa vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.
Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ
tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, đại vị phụ
nữ… Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho
mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng.
Về lĩnh vực chính trị : “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù
của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù.” lOMoAR cPSD| 60857655
Tóm lại, nội dung của Luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống
xã hội, nhiều mức hình phạt quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự
xét xử độc đoán của quý tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp La Mã cổ đại.
Những pháp lệnh khác từ giữa thế kỉ V về sau, nhà nước La Mã phải ban hành
nhiều pháp lệnh bổ sung. Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình
dân kết hôn với quý tộc. Năm 367 TCN, lại thông qua ba pháp lệnh quan trọng: 1.
xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã 2.
Không ai được chiếm quá 50 junjera đất công tức là bằng khoảng 125 ha. 3.
Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan chấp
chínhhằng năm, trong 2 quan chấp chính phải có 1 người là bình dân.
Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân, có
hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.
Đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa,
nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.
Duyên: Nói chung Luật của La Mã được chia thành ba ngành lớn
• Jus civile tức Dân Luật: tức là luật chủ yếu liên quan đến La Mã và các công dân của nó
• Jus gentium tức là luật của nhân dân có giá trị cho mọi người dân không phân biệt dân tộc.
• Jus Naturale tức luật tự nhiên. Họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một
trình tự hợp lý, vốn được thể hiện thành công lý và quyền hạn. có nghĩa là
tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau, và con người được
hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ chính trị khác không được xâm phạm.
=> Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở Châu Âu.
Mỹ: Vâng những thông tin đáng chú ý trên cũng đã khép lạp chương trình “Khám
phá lịch sử Thế giới” ngày hôm nay. Mọi thắc mắc xin liên hệ số hotline hoặc gửi
vào hộp thư của chương trình. Một lần nữa, xin cho phép Hoài Mỹ cùng Mỹ
Duyên chào tạm biệt và hẹn gặp lại. lOMoAR cPSD| 60857655