














Preview text:
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
2.1. Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
2.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.
Mác về phạm trù vật chất
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm
* Các nhà triết học duy tâm: tuy thừa nhận sự tồn tại các sự vật, hiện tượng của thế giới
nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng. Cụ thể: -
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận sự tồn tại thế giới vật chất là do “sự tha
hóa” của “tinh thần thế giới”. -
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất chỉ là
hình thức biểu hiện của ý thức con người, phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: G. Becoly cho rằng: vật chất là phức hợp của cảm giác.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác
* Các nhà triết học duy vật: thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản
thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên.
- Chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại: (tiêu biểu ở Hy Lạp - La mã, Trung Quốc, Ấn
Độ) đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất, coi đó là khởi nguyên của
thế giới. Quan niệm về vật chất của thời kỳ này mang tính ngây thơ, chất phác. Cụ thể:
+ Ở Ấn Độ: Vật chất là đất, nước, lửa, gió (tư tưởng thuyết Tứ đại), anu; Không (tư tưởng của Phật giáo)…
+ Trung Hoa: vật chất là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (tư tưởng của thuyết Ngũ Hành); Đạo (Lão Tử)…
+ Ở Hy Lap - La Mã: vật chất là nước (tư tưởng của Thales); lửa (tư tưởng Heraclits);
Apâyrôn… Bước tiến quan trọng nhất là thuyết nguyên tử của Đemocrits. Đemocrits cho
rằng nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia được, tồn tại vĩnh viễn; các
nguyên tử khác nhau về trật tự, trạng thái sẽ hình thành các sự vật khác nhau trong thế giới
tự nhiên. Thuyết nguyên tử của Đemocrits có ý nghĩa dự báo khoa học của con người về cấu
trúc của thế giới vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII:
+ Do sự ra đời phát triển của khoa học thực nghiệm, sự phát triển của cơ học cổ điển, chủ
nghĩa duy vật mang hình thức mới, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc.
+ Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này tiếp tục nghiên cứu và khẳng định thuyết nguyên tử; đồng
nhất vật chất với khối lượng, năng lượng; giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những
chuẩn mực cơ học thuần túy; xem vật chất, vận động, không gian, thời gian như những thực
thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại…
* Đánh giá quan niệm về vật chất của nghĩa duy vật trước C. Mác. - Ưu điểm:
+ Đều coi vật chất là bản nguyên của thế giới.
+ Đã xuất phát từ chính bản thân vật chất để giải thích về thế giới, đã đi sâu nghiên cứu cấu
trúc của vật chất. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu tranh chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo. - Hạn chế:
+ Đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể hoặc thuộc tính của vật chất. Quan niệm về vật
chất vẫn mang tính trực quan, cảm tính.
+ Cho đến thế kỷ XVII - XVIII, các nhà triết học vẫn chưa tìm ra bản chất đích thực của thế giới vật chất.
+ Coi thế giới vật chất có giới hạn, đó là nguyên tử, thuộc tính của vật chất.
=> Chưa đưa ra định nghĩa về vật chất.
2.1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Các phát minh vật lý học
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong vật lý học đã có nhiều phát minh quan trọng:
+ 1895, Rơghen phát hiện ra tia X.
+ 1896, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố urani. Phát minh này
chứng tỏ rằng nguyên tử có thể phân chia được, hoặc tan rã hoặc mất đi. Hạt có thể chuyển
thành trường có nghĩa vật chất chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất.
+ 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử, phát minh này chứng tỏ nguyên tử không phải là hạt nhỏ nhất.
+ 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh
mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của nguyên tử.
+ 1905 -1916: thuyết tương đối của A.Anhxtanh đã chứng minh: Không gian, thời gian, khối
lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Tác động của các phát minh vật lý học đến các nhà khoa học và triết học -
Tác động đến nhà khoa học và triết học duy vật siêu hình:
+ Họ hoang mang, dao động hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật.
+ Họ cho rằng: Vật chất cũng giống như nguyên tử có thể biến mất; hiện tượng không có
khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường cũng có nghĩa là vật chất chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất… -
Tác động đến triết học duy tâm: Các nhà triết học duy tâm đã lợi dụng tình hình
đó để tuyên truyền và khẳng định quan điểm duy tâm về vật chất, chống lại quan điểm của
chủ nghĩa duy vật về vật chất.
+ E. Makhơ và Ốt van: phủ nhận hiện thực khách quan của điện tử, sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phần tử.
+ Henri Bexgson cho rằng vật chất là cái phi vật chất đang vận động. -
Đây chính là cuộc khủng hoảng thế giới quan của vật lý học hiện đại, làm cho nhiều
nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang chủ nghĩa duy tâm. - Tác
động đến quan điểm của triết học Mác - Lênin + Lênin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm.
+ Lênin cho rằng vật chất vẫn tồn tại, hiểu biết của con người về vật chất phải thay đổi.
+ Lênin cho rằng để khắc phục được cuộc khủng nêu trên, cần thay chủ nghĩa duy vật siêu
hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Lênin khái quát các thành tựu khoa học và đưa ra định nghĩa về vật chất
2.1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
* Định nghĩa vật chất của Lênin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại
không phụ thuộc vào cảm giác” (V.I. Lênin toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t18, tr 171, 151)
*Phương pháp định nghĩa:
V.I. Lênin định nghĩa vật chất theo phương pháp đặc biệt bằng cách đem đối lập phạm trù
vật chất với phạm trù ý thức chỉ ra thuộc tính cơ bản của vật chất.
* Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của V.I. Lênin:
- Thứ nhất, vật chất là phạm trù triết học để phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết
học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về vật chất.
- Thứ hai, vật chất là thực tại khách quan - đây là thuộc tính cơ bản nhất của vật chất. Tất cả
những gì đang tồn tại thực, bên ngoài ý thức của con người, không phụ thuộc vào ý thức
của con người đều là vật chất. Vật chất là vô cùng, vô tận.
→ Giúp giải quyết được khủng hoảng thế giới quan trong lĩnh vực vật lý và triết học.
- Thứ ba, vật chất tác động vào giác quan của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
đem lại cho con người cảm giác.
Ví dụ: Tác động trực tiếp: đường mang lại cảm giác ngọt ở lưỡi, hoa nhài mang đến cảm
giác thơm ở mũi. Tác động gián tiếp: Để nhận biết được tia X thì cần phải thông qua thiết bị
huỳnh quang phổ. Hiện nay, trong thế giới còn nhiều dạng vật chất mà vẫn chưa có dụng cụ
khoa học để giúp con người cảm nhận được nó. Tuy nhiên, tất cả những gì đang tồn tại
khách quan, dù trước hay sau, trực tiếp hay gián tiếp đều mang đến cho con người cảm giác về nó.
=> Khi đặt vật chất trong mối quan hệ với ý thức thì vật chất có trước, tồn tại trước, là
nguồn gốc của cảm giác (ý thức), là tính thưc nhất; cảm giác (ý thức) có sau, là tính thứ hai,
tồn tại lệ thuôc vào vật chất.
→Nội dung này trong định nghĩa vật chất đã giải quyết được mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của
triết học: giữa vật chất và ý thức, vật chất có trước, là nguồn gốc của ý thức, ý thức có sau,
phụ thuộc vào vật chất.
- Thứ tư, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
Cảm giác là cơ sở duy nhất của mọi sự hiểu biết, song bản thân nó lại không ngừng chép lại,
chụp lại, phản ánh hiện thực khách quan, nên con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của con người ngày càng được “nối dài”,
sự nhận thức của con người về thế giới ngày càng rộng và sâu ở cả tầm vi mô và vĩ mô,
thuộc tính, kết cầu của thế giới ngày càng được bộc lộ nhiều hơn.
→ Nội dung này trong định nghĩa vật chất đã giải quyết mặt thứ 2 vấn đề cơ bản của triết
học: con người có khả năng nhận thức được thể giới. Chỉ có những cái con người chưa biết,
không có những cái con người không biết.
* Ý nghĩa khoa học của định nghĩa vật chất -
Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng -
Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận duy vật khoa học để đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm. thuyết không thể biết và chủ nghĩa duy vật siêu hình. -
Phải quán triệt nguyên tắc khách quan, xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng
khách quan, nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan… -
Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội (đó là điều kiện
sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất và các quan hệ vật chất của xã hội). -
Tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành
một hệ thống lý luận thống nhất, tạo nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách
chủ nghĩa duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử
2.1.4. Phương thức tồn tại của vật chất
Phương thức tồn tại của vật chất: là thông qua cách thức tồn tại của vật chất là vận động;
hình thức tồn tại của vật chất là không gian và thời gian. Vận động
- Khái niệm: Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn tại và biểu hiện sự tồn
tại của mình thông qua vận động. Không có vật chất không vận động cũng như không có
vận động thuần tuý ở bên ngoài vật chất.
+ Vận động của vật chất không do ai sáng tạo ra cũng không thể bị tiêu diệt. Nó chỉ có thể
chuyển hoá từ hình thức này sang hình thức khác.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: Vận động cơ học; vận động vật
lý; vận động hoá học; vận động sinh học; vận động xã hội.
Các hình thức vận động tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất, hình thức vận
động cao nảy sinh trên cơ sở của hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động
thấp. Những kết cấu vật chất dặc thù bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận
động cơ bản nhất định→ Phải thấy mối liên hệ của các hình thức vận động và cũng phải biết
phân biệt sự khác nhau của chúng.
- Vận động và đứng im
Vận động của vật chất bao hàm sự đứng im tương đối.
+ Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và
điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là
điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
+ Đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, chỉ xảy ra với một
hình thức vận động xác định tại thời điểm xác định.
+ Đứng im là sự vận động trong trạng thái thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Vận
động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh,
tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối.
=> Quán triệt quan điểm vận động vào nhận thức và thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi phải
xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động; khi tiến hành cải tạo sự vật
phải thông qua các hình thức vận động vốn có đặc trưng của chúng. Không gian và thời gian
- Không gian và thời gian mang tính khách quan
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự,
kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
- Tính chất của không gian và thời gian.
+ Không gian và thời gian mang tính khách quan
+ Không gian và thời gian mang tính vô tận và vĩnh cửu.
+ Không gian mang tính ba chiều: dài, rộng, cao. Còn thời gian có tính một chiều: quá khứ - hiện tại - tương lai.
=> Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử - cụ thể trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
2.1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
- Tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con người. - Sự tồn
tại của thế giới hết sức phong phú về dạng loại. Có tồn tại vật chất và tồn tại tinh thần; tồn
tại khách quan và chủ quan; tồn tại của tự nhiên và tồn tại của xã hội…Vì thế tồn tại của
thế giới là tiền đề cho sự thống nhất thế giới.
- Chủ nghĩa duy vật: sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm: Bản chất của tồn tại là tinh thần.
Sự khác nhau về ngyên tắc giữa quan niệm duy vật và quan niệm duy tâm không phải ở việc
thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà là ở chỗ chủ nghĩa duy vật
cho rằng: cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó.
* Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống
nhất ở tính vật chất. Điều này thể hiện ở các điểm sau: -
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. -
Hai là, mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, chúng
đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm vật chất, chịu sự chi phối của các quy
luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. -
Ba là, thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn tại vĩnh viễn,
vô hạn và vô tận. Trong thế giới vật chất đó, không có cái gì khác ngoài các quá trình vật
chất đang không ngừng vận động, biến đổi, chuyển hóa cho nhau.
Quan điểm về tính thống nhất vật chất của thế giới đã và đang được các thành tựu khoa học chứng minh.
2.2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.2.1. Nguồn gốc của ý thức
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: khi lý giải nguồn gốc của ý thức, cho rằng ý thức là
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến
đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: đồng nhất ý thức với vật chất, coi ý thức
cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Nguồn gốc tự nhiên + Bộ não người
Ý thức thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não người. Bộ não người
là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ não người. Hoạt động ý thức
của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Ý thức phụ
thuộc vào hoạt động bộ não người, do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ
không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ não.
Bộ não người có cấu trúc đặc biệt phát triển rất tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 -15
tỷ tế bào thần kinh chuyên thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ,
hình thành phản xạ có điều kiện và không điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+ Thế giới khách quan:
Thế giới khách quan là thế giới vật chất, tồn tại bên ngoài ý thức của con người. Sự tác động
của thế giới khách quan vào bộ não người thông qua quá trình phản ánh sinh ra ý thức. Đó
chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Qúa trình phản ánh thế giới khách quan bởi bộ não người để hình thành ý thức
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả
hai vật - vật tác động và vật nhận tác động, trong đó vật nhận tác động bao giờ cũng mang
thông tin của vật tác động.
Các hình thức phản ánh của vật chất:
Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh.
Phản ánh sinh học, đặc trưng cho giới tự nhiên sống. Phản ánh sinh học được thể hiện ở các
mức độ từ thấp lên cao, đó là phản ánh mang tính kích thích (có sự chọn lọc) diễn ra ở thực
vật và động vật bậc thấp, ví dụ hoa hướng dương hướng về phía mặt trời mọc. Phản ánh
mang tính cảm ứng (năng lực có cảm giác) diễn ra ở động vật đã có hệ thần kinh. Phản ánh
tâm lý (lưu giữ hình ảnh) diễn ra ở động vật có bộ óc, hệ thần kinh trung ương. Phản ánh
tâm lý đã lưu hình ảnh trong bộ não động vật, chưa hình thành ý thức vì còn mang tính bản
năng của động vật, chưa có sự sáng tạo.
Phản ánh ý thức (có tính sáng tạo) là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản
ánh, diễn ra chỉ duy nhất trong bộ não của con người. Phản ánh ý thức có tính sáng tạo. Ý
thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới hiện khách bởi bộ não của con người.
- Nguồn gốc xã hội
+ Lao động: là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm,
phục vụ các nhu cầu của mình, là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi
giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người với tự nhiên Lao động là yếu
tố quyết định đến sự hình thành ý thức của con người vì:
Thứ nhất, quá trình lao động đưa lại cho con người dáng đi thẳng bằng đôi chân, giải phóng
đôi tay, các giác quan của con người ngày càng biến đổi, con người dần tách khỏi giới động
vật, bộ não của con vật dần chuyển sang bộ não người và ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ hai, trong lao động con người sử dụng công cụ lao động tác động vào các đối tượng,
làm chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, quy luật tồn tại… và thông qua các
giác quan tác động vào bộ não người hình thành tri thức nói riêng và ý thức con người nói chung.
Thứ ba, trong quá trình lao động, con người liên kết với nhau thành xã hội, làm nảy sinh nhu
cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội dẫn đến việc hình thành ngôn ngữ. + Ngôn ngữ
Một là, ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
Hai là, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của ý thức, là phương
thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử.
Ba là, ngôn ngữ vừa là công cụ giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ con
người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, trao đổi tư tưởng, truyền đạt
thông tin, giữ gìn và kế thừa những tri thức giữa các thế hệ người trong lịch sử.
Như vậy, lao động và ngôn ngữ là yếu tố là chuyển biến dần bộ óc vượn thành bộ óc người,
tâm lý động vật thành ý thức của con người.
Kết luận: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được hình thành bởi hai
nguồn gốc: tự nhiên và xã hội. Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là
điều kiện đủ. Vì vậy, nếu chỉ nhấn mạnh một mặt nào đó của nguồn gốc ý thức thì đều dẫn
đến sai lầm. Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức là cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý
thức, khẳng định bản chất xã hội của ý thức.
2.2.2. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động,
sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan -
Nội dung ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức (kết quả) phản ánh là chủ
quan; Hình ảnh chủ quan thuộc về tinh thần, chỉ tồn tại trong não người, mang tính phi vật chất. -
Kết quả phản ánh của ý thức phụ thuộc nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện
lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối
tượng phản ánh, nhưng với các chủ thể khác nhau có thể cho ra kết quả phản ánh khác nhau.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội
* Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo -
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật. Ý thức có thể
tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý
thuyết khoa học… Ví dụ: con người sáng tạo ra các kiểu nhà khác nhau từ thô sơ đến hiện
đại trong quá trình lịch sử. -
Ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động, máy móc mà là sự phản ánh tích
cực, sáng tạo thể hiện ở quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích -
Sản phẩm của sự phản ánh sáng tạo qua hoạt đông thực tiễn: thông qua hoạt động
thực tiễn, con người biến những ý tưởng, giả thuyết thành cái hiện thực, biến các mô hình
phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực
* Sự phản ánh sáng tạo của ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
+ Một là: Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh: có định hướng và chọn lọc
những thông tin cần thiết.
+ Hai là: Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất, là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực
+ Ba là: Chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái hiện thực, biến cái
ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
* Sự phản ánh sáng tạo của ý thức gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội
Ý thức là hiện tượng xã hội, chịu sự tác động của các quy luật xã hội, gắn liền với hoạt động
thực tiễn xã hội đa dạng, phong phú mà qua đó con người làm biến đổi thế giới theo nhu cầu của con người.
Ví dụ: Làm ngôi nhà ở ba địa hình khác nhau, con người phải định hình và đưa ra ba kiểu
nhà khác nhau cho phù hợp với từng địa hình.
2.2.3. Kết cấu của ý thức
Các lớp cấu trúc của ý thức - Tri thức:
+ Là phương thức tồn tại của ý thức, là sự tích lũy nhưng hiểu biết của con người về thế giới
xung quanh. Tri thức càng nhiều thì ý thức về sự vật càng sâu sắc.
+ Tri thức là kết quả phản ánh có tính lịch sử xã hội về thế giới xung quanh.
+ Tri thức tồn tại ở các dạng: cảm tính, tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận, tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học… -
Tình cảm: thái độ của con người đối với đối tượng phản ánh, phản ánh quan hệ giữa
người với người và giữa con người với thế giới khách quan. Là động lực quan trọng của
hoạt động con người. Sự hòa quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn tạo
nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người hoạt động -
Ý chí: là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con
người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt mục đích đề ra.
Các cấp độ của ý thức
Đó là “lát cắt” theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người bao gồm các yếu tố như tự ý
thức, tiềm thức, vô thức…Tất cả những yếu tố đó quy định tính chất phong phú, phức tạp
trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. -
Tự ý thức: ý thức hướng về nhận thức của bản thân mình trong mối quan hệ với ý
thức về thế giới bên ngoài. Con người có thể xác định đúng vị trí, điểm mạnh, điểm yếu của
mình, ý thức về hành động của mình; làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của
mình trong tác động với thế giới khách quan. -
Tiềm thức: là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức; là
những tri thức mà chủ thể có từ trước và gần như đã thành bản năng, kỹ năng nằm trong
tầng sâu của ý thức; là ý thức dưới dạng tiềm tàng -
Vô thức: là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được. Chúng điều khiển những hành vi thuộc
về bản năng, thói quen trong con người thông qua phản xạ không điều kiện.
Vô thức là vô thức trong con người xã hội có ý thức, không cô lập, tách rời với ý thức và thế
giới bên ngoài, không thể quyết định ý thức cũng như hành vi của con người. Nhờ có ý thức
điều khiển, các hiện tượng vô thức được điều chỉnh, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
Vấn đề “trí tuệ nhân tạo” -
Sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại có bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra
nhiều loại máy móc có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của con người như máy
tính điện tử, “người máy thông minh”, “trí tuệ nhân tạo”. -
Tuy nhiên, máy móc không có ý thức như con người. Người máy thông minh chỉ là
một quá trình vật lý, hệ thống thao tác của nó là do con người lập trình, nó không thể sáng
tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Con người có ý thức, có khả năng
sáng tạo, qua đó lập trình cho máy móc. Dù máy móc có hiện đại đến đâu cũng không thể
hoàn thiện như bộ óc con người.
Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội có ý thức, chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật
chất và tinh thần, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khẳng định vai trò to lớn
của ý thức con người cần có thái độ đúng đắn đối với con người, chăm lo, phát triển con
người toàn diện cả về thể chất và tinh thần, bồi dưỡng thế hệ trẻ có kiến thức, nắm vững
khoa học - công nghệ hiện đại…
2.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.3.1. Quan điểm của CNDT và CNDV siêu hình
- CNDT: Coi ý thức là tồn tại duy nhất, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới
vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh
thần sinh ra. - CNDV siêu hình: tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý
thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức.
2.3.2. Quan điểm của CNDVBC
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động trở lại vật chất. a. Vật chất quyết định ý thức.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau: Thứ
nhất, Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức thể hiện ở chỗ vật chất là cái có trước, còn ý thức
là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Thành tựu của Khoa học tự
nhiên hiện đại cũng đã chứng minh: giới tự nhiên có trước con người; Sự vận động của thế
giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của bộ óc người. Bộ óc người là sản phẩm của
quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ
quan phản ánh để hình thành ý thức. Hoạt động của Ý thức chỉ diễn ra trong bộ não con
người trên cơ sở sinh lý – thần kinh của bộ não.
Thứ hai, Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản
ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ não con người, vì thế nội dung của ý thức chính là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan đó vào trong đầu óc con người.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử
của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. Ý thức chỉ là hình ảnh chủ
quan về thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều
sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư
duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Ý thức phản ánh thế giới vật chất, nhưng sự phản ánh đókhông phải là “soi gương”, “chụp
ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông
qua thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con
người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của
con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính
xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản
ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã
hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó b.Ý thức
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Tính độc lập tương đối của ý thứcđược thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ
thuộc một cách máy móc vào vật chất.Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so
với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, Thông qua họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con
người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện
thắng lợi mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho
hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại..
+Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán, định hướng một cách chính
xác cho hiện thực; động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo.
+ Khi phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực, ý thức có tác động tiêu cực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, đặc biệt là vai trò của
tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, nhân văn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Nguyên tắc phương pháp luận là: tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
-Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. -
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, vai trò của nhân tố con người,
chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Coi trọng vai trò của ý thức, giáo
dục tư tưởng, giáo dục CN MLN và TTHCM; giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học… -
Nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ khoa học, khách
quan, không vụ lợi trong nhận thức và hành động.