



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người BÀI 2
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT
Bài 2 gồm các nội dung sau: I- Khái niệm pháp luật
II- Sự ra đời của pháp luật
III- Bản chất của pháp luật
IV- Vai trò của pháp luật
V- Hình thức và nguồn của pháp luật
VI - Các loại văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay Mục tiêu bài học:
Giúp người học nắm được những kiến thức chung, cơ bản và cốt lõi về pháp luật như
khái niệm, lịch sử hình thành, bản chất, vai trò, hình thức… của pháp luật nói chung và pháp
luật Việt Nam hiện nay nói riêng.
I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT
1. Định nghĩa pháp luật
“Pháp luật” là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong xã hội, tuy nhiên, trong đời
sống thực tiễn và trong khoa học có nhiều cách định nghĩa về pháp luật dưới các góc độ khác
nhau. Ở Việt Nam hiện nay phổ biến nhất là quan niệm về pháp luật trên cơ sở của học thuyết
Mác – Lênin. Theo đó, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội.
Pháp luật đại cương – Bài 2 1 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Trong xã hội, ngoài pháp luật còn có nhiều loại quy phạm khác như phong tục tập quán,
quy tắc đạo đức, quy định của các tổ chức xã hội, tín điều tôn giáo... Tuy nhiên, trong xã hội
có giai cấp, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước quản lý, điều tiết xã hội nhằm
thiết lập một trật tự xã hội theo ý chí của lực lượng cầm quyền.
2. Các đặc trưng của pháp luật
Đăc trưng (thuộc tính) của pháp luật là những dấu hiệu riêng có của pháp luật để
phân biệt pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.
Những đặc trưng của pháp luật thể hiện ưu thế riêng của pháp luật so với các loại quy
tắc điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Đó là:
- Pháp luật có tính quyền lực Nhà nước
Trong số các loại quy phạm xã hội thì chỉ pháp luật mới được hình thành bằng con
đường Nhà nước, tức là do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và cũng chỉ có pháp luật mới được
Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì thế, pháp luật luôn thể hiện ý chí của Nhà nước. Nhà nước là
chủ thể duy nhất trong xã hội có quyền ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Bằng nhiều cách
thức khác nhau, Nhà nước trực tiếp ban hành hoặc thừa nhận các quy tắc sẵn có trong xã hội
và xây dựng nên hệ thống pháp luật. Thời kỳ các Nhà nước sơ khai, pháp luật ra đời chủ yếu
từ các quy tắc, tập quán có sẵn trong xã hội, được Nhà nước thừa nhận và nâng lên thành các
quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc cao hơn. Ở các Nhà nước hiện đại, hệ thống pháp luật
do những cơ quan chuyên trách ban hành (Quốc hội, Nghị viện) nên ngày càng được hoàn
thiện cả về nội dung và hình thức, được sắp xếp theo một trật tự về giá trị pháp lý, để điều
chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Trong khi đó, các loại quy phạm xã hội khác được hình thành
bởi các nhóm người trong phạm vi hẹp (như các tín điều tôn giáo, quy chế của tổ chức, đoàn
thể) hoặc do nhiều thế hệ truyền lại (như đạo đức, tập quán) nên không có tính hệ thống, chuẩn
xác về nội dung và hình thức thể hiện.
Pháp luật đại cương – Bài 2 2 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Khi được Nhà nước ban hành và sử dụng làm công cụ chính yếu để quản lý xã hội,
pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực Nhà
nước, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực
hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Khác với pháp luật, các loại quy tắc
xã hội khác thông thường tính bắt buộc không cao, chủ yếu được bảo đảm thực hiện bởi thói
quen và sự tự giác của các chủ thể; biện pháp xử lý đối với hành vi trái quy tắc xã hội cũng
chỉ mang tính răn đe, cảnh báo, lên án bởi cộng đồng và dư luận xã hội nhằm tác động đến
lương tâm, tự trọng của các chủ thể.
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến
“Quy phạm” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khuôn mẫu, chuẩn mực hay mực thước.
Các quy định của pháp luật chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho hành vi,
hướng dẫn cách xử sự cho mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì,
phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, căn cứ vào
quy định của Luật Giao thông đường bộ, người tham gia giao thông sẽ biết mình được làm gì,
không được làm gì, phải làm gì khi tham gia giao thông trên đường bộ. Cụ thể, căn cứ vào
khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, người tham gia giao thông biết mình
cần phải “đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và
phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”. Pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện
thường xuyên, trên toàn lãnh thổ, không ngoại trừ bất cứ tổ chức, cá nhân, khu vực lãnh thổ nào.
- Pháp luật có tính hệ thống và tính thống nhất
Bản thân pháp luật là một hệ thống quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong nhiều lĩnh vực: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai... Mặc dù điều chỉnh
Pháp luật đại cương – Bài 2 3 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
nhiều loại quan hệ xã hội, song giữa các quy phạm pháp luật có mối quan hệ qua lại với nhau
để tạo nên một thể thống nhất là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật có tính thống nhất
được hiểu là một hệ thống pháp luật trong đó tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ
nội tại thống nhất và chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, ngành
luật và được thể hiện trong các hình thức pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chủ yếu
được thể hiện trong một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo
những trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định.
Tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn
bản quy phạm pháp luật và từng quy phạm pháp luật.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ
bậc hiệu lực pháp lý. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu
lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật
do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban
hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Như vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi nội dung chính sách trong toàn
hệ thống pháp luật, trong các văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật phải
nhất quán, phù hợp, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
- Pháp luật có tính xác định về hình thức
Phong tục tập quán, đạo đức không có tính xác định về mặt hình thức vì chúng tồn tại
dưới dạng bất thành văn, thường lưu truyền từ đời này sang đời khác theo hình thức truyền
miệng. Trái lại, pháp luật luôn có tính xác định về mặt hình thức, bởi vì, pháp luật thường
được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn
bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật lại có những hình thức cụ thể như
Pháp luật đại cương – Bài 2 4 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Hiến pháp, luật, nghị định, nghị quyết... Mỗi loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền
ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của
Nhà nước, những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước cũng là những nguyên nhân
dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có Nhà nước nên
cũng chưa có pháp luật, tuy nhiên xã hội bấy giờ đã có các quy phạm xã hội hay các quy tắc
xử sự tồn tại dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo để định hướng và
hướng dẫn cho xử sự của mọi người.
Khi Nhà nước xuất hiện, để quản lý xã hội có giai cấp, Nhà nước phải ban hành pháp
luật. Pháp luật được Nhà nước ban hành thông qua các cách thức sau: -
Nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng phong
tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... phù hợp với ý chí của Nhà nước để nâng lên thành
pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ, Nhà
nước ta thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên đán, phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương… và ghi
nhận trong quy định tại khoản 1 Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012 cho phép người lao
động được nghỉ làm việc 05 ngày để ăn Tết cổ truyền và 01 ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. -
Nhà nước thừa nhận các quyết định, các lập luận, các nguyên tắc hoặc các giải
thích pháp luật do cơ quan xét xử (Tòa án hay Trọng tài) đưa ra khi giải quyết các vụ việc thực tế
làm mẫu để các cơ quan xét xử vận dụng khi giải quyết các vụ việc có nội dung tương tự khác
xảy ra sau đó. Ví dụ, quyết định (hoặc lập luận, giải thích pháp luật, các nguyên tắc) do Tòa
án tối cao đưa ra khi xét xử một vụ tranh chấp đất đai hoặc tranh chấp thương mại… được
Pháp luật đại cương – Bài 2 5 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Nhà nước thừa nhận làm mẫu để các Tòa án vận dụng khi giải quyết các vụ tranh chấp đất đai,
tranh chấp thương mại… có những tình tiết tương tự xảy ra sau đó. -
Nhà nước đặt ra các quy phạm hay quy định mới để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc cũ khi chúng không phù hợp với ý chí của Nhà
nước, không phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Ví dụ, thời gian qua, Nhà
nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều luật và bộ luật: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân…; Nhà
nước đã ban hành Chỉ thị số 406/CT-TTg ngày 08/8/1994 về việc cấm sản xuất, buôn bán và
đốt pháo để xóa bỏ tập quán sản xuất pháo và đốt pháo gây nhiều thiệt hại cho xã hội. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ghi nhận: “Trong trường hợp pháp luật không quy định
và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không
trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”.
III. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT
Pháp luật ra đời và tồn tại gắn liền với Nhà nước, vì vậy, cũng giống như Nhà nước,
xét về bản chất, pháp luật là hiện tượng xã hội luôn thể hiện tính xã hội và tính giai cấp. Đây
là những thuộc tính cơ bản, quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của pháp luật.
Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật không chỉ thể hiện ý chí của lực
lượng cầm quyền mà còn thể hiện ý chí chung của toàn xã hội và nhằm bảo vệ lợi ích chung
của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Chỉ trên cơ sở đó, pháp luật mới có thể điều hòa
các mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, giữ cho xã hội ổn định, trật tự và phát triển. Thêm vào
đó, trong đời sống của mỗi cộng đồng, do đòi hỏi của quan hệ giao tiếp giữa mọi người tất
yếu sẽ hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể
hiện ý chí chung của các thành viên trong cộng đồng, được sự chấp thuận và tuân thủ tự giác
Pháp luật đại cương – Bài 2 6 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
của cả cộng đồng xã hội. Những quy tắc, chuẩn mực này khi được Nhà nước nâng lên thành
luật thì sẽ thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng.
Tính xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ pháp luật là công cụ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội nhằm thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của toàn xã hội.
Pháp luật là công cụ bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ những công trình và những giá trị văn
hoá, tinh thần chung của cộng đồng, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ con người và môi
trường sống... Ví dụ: mặc dù mang tính chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức
(hay còn gọi Quốc triều hình luật; Lê Triều hình luật) lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với
những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả,
tàn tật … Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách
nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi
của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền
thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Bên cạnh tính xã hội, tính giai cấp cũng là thuộc tính không thể thiếu của pháp luật.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là
công cụ điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội theo hướng bảo vệ
lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, pháp luật là ý
chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành luật. Ví dụ, pháp luật của Việt Nam hiện
nay là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm bảo đảm cho
đường lối, chính sách của Đảng được triển khai và thực hiện trong toàn xã hội, hướng tới mục
đích bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ khác.
Pháp luật đại cương – Bài 2 7 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Tóm lại: Tính xã hội và tính giai cấp là thuộc tính chung của pháp luật, tuy nhiên pháp
luật của các Nhà nước khác nhau sẽ khác nhau ở những biểu hiện cụ thể và tương quan giữa
mức độ thể hiện của hai thuộc tính này. Chẳng hạn, pháp luật phong kiến Việt Nam là sự thể
hiện ý chí của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến, nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống
trị của lực lượng này; đồng thời điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng nhằm thiết lập và
giữ gìn trật tự xã hội phong kiến. Do vậy, tính giai cấp của pháp luật phong kiến thể hiện rất
công khai và rõ rệt, còn tính xã hội của nó thể hiện một cách mờ nhạt và hạn chế. Pháp luật
của Nhà nước ta hiện nay là sự thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và những người lao động
khác, là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng cộng sản nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội theo hướng thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, tính xã hội của pháp luật nước ta hiện nay được thể hiện rất rộng rãi và vượt trội
hơn nhiều so với tính giai cấp.
IV. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
Vai trò của pháp luật được hiểu là tác dụng tích cực của pháp luật, biểu hiện ở một số nội dung:
1. Vai trò của pháp luật đối với xã hội
a. Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội -
Pháp luật không sinh ra quan hệ xã hội nhưng là phương tiện không thể
thiếu và hiện nay là công cụ có hiệu quả nhất để điều tiết và định hướng cho sự phát
triển của các quan hệ xã hội, thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho
chủ thể tham gia quan hệ xã hội, các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa
vụ đó. Pháp luật tạo ra hành lang pháp lý, khuôn khổ cho các quan hệ xã hội vận hành.
Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp
pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có
cách ứng xử phù hợp khi ở vào một tình huống cụ thể. -
Pháp luật củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các
quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát
Pháp luật đại cương – Bài 2 8 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
triển của xã hội phù hợp với qui luật khách quan (ví dụ, quan hệ sở hữu, sự tích tụ, tập trung ruộng đất).
+ Pháp luật ghi nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội phù hợp với mục đích,
định hướng của Nhà nước, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển và
bảo vệ sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó.
+ Pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát
triển của đời sống, trái với mục đích, định hướng của Nhà nước. -
Vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ khi có sự thay đổi lớn trong
đời sống xã hội. Sau mỗi cuộc cách mạng, cải cách xã hội, những yếu tố mới được xác
lập thường gặp phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu
tố lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn. Trong những
điều kiện đó, “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu để điều tiết các
trạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chính các biến đổi xã hội quan trọng đó”1.
Bằng pháp luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự tồn
tại của chúng trở nên chính thức và chắc chắn, không thể đảo ngược (việc thiết lập
chính quyền mới, cải cách thủ tục hành chính… ).
b. Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội -
Trật tự an ninh, an toàn xã hội là trạng thái của đời sống xã hội, trong đó
tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc gia được giữ vững và con người được yên ổn
trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi, tính mạng, sức khỏe, tài
sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín… không bị xâm hại. An ninh chủ yếu được thể hiện
trong lĩnh vực chính trị, an toàn xã hội được thể hiện trên nhiều mặt: an toàn trong sản
xuất, trong giao thông, trong sinh hoạt hàng ngày, an toàn trong các giao dịch xã hội… -
Pháp luật hướng dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia các quan hệ
xã hội theo chiều hướng nhằm tạo lập an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quy định
những tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật để bảo đảm sự an toàn cho mọi người trong các lĩnh
vực lao động, sản xuất, tiêu dùng, chế biến, sử dụng thực phẩm…
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2016, tr. 268.
Pháp luật đại cương – Bài 2 9 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người -
Pháp luật cấm những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và quy định các biện pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi đó, qua đó
mà bảo đảm được trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
c. Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội
Trong xã hội, tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi:
tranh chấp giữa các doanh nghiệp, giữa người mua và người bán, giữa các thành viên
trong một gia đình… Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể tham gia quan hệ xã hội chính là các chuẩn mực, cơ sở để giải quyết tranh chấp đó.
- Pháp luật quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp đó
nhằm bảo đảm cho tranh chấp được giải quyết một các công bằng, vừa thấu tình, vừa
đạt lý, bảo đảm tính công minh của pháp luật.
d. Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, bảo đảm
dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội -
Quyền con người là khả năng của con người được tự do lựa chọn hành
động, tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động theo ý
mình, không bị hạn chế, ràng buộc, cấm đoán một cách vô lý. Ngày nay, quyền con
người đã trở thành một giá trị chung được toàn thế giới công nhận. Chỉ pháp luật đương
đại mới có vai trò này. Cụ thể: pháp luật đương đại vừa thừa nhận quyền con người
trong các lĩnh vực khác nhau, vừa quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con
người. Pháp luật còn cấm những hành vi xâm hại tới quyền con người và quy định các
biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi đó, qua đó bảo vệ quyền con người. -
Pháp luật của các Nhà nước hiện đại có vai trò to lớn trong việc bảo đảm
dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội:
+ Pháp luật qui định quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân
dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của Nhà nước, qui định trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân…
+ Pháp luật chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất
thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, tài sản…
+ Pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người. +
Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng xã hội,
nhất là những người ở vị thế xã hội yếu hơn.
+ Thông qua pháp luật, người có công thì được thưởng, kẻ có tội phải bị trừng
phạt; công càng lớn, thưởng càng lớn, tội càng lớn, phạt càng nặng.
Pháp luật đại cương – Bài 2 10 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
+ Pháp luật là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến
bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày
càng được nâng cao, có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện, các giá trị con
người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.
đ. Pháp luật đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội
Theo quy luật tất yếu, xã hội luôn phát triển không ngừng. Tuy nhiên, khác với
các giai đoạn trước, yêu cầu phát triển đối với xã hội đương đại và tương lai không phải
là “tăng trưởng nóng” mà phải là bền vững trên cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi
trường; đảm bảo có thể đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không phương hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực này thể hiện qua việc pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội theo chiều hướng vừa bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm
công bằng, tiến bộ và sự ổn định xã hội, vừa bảo vệ và cải thiện môi trường.
e.Vai trò giáo dục của pháp luật -
Để điều chỉnh hành vi con người, pháp luật phải tác động lên ý thức của
họ. Thông qua đó, pháp luật góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng và
làm thay đổi hành vi của các chủ thể trong xã hội. -
Pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của nhận thức
pháp luật. Với tính chất công khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắt
buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng. -
Chính yêu cầu của đời sống buộc con người phải có những tri thức nhất
định về pháp luật. Đồng thời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dần dần tích
lũy được các tri thức pháp luật. - Pháp luật giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các
thành viên trong xã hội. Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái
độ tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, pháp luật thúc đẩy việc hình
thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp. -
Pháp luật giáo dục ý thức công dân, làm hình thành ở mỗi người ý thức về
trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng, công dân đối với đất nước. -
Pháp luật định hướng hành vi của con người. Thông qua các qui định trong
pháp luật, các chủ thể biết được quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mình, từ
đó có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi một cách phù hợp. Pháp luật tạo cho mỗi
chủ thể khả năng sử dụng những quyền đã được pháp luật qui định để phục vụ lợi ích
của mình, nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng và bảo đảm
quyền, lợi ích của chủ thể khác.
Pháp luật đại cương – Bài 2 11 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người -
Bằng việc qui định các biện pháp cưỡng chế, pháp luật tạo ra một “chướng
ngại vật” có sức cản mạnh mẽ đối với những vi phạm pháp luật. Bằng việc qui định
những hình thức khen thưởng, pháp luật khuyến khích các chủ thể tích cực, chủ động,
tự giác thực hiện những hành vi hợp pháp.
2. Vai trò của pháp luật đối với lực lượng cầm quyền
a. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền
Bằng pháp luật, các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng
cầm quyền nhanh chóng được truyền bá rộng rãi, công khai trên toàn xã hội. Thông qua
pháp luật, các lực lượng cầm quyền áp đặt chủ trương, đường lối của mình đối với toàn
xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng và thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương,
đường lối, chính sách do lực lượng đó đề ra. Nhờ có pháp luật, chủ trương đường lối
chính sách của lực lượng cầm quyền mới dễ dàng đi vào đời sống, trở thành hiện thực trong đời sống.
b. Pháp luật là vũ khí chính trị của lực lượng cầm quyền để chống lại sự
phản kháng chống đối trong xã hội
Pháp luật cấm các hành vi chống phá chính quyền, âm mưu lật đổ chính quyền,
coi đó là một trong những loại tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắc nhất
và quy định các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể thực hiện các
hành vi đó. Pháp luật ngăn cản việc truyền bá cũng như hạn chế sự ảnh hưởng của các
hệ tư tưởng đối lập.
3. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước
a. Pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước
Pháp luật hợp pháp hóa sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, tạo ra cho chính quyền
một sự “chính danh”, tạo ra thế và lực cho Nhà nước, tạo cho Nhà nước tư cách và khả
năng quản lý và điều hành xã hội, đồng thời góp phần ngăn cản các âm mưu chính biến.
b. Pháp luật là công cụ bảo vệ Nhà nước, bảo đảm an toàn cho các nhân
viên Nhà nước
Pháp luật là công cụ sắc bén để Nhà nước tự bảo vệ mình, ngăn chặn các hành vi
chống đối chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền.
c. Pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước
Pháp luật đại cương – Bài 2 12 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
+ Pháp luật quy định các loại cơ quan Nhà nước; trình tự thành lập, cơ cấu tổ
chức của từng loại, từng cấp và từng cơ quan; thẩm quyền chia tách, sát nhập các cơ quan Nhà nước.
+ Pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức và phương
pháp hoạt động của từng loại, từng cấp và từng cơ quan Nhà nước, mối quan hệ giữa
các cấp cơ quan Nhà nước, giữa các cơ quan trong cùng một cấp, giữa các bộ phận cấu
thành và giữa các nhân viên trong một cơ quan Nhà nước với nhau.
d. Pháp luật là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhân viên Nhà nước “vừa hồng,
vừa chuyên” -
Pháp luật quy định tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị
và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các ứng viên được lựa chọn vào các cơ quan Nhà nước. -
Pháp luật xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi nhân viên Nhà
nước, những phẩm chất đạo đức cần phải có, nhờ đó, mỗi người ý thức được nghĩa vụ,
bổn phận của mình, xác định được những việc mình được làm, phải làm, nên làm,
những phẩm chất đạo đức mình cần tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu của công việc…
đ. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho sự giám sát hoạt động của bộ máy Nhà
nước, kiểm soát quyền lực Nhà nước
Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và nhân
viên Nhà nước là cơ sở để đánh giá xem các cơ quan Nhà nước có thực hiện đúng, hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ của mình hay không. Ngoài ra, pháp luật còn quy định cơ
chế giám sát và kiểm soát quyền lực Nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành hoạt động này.
e. Pháp luật là công cụ để Nhà nước tổ chức và quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội
Để quản lý xã hội, có nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, đạo đức, phong
tục, tập quán, tín điều tôn giáo, qui định của các cộng đồng dân cư, của các tổ chức xã hội….
Với những ưu thế vượt trội như tính quyền lực Nhà nước, tính xác định về hình
thức, tính qui phạm phổ biến…, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương,
chính sách của Nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ, có hiệu quả và rộng khắp trên qui mô cả nước.
4. Vai trò của pháp luật đối với các công cụ khác điều chỉnh quan hệ xã hội
Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các quan niệm,
Pháp luật đại cương – Bài 2 13 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
quy tắc đạo đức, phong tục tập quán hoặc tín điều tôn giáo khi chúng phù hợp với ý chí
của Nhà nước và được thừa nhận trong pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có thể góp
phần loại trừ, thanh toán dần các quan niệm, quy tắc đạo đức, phong tục tập quán hoặc
tín điều tôn giáo trái với ý chí của Nhà nước.
V. HÌNH THỨC VÀ NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hình thức và nguồn của pháp luật a.
Khái niệm hình thức của pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của Nhà nước,
tức là cách thức mà Nhà nước sử dụng để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Pháp luật
có ba hình thức cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp (hay án lệ) và văn bản quy phạm pháp luật. b.
Khái niệm nguồn của pháp luật là tất cả các hình thức (yếu tố) chứa đựng hoặc
cung cấp căn cứ pháp lý cho hoạt động của cơ quan Nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền
cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
Pháp luật cũng có ba loại nguồn cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật. Như vậy, hình thức và nguồn của pháp luật là hai khái niệm vừa có điểm
tương đồng vừa có điểm khác biệt. Điểm tương đồng là ở chỗ cả hình thức lẫn nguồn của pháp
luật đều có chung ba loại cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, trong khoa học cũng như trong thực tiễn, thuật ngữ nguồn pháp luật được sử dụng
phổ biến hơn, thuật ngữ nguồn pháp luật được sử dụng thường xuyên, còn thuật ngữ hình thức
pháp luật rất hiếm khi được sử dụng.
2. Các hình thức (các loại nguồn) cơ bản của pháp luật
a. Tập quán pháp
Tập quán pháp là các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng phong tục tập
quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của Nhà nước nên được Nhà
Pháp luật đại cương – Bài 2 14 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
nước thừa nhận thành pháp luật. Theo khoản 2 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Họ của cá
nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không
có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán...”. Như vậy, tập quán xác định họ
cho con ở nước ta đã trở thành tập quán pháp.
b. Tiền lệ pháp hay án lệ
Tiền lệ pháp hay án lệ là các quyết định hoặc lập luận hoặc nguyên tắc hoặc sự giải
thích pháp luật do cơ quan xét xử (Tòa án hoặc Trọng tài) đưa ra khi giải quyết một vụ việc
thực tế cụ thể nào đó được Nhà nước thừa nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để các cơ quan xét
xử dựa vào đó mà giải quyết các vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương
tự. Ví dụ, các án lệ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nước ta công bố đã được thừa
nhận làm mẫu cho các Tòa án khác dùng làm cơ sở để giải quyết các vụ án có nội dung hoặc tình tiết tương tự.
c. Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định, trong đó có các quy
tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện hay các quy phạm pháp luật để điều chỉnh
quan hệ xã hội theo mục đích của Nhà nước.
Văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau: -
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân
có thẩm quyền ban hành pháp luật ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định. Ví dụ, ở Việt
Nam hiện nay, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2020) quy định cụ thể về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ…
Pháp luật đại cương – Bài 2 15 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người -
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung
được Nhà nước bảo đảm thực hiện hay là các quy phạm pháp luật. Ví dụ, quyết định của Ủy
ban nhân dân một địa phương nào đó quy định về các biện pháp vệ sinh phòng dịch ở địa
phương mình thì đó là văn bản quy phạm pháp luật, còn cũng là quyết định của chính Ủy ban
nhân dân đó nhưng về việc trao quyền sử dụng một diện tích đất nhất định cho một công ty
hay một cá nhân nào đó thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. -
Văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống
và được thực hiện trong mọi trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng với nó xảy ra
cho đến khi nó hết hiệu lực. Ví dụ, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 được thực hiện từ
ngày 01/01/2001 và hết hiệu lực từ ngày 01/01/2015 - khi Luật Hôn nhân và Gia đình mới ban
hành năm 2014 thay thế và bắt đầu có hiệu lực. -
Tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật
được quy định cụ thể trong pháp luật. Ví dụ, ở Việt Nam, tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015...
Ở Việt Nam hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức cơ bản, chủ yếu song
không phải là hình thức duy nhất của pháp luật vì còn có các tập quán pháp và án lệ. Tuy
nhiên, việc áp dụng tập quán pháp và án lệ chỉ được thực hiện khi văn bản quy phạm pháp luật
chưa có quy định và việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hiện hành.
d. Các loại nguồn khác của pháp luật - Điều ước quốc tế; -
Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội;
Pháp luật đại cương – Bài 2 16 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người -
Các tư tưởng,quan điểm, học thuyết chính trị - pháp lý; -
Luật công bằng, lẽ phải…; - Tín điều tôn giáo; -
Đường lối, chính sách, mục tiêu chính trị của lực lượng cầm quyền; - Hợp đồng…
VI. CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Căn cứ vào giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, có thể chia văn bản quy
phạm pháp luật thành hai loại là: văn bản luật và văn bản dưới luật. 1. Văn bản luật
Văn bản luật là văn bản do Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành. Loại này bao gồm: - Hiến pháp. -
Các đạo luật khác: bao gồm bộ luật và luật. -
Nghị quyết của Quốc hội.
2. Văn bản dưới luật
Văn bản dưới luật bao gồm các loại sau: -
Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên
tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. -
Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước.
Pháp luật đại cương – Bài 2 17 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người -
Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. -
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. -
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. -
Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước. -
Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. -
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. -
Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. -
Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt. -
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện. -
Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện. -
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. -
Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. - CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Pháp luật là gì?
Câu 2. Nhà nước ban hành pháp luật thông qua các cách thức nào?
Câu 3. Tại sao Nhà nước phải đảm bảo cho pháp luật được thực hiện?
Pháp luật đại cương – Bài 2 18 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Câu 4. Tại sao nói pháp luật có tính quy phạm phổ biến?
Câu 5. Hiểu thế nào là tính thống nhất của hệ thống pháp luật?
Câu 6. Tại sao nói pháp luật có tính xác định về hình thức?
Câu 7. Chỉ ra một phong tục, tập quán mà Nhà nước Việt Nam sử dụng pháp luật để can thiệp xóa bỏ?
Câu 8. Tại sao pháp luật mang tính giai cấp?
Câu 9. Tại sao pháp luật mang tính xã hội?
Câu 10. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, tính giai cấp hay tính xã hội là thuộc tính vượt trội?
Câu 11. Vai trò của pháp luật đối với xã hội được thể hiện như thế nào?
Câu 12. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước Việt Nam hiện nay được thể hiện như thế nào?
Câu 13. Vai trò của pháp luật đối với Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện như thế nào?
Câu 14. Vai trò của pháp luật đối các loại quy phạm xã hội khác điều chỉnh quan hệ xã
hội ở Việt Nam được thể hiện như thế nào?
Câu 15. Ở Việt Nam hiện nay ngoài Hiến pháp ra còn có những văn bản quy phạm pháp luật nào nữa?
Câu 16. Ở địa phương các cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật? Mỗi cơ quan đó được ban hành những loại văn bản quy phạm pháp luật nào?
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ.
Pháp luật đại cương – Bài 2 19 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người 2.
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002. 3.
TS. Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
– một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2009. 4.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật. Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2017. 5.
PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên), Những nội dung căn bản của môn
học Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. 6.
PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn tập môn học Lý luận Nhà nước
và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. 7.
PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn và thi môn Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật (dành cho sinh viên chuyên luật văn bằng 1 và văn bằng 2), Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2018. 8.
Các văn bản quy phạm pháp luật: http://vbpl.vn/pages/portal.aspx - Hiến pháp năm 2013 -
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 -
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 -
Bộ luật dân sự năm 2015
Chúc Anh/ chị học tốt!
Pháp luật đại cương – Bài 2 20