Ba nguyên tắc Toàn diện- Phát triển- Lịch sử ?

Ba nguyên tắc Toàn diện- Phát triển- Lịch sử ?

1. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
a. Định nghĩa
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn một trong những nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng
đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được
đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; tránh
chủ nghĩa chiết trung, kết hợp nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện,
coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự
nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện một phần của nguyên mối quan hệ phổ biến nên cũng những tính
chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
b. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên
hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối liên
hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
2. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối
sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là
bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản,
tất nhiên, ổn định…sẽ giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
\
yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan
hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, nh chất, yếu tố, mặt,
…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp
(mà trước hết những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối
liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…)
của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay
hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp
lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục
được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét
sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
Chủ nghĩa chiết trung cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của s
vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hcơ bản của sự vật;
mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái
chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình
một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm
dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống cũng phức
tạp.
3. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
a. Vận dụng của Đảng
Trong công cuộc xây dựng đổi mới đất nước, Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc toàn diện,
tuy nhiên chúng ta không thực hiện rập khuôn sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn
đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã
hội, giải quyết những vấn đề của xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, đi tới bảo vệ
bản sắc văn hóa dân tộc; vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an
ninh quốc phòng…trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế:
Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ
thể việc thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần sự quản của Nhà nước
theo định hướng hội chủ nghĩa. Cụ thể Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực của các thành
phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu nhân. Tuy nhiên, trong
đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo
thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên song song đó sàng lọc,
lựa chọn và giữ nguyên các tập đoàn quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập
đoàn, doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế. Về
chính trị:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt
đầu công cuộc đổi mới tđổi mới về duy chính trị trong việc hoạch định đường lối chính
sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta
đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định
chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau
của đời sống xã hội”.
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nước ta đã và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của Đảng, dân
chủ hóa trước hết từ trong Đảng. Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường
lối chính trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì chính trị
trở thành định hướng cho phát triển kinh tế. Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự
để phát triển kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục những mặt trái do
đổi mới kinh tế đưa đến.
\
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa.
Về văn hóa, xã hội
Đảng ta coi nguồn lực con người quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của
đất nước. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề
xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo
dục.
b. Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm toàn diện đồng bộ các yếu
tố của thị lao động, thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường vốn, thì tường bất động sản, thị
trường nhà ở, thị trường đất đai,…là yếu tố cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Bên cạnh đó, còn phải hoàn chỉnh đồng bộ toàn diện hệ thống các công cụ quản thị trường
xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ
chế, chính sách các đòn bẩy kinh tế bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Hệ
thống các công cụ được Đảng và Nhà nước chỉ ra là: Các công cụ pháp luật là đảm bảo môi trường
pháp lý, môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển; công cụ kế hoạch; các công
cụ chính sách (CS tiền tệ, CS tài chính..); các công cụ khác (thông tin, tuyên truyền dự trữ của Nhà
nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước,…). Hàng loạt các công cụ này không thể bỏ qua bất
cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một trong những công cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phải triệt để thực hiện dân chủ, theo đó phải triển khai và thực hiện đồng bộ: thực sự tôn trọng các
quyền tự do báo chí, quyền bình đẳng trước pháp luật; Triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội
cơ quan quyền lực cao nhất”; Đảm bảo có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan
trọng; Tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ. Nếu bồn điểm nêu trên được thực hiện,
dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước
tốt đẹp hơn.
Chú trọng xây dựng văn hóa trong đảng, nhất phong cách văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý;
trong đó, trước hết cán bộ, công chức phải những người làm gương, đi đầu; chống những hiện
tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động để thu hút toàn dân tham
gia phong trào” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, chú trọng chất lượng, không chạy
theo phong trào, hình thức. Tiếp tục đầu tư các thiết chế văn hóa, phát huy hiệu quả sử dụng phục
vụ trong cộng đồng dân cư. Quan tâm xây dựng lối sống lành mạnh, có văn hóa, có lý tưởng trong
thanh, thiếu niên. 2. Nguyên tắc phát triển
a. Khái niệm
Phát triển quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn; nguồn gốc của sự phát triển mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự
vật, hiện tượng giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa diễn ra dần
dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng nhưng trên
sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát
triển.
Tính chất của sự phát triển. Phát triển tính khách quan; tính phổ biến; tính kế thừa tính đa
dạng, phong phú.Các tính chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới đa dạng.
Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong nhận
thức và thực tiễn
b. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
Vận động là thuộc tính cố hữu, phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự
thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển một khuynh
hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định
về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ
đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự
vận động chỉ thay đổi những quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò
phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên.
“Hai quan điểm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên,
như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết
\
cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai sinh động. Chỉ quan điểm thứ 2 mới cho ta
chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ mới cho ta chìa khóa
của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt
đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất lượng; giữa cái cái mới;
giữa cái riêng cái chung; giữa nguyên nhân kết quả; giữa nội dung hình thức; giữa bản
chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
Phát triển quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến đa dạng:
phát triển trong giới tự nhiên sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong
hội; phát triển trong tư duy, tinh thần
c. Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Nguyên tắc phát triển (quan điểm phát triển) yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong
trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Cần chỉ
ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn
phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để
tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với
cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn
ra rất phức tạp, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển
không thẳng quanh co, phức tạp; tránh lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình thay thế cái bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu ttích cực đã đạt được
từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
2. Tôn trọng nguyên tắc phát triển
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại:
Sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý
thức con người. con người muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh
hướng chung nhất của thế giới vật chất. Tôn trọng nguyên tắc phát triển giúp các sự vật
hiện tượng phát triển theo đúng quy luật của nó dần dẫn tới sự tiến bộ, tiến hóa
Tránh được sự lạc hậu không còn phù hợp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn tránh
nguy cơ bị đào thải.
Giúp khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ngược lại, không tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả sau:
Xuất hiện những tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, các sự vật hiện tượng không ngừng vận động
phát triển, nếu ta kìm hãm hoặc lở đi sự vận động phát triển đó sẽ trợ nên lạc hậu , không
còn phù hợp dẫn đến nguy cơ bị đào thải.
Nếu không tôn trong nguyên tắc phát triển mà cố gắng tác động vào quá trình phát triển tự
nhiên của sẽ gậy ra những tác dụng ngược, những hậu quả không đáng có, mang lại
những kết quả không như mong muốn
. Vận dụng
Vận dụng nguyên tắc phát triển trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện
nay
a. Vận dụng của Đảng
Phát triển hình thái hội với mục đích cao nhất trở thành một nước XHCN, cũng giống như
tất cả các
nước trên thế giới, Việt Nam đã dần phát triển, trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ thấp nhất là
“công nguyên thủy” đến các hình thái cao hơn như “chiếm hữu lệ”, “phong kiến”, hiên
tại mục tiêu của Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tôn trọng nguyên tắc phát
triển sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng đạt được sự tiến bộ, đạt được những mục tiêu đề ra, ngày càng
rút ngắn khoản cách với các nước khác trên thế giới.
Phát triển nền kinh tế bao cấp (những năm chiến tranh) thành nền kinh tế thị trường, sau khi kháng
chiến chống Pháp thắng lợi, nước ta bắt đầu xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,váo
thời điểm này hình này đã quy tựu những điểm tích cực của nó, biến Việt Nam từ một nền kinh
tế lạc hậu, phân tán nay đã tập trung lại để ổn định phát triển kinh tế. Sau năm 1975, khi đất
nước thống nhất, chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung như cũ, kìm hãm sự phát
triển của những cái mới tốt hơn đến năm 1986 cơ chế này vẫn chưa được xóa bỏ, cho đến khi văn
\
kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI được ban hành nước ta mới bắt đầu nhận ra sự quan
trọng của phát triển và dần hình thành nền kinh tế thị trường cho đến nay.
Phát triển về nhận thức tưởng, luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong giai đoạn sau khi
thống nhất đất nước chúng ta đã có một sự lạc hậu về nhận thức trong thời kỳ quá độ, đặc biệt
bệnh chủ quan, duy ý chí , lối suy nghĩ hành động đơn giản, ng vội chạy theo nguyện vọng
chủ quan, đến Đại hội VII Đảng ta đã nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tòi, xây dựng đường lối,
xây dựng mục tiêu phương hướng XHCN, Đảng nhận định cần xóa bngay nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp. Hiện nay, tưởng của Đảng ta xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Qua đó, ta thể thấy, nhận thức về tưởng, lý luận của Đảng ta có những
thay đổi, chuyển biến theo các giai đoạn, và hoản cảnh khác nhau, tôn trọng nguyên tắc phát triển.
b. Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững kinh tế mô, đảm bảo an ninh kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân, luôn coi trọng và bảo vệ cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững
chắc độc lập để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm
tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới phát triển. Ngoài ra phải mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người chủ thể, nguồn lực chủ yếu
mục tiêu của sự phát triển. Nâng cao năng lực tạo chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ, nhất dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng
thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời
hoàn thiện quan hsản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các
loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện chế quản phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hội. Cuối cùng là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày
càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát triển lực lượng doanh nghiệp
trong nước với nhiều thương hiệu mạnh để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường
ngoài nước. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
Trong quá trình thực hiện đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, qua mỗi giai đoạn sự
tổng kết đúc rút kinh nghiệm, từ đó đề ra những cơ chế chính sách ngày càng hoàn thiện.
Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển như tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập;
Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế
hoạch hóa gia đinh, bào vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; Đấu tranh phòng, chống có hiệu
quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.
3.Nguyên tắc lịch sử cụ thể là gì?
Nguyên tắc lịch sử cụ thể (quan điểm lịch sử cụ thể) là khoa học về mối liên hệ phổ biến về
sự phát triển, tức là một hệ thống các nguyên lý, quy phạm, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại trong
hiện thực đều được tạo thành từ những yếu tố, bộ phân khác nhau; có muôn vàn sự tương tác (mối
liên hệ, quan hệ) với nhau và với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau; qua đó nó bộc lộ
ra thành những đặc điểm tính chất không giống nhau. Thêm vào đó, mỗi sự vật, hiện tương hay
quá trình đều tồn tại trong tiến trình phát sinh, phát triển diệt vong của chính mình; quá trình
này thể hiện một cách cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển diễn ra trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau, trong những
không gian và theo những thời gian không như nhau.
sở luận của nguyên tắc lịch sử cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của hai nguyên
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên của phép biện chứng duy vật hai nguyên bản đóng vai trò xương sống
trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên
lý khái quát nhất. Nội dung hai nguyên lý cơ bản như sau:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong
thế giới.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát
triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật).
Phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lôgíc
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào thực tế, nhất thiết phải áp dụng phương pháp lịch sử
phương pháp logic. Phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến trình phát triển của các hiện
tượng các skiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của chúng. Phương pháp logic phương
pháp nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức
tổng quát, nhằm vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng.
\
Tiêu chuẩn của chân luận ăn khớp với thực tiễn, tức là cái lôgích phản ảnh đúng bản chất
của lịch sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái lôgíc khái quát được chưa được thực tiễn lịch sử
kiểm tra thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân bao giờ cũng cụ thể trong tri giác, Lê-nin nhấn mạnh:
“nếu chân trừu tượng thì tức không phải chân lý”. thế, trong thực tế, hai phương pháp
lịch sử và lôgíc phải thâm nhập vào nhau và ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ mang lại
hiệu quả gì? Ngược lại nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ mang lại hậu quả gì ?
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể
của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những
sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng
những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ
cụ thể nào.
Trong hoạt động nhận thức thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử cụ thể sẽ giúp nhận
thấy:
Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ
nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới
nào…
Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang
nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật…
Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái nào đang (đã
hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay
cái đơn nhất, điều cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung quy định nhau,
chuyển hóa lẫn nhau như thế nào
Bản chất của sự vật gì, được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào
giả tưởng, hiện tượng nào là điển hình
Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình
thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái
gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi
Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả
năng nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào độ tất yếu hiện thực hóa
ra sao…
Nhận biết được những điều đó sẽ giúp ta:
Có quan điểm đánh giá chính xác đặc điểm cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của sự
vật đó
Dễ dàng có phương hướng, hành động đúng đem lại hiệu quả
Áp dụng những chính sách cụ thể vào tình hình thực tế một cách đúng đắn, mang lại thắng
lợi.
Tổng quát được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong
các tiến trình lịch sử nhân loại; nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú
của lịch sử trong sự thống nhất.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể còn được coi “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác
Lênin. tổng hợp trong mình những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp
luận của triết học Mác Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, cũng chính phương pháp biện
chứng. Vì thế trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, nếu không tôn trong nguyên tắc lịch sử – cụ
thể đồng nghĩa với việc đi ngược lại với phương pháp biện chứng, tức phương pháp siêu hình:
Nhận thức đối tượng trạng thái lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
Nhận thức đối tượng trạng thái tĩnh tại; nếu sự biến đổi thì đấy chỉ sự biến đổi về
số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
hậu quả của phương pháp siêu hình là làm cho con người chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những
sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng
thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà
không thấy rừng.
Tóm lại, trong hoạt động nhận thức thực tiễn nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử cụ thể
sẽ mang lại những hậu quả rất nghiệm trọng, ta sẽ luôn nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách phiến
diện, trừu tượng sẽ không bao giờ giải quyết được các mâu thuẫn; sẽ không bao giờ được
những phương hướng, hành động đúng khi giải quyết vấn đề.
| 1/11

Preview text:

1. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện a. Định nghĩa
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng
đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được
đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; tránh
chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện,
coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự
nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những tính
chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
b. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên
hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối liên
hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
2. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối
sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là
bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản,
tất nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, \
yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan
hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt, …) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp
(mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối
liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…)
của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay
hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp
lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục
được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
• Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét
sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
• Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật;
mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
• Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái
chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm
dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
3. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
a. Vận dụng của Đảng
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc toàn diện,
tuy nhiên chúng ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn
đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã
hội, giải quyết những vấn đề của xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi tới bảo vệ
bản sắc văn hóa dân tộc; vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an
ninh quốc phòng…trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế:
Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ
thể ở việc thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực của các thành
phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong
đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo là
thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên song song đó là sàng lọc,
lựa chọn và giữ nguyên các tập đoàn quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập
đoàn, doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế. Về chính trị:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt
đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính
sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta
đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định
chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau
của đời sống xã hội”.
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nước ta đã và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của Đảng, dân
chủ hóa trước hết từ trong Đảng. Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường
lối chính trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì chính trị
trở thành định hướng cho phát triển kinh tế. Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự
để phát triển kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục những mặt trái do
đổi mới kinh tế đưa đến. \
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa.
Về văn hóa, xã hội
Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của
đất nước. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề
xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục.
b. Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm toàn diện đồng bộ các yếu
tố của thị lao động, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thì tường bất động sản, thị
trường nhà ở, thị trường đất đai,…là yếu tố cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Bên cạnh đó, còn phải hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý thị trường xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ
chế, chính sách các đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Hệ
thống các công cụ được Đảng và Nhà nước chỉ ra là: Các công cụ pháp luật là đảm bảo môi trường
pháp lý, môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển; công cụ kế hoạch; các công
cụ chính sách (CS tiền tệ, CS tài chính..); các công cụ khác (thông tin, tuyên truyền dự trữ của Nhà
nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước,…). Hàng loạt các công cụ này không thể bỏ qua bất
cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một trong những công cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phải triệt để thực hiện dân chủ, theo đó phải triển khai và thực hiện đồng bộ: thực sự tôn trọng các
quyền tự do báo chí, quyền bình đẳng trước pháp luật; Triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là
cơ quan quyền lực cao nhất”; Đảm bảo có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan
trọng; Tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ. Nếu bồn điểm nêu trên được thực hiện,
dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn.
Chú trọng xây dựng văn hóa trong đảng, nhất là phong cách văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý;
trong đó, trước hết cán bộ, công chức phải là những người làm gương, đi đầu; chống những hiện
tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động để thu hút toàn dân tham
gia phong trào” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, chú trọng chất lượng, không chạy
theo phong trào, hình thức. Tiếp tục đầu tư các thiết chế văn hóa, phát huy hiệu quả sử dụng phục
vụ trong cộng đồng dân cư. Quan tâm xây dựng lối sống lành mạnh, có văn hóa, có lý tưởng trong
thanh, thiếu niên. 2. Nguyên tắc phát triển a. Khái niệm
Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn; nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự
vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa diễn ra dần
dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ
sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
Tính chất của sự phát triển. Phát triển có tính khách quan; tính phổ biến; tính kế thừa và tính đa
dạng, phong phú.Các tính chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới đa dạng.
Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn b. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự
thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh
hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định
về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ
đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự
vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò
phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên.
“Hai quan điểm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên,
như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết \
cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta
chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa
của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt
đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới;
giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức; giữa bản
chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng:
phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã
hội; phát triển trong tư duy, tinh thần
c. Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Nguyên tắc phát triển (quan điểm phát triển) yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong
trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Cần chỉ
ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn
phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để
tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với
cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn
ra rất phức tạp, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển
không thẳng mà quanh co, phức tạp; tránh lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được
từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
2. Tôn trọng nguyên tắc phát triển
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại:
• Sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý
thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh
hướng chung nhất của thế giới vật chất. Tôn trọng nguyên tắc phát triển giúp các sự vật
hiện tượng phát triển theo đúng quy luật của nó dần dẫn tới sự tiến bộ, tiến hóa
• Tránh được sự lạc hậu không còn phù hợp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn tránh nguy cơ bị đào thải.
• Giúp khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ngược lại, không tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả sau:
• Xuất hiện những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
• Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, các sự vật hiện tượng không ngừng vận động và
phát triển, nếu ta kìm hãm hoặc lở đi sự vận động phát triển đó sẽ trợ nên lạc hậu , không
còn phù hợp dẫn đến nguy cơ bị đào thải.
• Nếu không tôn trong nguyên tắc phát triển mà cố gắng tác động vào quá trình phát triển tự
nhiên của nó sẽ gậy ra những tác dụng ngược, những hậu quả không đáng có, mang lại
những kết quả không như mong muốn . Vận dụng
Vận dụng nguyên tắc phát triển trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay
a. Vận dụng của Đảng
Phát triển hình thái xã hội với mục đích cao nhất là trở thành một nước XHCN, cũng giống như tất cả các
nước trên thế giới, Việt Nam đã dần phát triển, trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ thấp nhất là
“công xã nguyên thủy” đến các hình thái cao hơn như “chiếm hữu nô lệ”, “phong kiến”, và hiên
tại mục tiêu của Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tôn trọng nguyên tắc phát
triển sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng đạt được sự tiến bộ, đạt được những mục tiêu đề ra, ngày càng
rút ngắn khoản cách với các nước khác trên thế giới.
Phát triển nền kinh tế bao cấp (những năm chiến tranh) thành nền kinh tế thị trường, sau khi kháng
chiến chống Pháp thắng lợi, nước ta bắt đầu xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,váo
thời điểm này mô hình này đã quy tựu những điểm tích cực của nó, biến Việt Nam từ một nền kinh
tế lạc hậu, phân tán nay đã tập trung lại để ổn định và phát triển kinh tế. Sau năm 1975, khi đất
nước thống nhất, chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung như cũ, kìm hãm sự phát
triển của những cái mới tốt hơn đến năm 1986 cơ chế này vẫn chưa được xóa bỏ, cho đến khi văn \
kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI được ban hành nước ta mới bắt đầu nhận ra sự quan
trọng của phát triển và dần hình thành nền kinh tế thị trường cho đến nay.
Phát triển về nhận thức tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong giai đoạn sau khi
thống nhất đất nước chúng ta đã có một sự lạc hậu về nhận thức trong thời kỳ quá độ, đặc biệt là
bệnh chủ quan, duy ý chí , lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng
chủ quan, đến Đại hội VII Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tòi, xây dựng đường lối,
xây dựng mục tiêu và phương hướng XHCN, Đảng nhận định cần xóa bỏ ngay nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp. Hiện nay, tư tưởng của Đảng ta là xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Qua đó, ta có thể thấy, nhận thức về tư tưởng, lý luận của Đảng ta có những
thay đổi, chuyển biến theo các giai đoạn, và hoản cảnh khác nhau, tôn trọng nguyên tắc phát triển.
b. Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân, luôn coi trọng và bảo vệ cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững
chắc độc lập để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm
tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển. Ngoài ra phải mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
là mục tiêu của sự phát triển. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng
thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời
hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các
loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Cuối cùng là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày
càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát triển lực lượng doanh nghiệp
trong nước với nhiều thương hiệu mạnh để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường
ngoài nước. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
Trong quá trình thực hiện đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, qua mỗi giai đoạn có sự
tổng kết đúc rút kinh nghiệm, từ đó đề ra những cơ chế chính sách ngày càng hoàn thiện.
Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển như tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập;
Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế
hoạch hóa gia đinh, bào vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; Đấu tranh phòng, chống có hiệu
quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.
3.Nguyên tắc lịch sử cụ thể là gì?
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể (quan điểm lịch sử cụ thể) là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển, tức là một hệ thống các nguyên lý, quy phạm, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại trong
hiện thực đều được tạo thành từ những yếu tố, bộ phân khác nhau; có muôn vàn sự tương tác (mối
liên hệ, quan hệ) với nhau và với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau; qua đó nó bộc lộ
ra thành những đặc điểm tính chất không giống nhau. Thêm vào đó, mỗi sự vật, hiện tương hay
quá trình đều tồn tại trong tiến trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chính mình; quá trình
này thể hiện một cách cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển diễn ra trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau, trong những
không gian và theo những thời gian không như nhau.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của hai nguyên lý là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò xương sống
trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên
lý khái quát nhất. Nội dung hai nguyên lý cơ bản như sau:
• Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
• Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát
triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật).
Phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lôgíc
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào thực tế, nhất thiết phải áp dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến trình phát triển của các hiện
tượng và các sự kiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của chúng. Phương pháp logic là phương
pháp nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức
tổng quát, nhằm vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. \
Tiêu chuẩn của chân lý là lý luận ăn khớp với thực tiễn, tức là cái lôgích phản ảnh đúng bản chất
của lịch sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái lôgíc khái quát được mà chưa được thực tiễn lịch sử
kiểm tra thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân lý bao giờ cũng cụ thể trong tri giác, Lê-nin nhấn mạnh:
“nếu chân lý là trừu tượng thì tức là không phải chân lý”. Vì thế, trong thực tế, hai phương pháp
lịch sử và lôgíc phải thâm nhập vào nhau và ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ mang lại
hiệu quả gì? Ngược lại nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ mang lại hậu quả gì ?

Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể
của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những
sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng
những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể nào.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ giúp nhận thấy:
• Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ
nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào…
• Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang
nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật…
• Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã
hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
• Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay
cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung quy định nhau,
chuyển hóa lẫn nhau như thế nào
• Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào là
giả tưởng, hiện tượng nào là điển hình
• Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình
thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái
gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi
• Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả
năng nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao…
Nhận biết được những điều đó sẽ giúp ta:
• Có quan điểm đánh giá chính xác đặc điểm cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của sự vật đó
• Dễ dàng có phương hướng, hành động đúng đem lại hiệu quả
• Áp dụng những chính sách cụ thể vào tình hình thực tế một cách đúng đắn, mang lại thắng lợi.
• Tổng quát được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong
các tiến trình lịch sử nhân loại; nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú
của lịch sử trong sự thống nhất.
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể còn được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác –
Lênin. Nó tổng hợp trong mình những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện
chứng. Vì thế trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, nếu không tôn trong nguyên tắc lịch sử – cụ
thể đồng nghĩa với việc đi ngược lại với phương pháp biện chứng, tức phương pháp siêu hình:
• Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
• Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về
số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Mà hậu quả của phương pháp siêu hình là làm cho con người chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt
mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những
sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng
thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.
Tóm lại, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể
sẽ mang lại những hậu quả rất nghiệm trọng, ta sẽ luôn nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách phiến
diện, trừu tượng và sẽ không bao giờ giải quyết được các mâu thuẫn; sẽ không bao giờ có được
những phương hướng, hành động đúng khi giải quyết vấn đề.