lOMoARcPSD| 59747617
BÀI 3: KHÁI NIỆM
1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA KHÁI NIỆM
1.1. Nguồn gốc, tính chất chung của khái niệm
Trong nhận thức, khái niệm được hình thành từ thực tiễn, nhưng khái niệm
không hình thành trực tiếp từ thực tiễn. Việc hình thành khái niệm thông qua sự
khái quát một cách tự giác các phương pháp logic đó là: phương pháp phân tích,
phương pháp trừu tượng hóa, và phương pháp tổng hợp.
Phương pháp phân tích: phương pháp phân chia biểu tượng chung thành các
nhân tố nhằm nhận thức từng nhân tố và mối liên hệ bên trong các nhân tố đó.
Phương pháp trừu tượng hóa: phương pháp cho phép gạt bỏ những mặt không
bản chất, rút ra những mặt bản chất.
Phương pháp tổng hợp: là phương pháp kết hợp những mặt bản chất, những đặc
trưng vào một tư tưởng thống nhất về đối tượng.
dụ: để có được định nghĩa “Người” động vật lao động, ngôn ngữ
duy, đều phải trải qua ba phương pháp trên.
Như vậy khái niệm không hình thành một cách thông thường, dựa trên các
phương pháp hình thành trên, nên những tính chất sau: Khái niệm không
phản ánh hết các thuộc tính của sự vật, khái niệm chỉ phản ánh thuộc tính bản chất
của sự vật. Mỗi sự vật ngoài thuộc tính bản chất còn những thuộc tính khác. Ví
dụ: Người da đen, người da vàng, người da trắng. Bởi vậy, khái niệm chỉ phản
ánh những thuộc tính bản chất nhất của sự vật chứ không phải là những đặc trưng
khác.
Như vậy: Khái niệm là một hình thức logic của tư duy phản ánh những dấu hiệu
bản chất, khác biệt của các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan.
Với tính cách là sự phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng các khái niệm
luôn luôn vận động, phát triển để phản ánh ngày càng đầy đủ, đúng đắn và chính
xác hơn bản chất của sự vật. Sự vận động phát triển của khái niệm tùy thuộc
lOMoARcPSD| 59747617
vào sự vận động vào sự vận động và phát triển của các sự vật mà khái niệm phản
ánh và tùy thuộc vào trình độ nhận thức của con người.
Trong thực tế, những khái niệm chân thực và những khái niệm giả
dối. Khái niệm chân thực những khái niệm phản ánh đúng đắn chính xác các
đặc tính bản chất khác biệt của các sự vật, hiện tượng. dụ: “điện thoại di
động”, “máy tính xách tay”, “viên gạch”. Khái niệm giả dối những khái niệm
phản ánh sai lệch hoặc xuyên tạc những đặc tính bản chất, khác biệt của sự vật,
hiện tượng. Ví dụ: khái niệm người cá”, “âm phủ”, “động cơ vĩnh cửu”.
1.2. Hình thức ngôn ngữ thể hiện khái niệm
Khái niệm được diễn đạt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ hình thức thể hiện của
khái niệm. Tuy nhiên, hình thức ngôn ngữ thể hiện khái niệm từ (cụm từ) Không
có từ (cụm từ) không thể có ngôn ngữ, không thể có phương tiện để thể hiện khái
niệm và vì vậy, cũng không thể hình thành và sử dụng khái niệm.
Sự khác nhau giữa từ khái niệm: Từ là đơn vị cấu thành ngôn ngữ, s
thống nhất hữu cơ giữa âm và nghĩa. Còn khái niệm là hình thức logic của tư duy
được xây dựng trên sthống nhất giữa hai bphận nội hàm ngoại diên. Hai
bộ phận này chỉ được diễn đạt thông qua ngôn ngữ là từ. Song không thể thay thế
nội hàm và ngoại diên của khái niệm bằng âm và nghĩa của từ. Do đó không thể
đồng nhất khái niệm với từ hay cụm từ.
Mối quan hệ giữa khái niệm và từ: Giữa khái niệm và từ có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó thì khái niệm nội
dung, đóng vai trò quyết định đối với từ. Tính quyết định của khái niệm đối với
từ được thể hiện chỗ, nội hàm ngoại diên của khái niệm phản ánh mặt bản
chất nào của đối tượng thì nó quy định từ phải thể hiện ra bằng một loại từ tương
ứng .
dụ: Khi khái niệm đề cập đến hành động, trạng thái của con người hoặc của
sự vật thì từ phải được thể hiện ra bằng động từ. Còn khái niệm phản ánh đặc
trưng màu sắc, hình dáng của đối tượng thì từ tương ứng với nó phải tính từ.
lOMoARcPSD| 59747617
Mặt khác, khi khái niệm biến đổi thì từ cũng phải biến đổi theo. Ngược lại,
mặc chịu sự chi phối tính quyết định của khái niệm, nhưng từ không phải
yếu tố thụ động, một chiều mà có tác động trở lại đối với khái niệm. Sự tác động
trở lại đó được thể hiện chỗ, từ là hình thức, cái vỏ vật chất bộc lộ nội dung
của khái niệm ra bên ngoài. Sự bộc lộ này thể đúng đắn hoặc sai lệch so với
bản chất của khái niệm. Điều đó tùy thuộc vào vốn từ khả năng lựa chọn loại
từ (cụm từ) của chủ thể. Mối quan hệ giữa khái niệm và từ còn thể hiện chỗ,
trong quá trình thể hiện khái niệm, mỗi loại ngôn ngữ khác nhau thể hiện khái
niệm một cách khác nhau. Ngay trong một loại ngôn ngữ xác định cũng những
từ diễn đạt khái niệm không giống nhau. Có từ, cụm từ giống nhau nhưng lại thể
hiện khái niệm khác nhau. Ví dụ: Cùng một từ “mai” có thể chỉ tên một người là
(cô Mai) hoặc tên một loài hoa (hoa mai), thể thời gian của ngày hôm sau
(ngày mai) hay chỉ một loại dụng cụ để đào đất (cái mai). Những loại từ này được
gọi là từ đồng âm nhưng khác nghĩa. Ngược lại, có những từ (cụm từ) khác nhau
nhưng lại thể hiện cùng một khái niệm. Ví dụ: Để chỉ hện tượng “chết” người ta
thể dùng rất nhiều từ (cụm từ) như: “qua đời”, “xuống suối vàng”, “về với tổ
tiên” …Đây là những từ đồng nghĩa, khác âm. Ngay cả từ, (cụm từ) như nhau
nhưng được sắp xếp theo thứ tự khác nhau cũng thể hiện các khái niệm khác nhau.
Ví dụ: “phạm tội” (chỉ hành vi phạm pháp của con người) còn “tội phạm” lại chỉ
người hành vi phạm pháp). Chính sự phức tạp trong sự thể hiện khái niệm
của từ trong hoạt động nhận thức hay trong hoạt động nghiên cứu khoa học
phải không ngừng chuẩn hóa các khái niệm phải lựa chọn được một hệ thống
các thuật ngữ riêng để thể hiện đúng đắn các khái niệm khoa học. nvậy mới
nâng cao được khả năng diễn đạt chính xác nội dung các tri thức khoa học và hiệu
quả sử dụng các khái niệm.
1. KẾT CẤU LOGIC CỦA KHÁI NIỆM
Bất kỳ một khái niệm nào cũng gồm hai bộ phận hợp thành nội hàm ngoại
diên.
lOMoARcPSD| 59747617
2.1. Nội hàm của khái niệm
Nội hàm của khái niệm là tập hợp những dấu hiệu bản chất, khác biệt của
các đối tượng (sự vật, hiện tượng), được phản ánh trong khái niệm. (đây là phần
định tính)
Ví dụ: Khái niệmdân tộc”, thì nội hàm của nó là một cộng đồng người ổn định,
được hình thành trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung các mối
liên hệ về kinh tế, chung mt ngôn ngữ, và chung một nền văn hóa.
Như vây, Nội hàm của khái niệm chỉ cho chúng ta biết sự vật, hiện tượng ấy cái
gì? Nó như thế nào? Nó khác các sự vật, hiện tượng khác ở những đặc tính nào.
2.2. Ngoại diên của khái niệm
Ngoại diên của khái niệm tập hợp những đối tượng các dấu hiệu được
phản ánh ở trong nội hàm
dụ: Ngoại diên của khái niệm “dân tộc” bao gồm tất cả các dân tộc trên thế
giới như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Đức, dân tộc Lào…Bởi các
quốc gia dân tộc trên thế gới đều các dấu hiệu nêu trong nội hàm khái niệm
“dân tộc”.
Để diễn tả ngoại diên của khái niệm, người ta dùng diện tích của hình tròn
Đây đồ Ven người đầu tiên đề xuất để diễn tả ngoại diên của khái
niệm. vậy người ta gọi đồ Ven Hình 1 đồ
này được diện tả như hình 1.
Nội hàm và ngoại diên là hai bộ phận hợp thành khái niệm. Giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó,
nội hàm thể hiện mặt chất còn ngoại diên thể hiện
mặt lượng của khái niệm. Mối quan hệ giữa nội hàm ngoại diên quan hệ
ngược hay còn gọi là quan hệ nghịch biến. Nghĩa nếu slượng các dấu hiệu
trong nội hàmtăng lên thì số lượng các đối tượng thuộc ngoại diên sẽ giảm đi
và ngược lại.
A
lOMoARcPSD| 59747617
3.CÁC LOẠI KHÁI NIỆM
3.1.Phân chia ki niệm dựa vào nội hàm
Khái niệm cụ thể: khái niệm phản ánh một đối tượng thực tế hay một lớp đối
tượng nào đó.
Ví dụ: Khái niệmcái quạt”, “lọ nước hoa”, “Trái đất”,…
Khái niệm trừu tượng khái niệm phản ánh những đặc tính hoặc những quan hệ
của các đối tượng.
Ví dụ: Khái niệmlễ phép”, “bằng nhau”, “lịch sự”,…
Khái niệm khẳng định khái niệm phản ánh stồn tại xác định của đối tượng
hay các thuộc tính, các quan hệ của đối tượng. dụ: “Cái nhà kia”, “có văn hóa”,
“có kỷ luật”,….
Khái niệm phủ định là khái niệm phản ánh sự không tồn tại dấu hiệu xác định ở
đối tượng.
Ví dụ: “Vô kỷ luật”, “mất trất tự”, …
Khái niệm đơn là khái niệm tồn tại độc lập không có quan hệ tương ứng với khái
niệm khác.
Ví dụ: “Cái bút”, “cái điện thoại”, “thỏi son”
Khái niệm kép là khái niệm chỉ tồn tại trong mối quan hệ với một khái niệm khác
tương ứng.
Ví dụ: “Cơ sở hạ tầng” và “kiến trúc thượng tầng”, “bên trong” và “bên ngoài”,
“số chắn và số lẻ”,…
3.2. Phân chia khái niệm dựa vào ngoại diên
Căn cứ vào ngoại diên, người ta có thể phân chia thành các khái niệm sau:
Khái niệm đơn nhất là khái niệm mà ngoại diên chỉ có một đối tượng duy nhất.
Ví dụ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Việt nam”, “đỉnh núi Evơret”,…
lOMoARcPSD| 59747617
Khái niệm chung là khái niệm mà ngoại diên của nó có từ hai đối tượng trở lên.
Ví dụ: “học sinh”, “giáo viên”, “trường đại học”,…
Khái niệm tập hợp khái niệm ngoại diên của chỉ được xác lập khi hợp
nhất một số đối tượng nào đó lại với nhau.
Ví dụ: “Chi ủy”, “Hội đồng nhà trường”, “Ban chấp hành chi đoàn”
4. QUAN HỆ GIỮA CÁC KHÁI NIỆM
Trong thế giới khách quan mọi sự vật hiện tượng nằm trong mối quan hệ qua lại,
tác động lẫn nhau. Các khái niệm phản ánh các sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan vậy cũng thể hiện điều đó thông qua mối quan hệ giữa các khái
niệm.
4.1. Quan hệ hợp
Quan hệ hợp quan hệ giữa các khái niệm ít nhất một bộ phận ngoại diên
trùng nhau.
Quan hệ hợp bao gồm quan hệ đồng nhất, quan hệ bao hàm quan hệ giao nhau.
Các khái niệm đồng nhất: các khái niệm nội hàm
tương ứng với nhau ngoại diên hoàn toàn trùng nhau.
Ví dụ: Khái niệmsố chẵn” với khái niệm
“chia hết cho hai”. Khái niệm “nước” và khái niệm chất
lỏng không màu, không mùi không vị”.
Quan hệ đồng nhất được mô tả bằng diện tích hai hình Hình 2 tròn
chồng khit lên nhau. (Hình 2)
A
A’
lOMoARcPSD| 59747617
Các khái niệm bao hàm: quan hệ giữa hai khái niệm nội hàm của khái
niệm này tạo thành một phần nội hàm của khái niệm kia và toàn bộ ngoại diên của
khái niệm y chỉ một bộ phận thuộc ngoại diên của khái niệm
kia.
Ví dụ: khái niệm “học sinh” và “học sinh giỏi”.
Trong hai khái niệm có quan hệ bao hàm thì khái
Niệm nào có ngoại diên rộng hơn, chứa đựng toàn
Bộ ngoại diện của khái niệm kia gọi là khái niệm bao hàm. Còn khái
niệm có toàn bộ ngoại diên chỉ là một bộ phận Hình 3 thuộc ngoại diên của khái
niệm kia, được gọi khái niệm bị bao hàm. Quan hệ bao hàm được tả bằng
diện tích của hai hình tròn chứa đựng nhau (hình 3). Việc xác định một khái niệm
nào đó bao hàm hoặc bbao hàm cũng chỉ tính chất tương đối. Bởi vì, cùng
một khái niệm, nếu xét trong mối quan hệ với khái niệm này là bị bao hàm. Song
xét trong mối quan hệ với khái niệm khác lại là khái niệm bao hàm.
dụ: Khái niệm “học sinh giỏi” nếu xét trong mối quan hệ với khái niệm “học
sinh” thì nó được xác định bị bao hàm. Nhưng xét trong mối quan hệ với khái
niệm “học sinh giỏi xuất sắc” thì nó lại là khái niệm bao hàm.
Các khái niệm giao nhau: Hai khái niệm giao nhau nếu nội hàm của chúng không
loại trừ nhau và ngoại diên của chúng có một phần trùng nhau
Ví dụ: khái niệm sinh viên và vận động viên.
Quan hệ giao nhau được mô tả bằng diện tích của
hai hình tròn có mt bộ phận lồng vào nhau.
(Hình 4). Hình 4
4.2. Quan hệ không hợp
Quan hệ không hợp quan hệ giữa các khái niệm không một bộ phận ngoại
diên nào chung nhau.
Được chia thành các khái niệm tách rời, đối lập và mâu thuẫn.
A
A1
A
lOMoARcPSD| 59747617
Các khái niệm tách rời: Hai khái niệm gọi tách rời nếu nội hàm của chúng loại
trừ nhau và ngoại diên của chúng không có phần nào trùng nhau.
Ví dụ: Khái niệmcái đồng hồ” và “cái bút”.
Khái niệm “cái ti vi” và “y cau”.
Khái niệm tách rời được mô tả bằng hai hình tròn
Tách rời nhau – không có bộ phận nào chung nhau Hình 5 (hình
5).
Các khái niệm đối lập: Hai khái niệm gọi đối lập nhau, nếu
nội hàm của một khái niệm không những loại trừ các dấu hiệu
của khái niệm kia, còn thay thế chúng bằng các dấu hiệu
ngược lại tổng ngoại diên của hai khái niệm nhỏ hơn ngoại
diên của khái niệm giống chung.
Ví dụ: Trong khái niệm “giai cấp” thì khái niệm “giai cấp chủ nô” và khái
“niệm giai cấp nô lệ” là hai khái niệm đối lập nhau. Hình 6 Hai
khái niệm đối lập được mô tả bằng (hình 6).
Các khái niệm mâu thuẫn: Hai khái niệm được gọi mâu thuẫn thuẫn
nếu nội hàm của chúng phủ định lẫn nhau không khẳng định dấu
hiệu nào khác, còn tổng ngoại diên của chúng bằng ngoại diên của khái
niệm giống chung.
Ví dụ: Hai khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” và “khái niệm
Hai khai niệm mâu thuẫn được miêu tả ở (hình 7) Hình 7
Ngoài các quan hệ ở trên, giữa các khái niệm còn quan hệ đồng thuộc, nếu chúng
cùng phụ thuộc vào khái niệm giống chung. Các khái niệm này có chung các dấu
hiệu giống, nhưng có các dấu hiệu loài riêng. Các khái niệm đồng thuộc có thể là
khái niệm hợp hoặc các khái niệm không hợp dụ người lao động trí óc” gồm
có “giáo viên”, “nhà văn”, “kỹ sư” , “nhạc sỹ” …
A
A1
A
A2
A B
lOMoARcPSD| 59747617
5. MỞ RỘNG VÀ THU HẸP KHÁI NIỆM
Mở rộng thu hẹp khái niệm những thao tác logic dựa trên quan hệ ngược
chiều giữa nội hàmngoại diên của khái niệm. Nội hàm càng rộng, càng phong
phú, càng có nhiều dấu hiệu thì ngoại diên càng hẹp và ngược lại.
5.1. Mở rộng khái niệm
Mở rộng khái niệm thao tác logic đi từ khái niệm ngoại diên hẹp đến khái
niệm có ngoại diên rộng bằng cách tước bỏ bớt các dấu hiệu thuộc nội hàm của
khái niệm ban đầu.
Ví dụ: ta khái niệm “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel trong thế kỷ
XXI người Việt Nam”. (A3)
Nếu tước bỏ bớt dấu hiệu “người Việt Nam” ta sẽ được
khái niệm “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel
trong thế kỷ XXI” (A2). So với khái niệm A3 ta thấy số
lượng dấu hiệu trong nội hàm ít hơn nhưng Hình 8
số lượng các đối tượng thuộc ngoại diên lại nhiều hơn.
Tiếp tục bỏ bớt các dấu hiệu về thời gian “Trong thế kỷ XXI” ta được khái niệm
(A1) là “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel”
Quá trình mở rộng khái niệm kết thúc khi ta thu được khái niệm ngoại diên
rộng nhất và nội hàm hẹp nhất.
Quá trình mở rộng khái niệm được diễn tả ở hình 8.
5.2. Thu hẹp khái niệm
Thu hẹp khái niệm thao tác logic đi từ khái niệm có ngoại diên rộng đến khái
niệm ngoại diên hẹp bằng cách thêm vào nội hàm của khái niệm ban đầu những
A1
A2
A3
lOMoARcPSD| 59747617
dấu hiệu mới chỉ thuộc về một số đối tượng nằm trong ngoại diên của khái niệm
ban đầu ấy .
Ví dụ: Ta có khái niệm “nhà toán học” (A). Nếu ta thêm vào nội hàm của
khái niệm này dấu hiệu “thế kỷ XXI”.
So với khái niệm (A) khái niệm này có các dấu
hiệu trong nội hàm nhiều hơn song số lượng các
đối tượng thuộc ngoại diên lại ít hơn tạo thành
khái niệm
“Nhà toán học thế kỷ XXI” (A1).
Hình 9
Nếu tiếp tục thêm dấu hiệu “được giải thưởng Fiel” vào nội hàm của khái niệm
A1 ta lại khái niệm A2 “Nhà toán học thế kXXI được giải thưởng Fiel”.
Thao tác thu hẹp khái niệm ta chỉ cần thêm các dấu hiệu vào nội hàm của khái
niệm kết thúc khi ta thu được khái niệm đơn nhất, vì nội hàm của khái niệm
đơn nhất là phong phú nhất và ngoại diên chỉ có một đối tượng duy nhất thao tác
này cần chuyển liên tiếp từ khái niệm giống tới khái niệm loài. Thao tác thu hẹp
khái niệm được mô tả ở hình 9.
Thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm là hai thao tác ngược nhau.
6. ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM
Trong hoạt động thực tiễn của mình con người tất yếu phải giải thích ý
nghĩa của các từ (thuật ngữ), phát hiện nội m của các khái niệm, tđó phân biệt
đối tượng này với đối tượng khác. Nội hàm của các khái niệm không trực tiếp bộc
lộ trong các từ biểu thị khái niệm. Phát hiện nội hàm của khái niệm các định
các dấu hiệu bản chất hoặc ý nghĩa của từ (thuật ngữ) biểu thị khái niệm. Điều này
sẽ thực hiện được nhờ định nghĩa khái niệm.
Định nghĩa khái niệm là thao tác logic nhờ đó phát hiện nội hàm của khái
niệm hoặc xác lập ý nghĩa của các thuật ngữ.
A2
A1
A
lOMoARcPSD| 59747617
Ví dụ: Định nghĩa “gia đình là tế bào của xã hội, được tạo thành bởi quan hệ hôn
nhân và huyết thống”.
Định nghĩa khái niệm gồm hai bộ phận hợp thành khái niệm được định nghĩa
và khái niệm dùng để định nghĩa.
Khái niệm được định nghĩa là khái niệm cần phải xác định các dấu hiệu trong nội
hàm của nó. Khái niệm dùng đđịnh nghĩa khái niệm được sử dụng để chỉ ra
nội hàm của khái niệm được định nghĩa.
6.1. Các loại định nghĩa khái niệm
Định nghĩa thực tế: định nghĩa nhờ đó đối tượng được định nghĩa được tách ra
từ các lớp đối tượng giống nhau theo các dấu hiệu khác biệt của nó.
Ví dụ “Hình vuông là hình chữ nhật có các cạnh bằng nhau”
Định nghĩa thực tế thường trả lời cho câu hỏi: Đối tượng được thể hiện bằng thuật
ngữ đó là gì?
Định nghĩa duy danh định nghĩa sử dụng những từ tương đương, đồng nghĩa
để thay thế, lý giải thuât ngữ thể hiện khái niệm.
Ví dụ: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng trên tất
cả các lĩnh vực đời sống hội, được bắt đầu từ khi giai cấp công nhân nhân
dân lao động giành được chính quyền cho đến khi tạo ra được những đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội.
Định nghĩa duy danh trả lời cho câu hỏi: thuật ngữ ấy có nghĩa là gì?
Định nghĩa theo nguồn gốc là định nghĩa chỉ ra quá trình hình thành của đối
tượng được đề cập đến trong định nghĩa
dụ: Tam giác là hình học được tạo thành bởi ba đoạn thẳng gấp khúc khép kín”.
Đây là định nghĩa theo nguồn gốc. Bởi định nghĩa ấy chra được quá trình hình
thành của tam giác- đối tượng được đề cập đến trong dịnh nghĩa.
lOMoARcPSD| 59747617
Định nghĩa qua quan hệ đối lập loại định nghĩa mà trong đó nội hàm của khái
niệm cần phải định nghĩa được chỉ ra thông qua việc thiết lập mối quan hệ với
khái niệm có nội hàm trái ngược với nó.
dụ: Khi định nghĩa về vật chất tngười ta định nghĩa thông qua quan hệ với
phạm trù đối lập đó là phạm trù ý thức.
Cách định nghĩa này thường được sử dụng để định nghĩa các khái niệm có ngoại
diên cực kỳ rộng các phạm trù. Chẳng hạn các phạm trù triết học thường được
định nghĩa theo cách này như: tất nhiên ngẫu nhiên, khả năng và hiện thưc, cái
chung và cái riêng…
Định nghĩa mô tả là loại định nghĩa liệt kê một loạt dấu hiệu của đối tượng nhờ
đó có thể hiểu được bả chất của đối tượng đó.
dụ trong tác phẩm Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã tả thúy Kiều như
sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Định nghĩa tả thường được sử dụng trong các khoa học hội, đặc biệt là việc
mô tả các sự kiện hoặc nhân vật cụ thể.
Định nghĩa thông qua giống gần gũi và khác biệt về loài là một loại định nghĩa
mà trong đó nội hàm của khái niệm cần phải định nghĩa được chỉ ra nhờ thiết lập
mối quan hệ với khái niệm giống gần gũi cùng với các dấu hiệu khác biệt về loài.
dụ Nước chất lỏng không mau không mùi, không vị” Đây là định nghĩa
thông qua giống gần gũi khác biệt về loài. Bởi vì, nội hàm của khái niệm
“nước” được chỉ ra nhờ thiết lập mối quan hệ với khái niệm giống gần gũi của
“chất lỏng” với các dấu hiệu khác biệt về loài “không màu, không mùi,
không vị”.
lOMoARcPSD| 59747617
Thực hiện định nghĩa thông qua giống gần gũi khác biệt về loài ta phải chỉ ra
được khái niệm giống gần gũi. Chính việc làm đó mói cho ta định nghĩa ngắn gọn,
dễ hiểu, dễ nhớ.
6.2. Các quy tắc định nghĩa khái niệm Một
là, định nghĩa phải cân đối
Khi định nghĩa một khái niệm nào đó thì ngoại diên của khái niệm được định
nghĩa phải trùng với ngoại diện của khái niệm dùng để định nghĩa . Vi phạm quy
tắc này sẽ dẫn đến lỗi định nghĩa quá rộng hoặc quá hẹp.
Định nghĩa quá rộng định nghĩa mà trong đó ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa.
dụ: Hình vuông hình bình hành một góc vuông là định nghĩa qrộng
ngoại diên của khái niệm được định nghĩa “hình vuông” nhỏ hơn ngoại diên của
khái nieemh dùng để định nghĩa “hình bình hành có một góc vuông” còn bao hàm
cả hình chữ nhật nữa.
Trong trường hợp gặp các loại định nghĩa quá rộng, chúng ta phải sửa chữa định
nghĩa đó bằng cách tăng thêm các dấu hiệu nội hàm hoặc thay khái niệm giống xa
bằng khái niệm giống gần gũi.
Định nghĩa quá hẹp định nghĩa trong đó ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa lớn hơn ngoại diên của khái niệmng để định nghĩa.
Ví dụ: Hình chữ nhật hình thoi có mt góc vuông”. Đây định nghĩa quá hẹp
vì ngoại diên của khái niệm được định nghĩa hình chữ nhật” lớn hơn ngoại diên
của khái niệm dùng để định nghĩa “hình thoi có một góc vuông”. Vì hình thoi có
một góc vuông chỉ hình vuông còn hình chữ nhật bao hàm trong đó cả hình
vuông hình bình hành một góc vuông hai cạnh kề không bằng nhau.
Gặp các định nghĩa quá hẹp, chúng ta phải sửa chữa các định nghĩa đó, bằng cách
thay các khái niệm loài gần gũi bằng khái niệm giống gần gũi của khái niệm được
định nghĩa hoặc tăng thêm ngoại diên vào khái niệm dùng để định nghĩa.
lOMoARcPSD| 59747617
Hai là, định nghĩa phải rõ ràng, chính xác và ngắn gọn
Định nghĩa ràng định nghĩa không sử dụng những tmập mờ, hiểu nhiều
nghĩa khác nhau chỉ sử dụng những từ ngữ hiểu theo một nghĩa xác định, để
người nhận thức định nghĩa hiểu đúng nghĩa đã xác định của từ ngữ ấy.
Định nghĩa chính xác là định nghĩa trong đó các dấu hiệu thuộc nội hàm của
khái nieemh phải đúng các đặc điểm, thuộc tính bản chất của đối tượng được đề
cập đến trong định nghĩa chứ không phải là các đặc điểm, thuộc tính của các đối
tượng khác.
Định nghĩa ngắn gọn định nghĩa không các từ thừa hoặc các từ lặp lại. Muốn
vây, khi định nghĩa cần phải lựa chọn các tkhái quát, cắt bỏ những từ thừa không
cần thiết để có được định nghĩa với số lượng từ ít nhất, liên kết với nhau chặt ch
nhất mà lại chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu trong nội hàm của khái niệm cần phải
định nghĩa.
Ba là, định nghĩa không được ví von, vòng quanh luẩn quẩn
Mục tiêu cơ bản của định nghĩa khái niệmchỉ ra nội hàm của khái niệm, trong
khi việc von một đối tượng này với một đối tượng khác không giúp cho việc
chỉ ra nội hàm của khái niệm cần phải định nghĩa.
dụ: Chủ nghĩa hội là mùa xuân của nhân loại” là định nghĩa ví von, không
chỉ ra được nội hàm của khái niệm “chủ nghĩa xã hội”.
Định nghĩa vòng quanh luẩn quẩn sự lặp lại thuật ngữ của khái niệm cần phải
định nghĩa trong khái niệm dùng để định nghĩa.
Ví dụ: Đồng hồ vật dụng để đo thời gian và thời gian là phải dùng đồng hồ để
do.
lOMoARcPSD| 59747617
Bốn là, định nghĩa không được phủ định mà phải là định nghĩa khẳng
định
Mục tiêu của định nghĩa khái niệm là chỉ ra nội hàm của khái niệm. Trong khi đó
việc phủ định một khái niệm đối lập chỉ ra cái đối tượng không có, chưa chỉ
ra được các dấu hiệu bản chất của khái niệm cần định nghĩa,
Ví dụ: “Đẹp không phải là xấu”, thực từ không phải là hư từ”.
Để định nghĩa định nghĩa đúng đắn một khái niệm khoa học nào đó, đòi hỏi phải
tuân theo các quy tắc trên. Nếu vi phạm một trong những quy tắc đó sẽ dẫn đến
định nghĩa không chính xác.
6.3. Ý nghĩa của việc định nghĩa khái niệm
Định nghĩa khái niệm ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động nhận thức hoạt
động thực tiễn. Nó giúp cho con người nắm bắt được cái bản chất của đối tượng
dưới dạng khái quát nhất, tức nắm được cái linh hồn của khái niệm. Bởi vì, mỗi
sự vật hiện tượng đều rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính khác nhau. Nếu
không phân biệt và tách được cái bản chất nhất, bên trong, tất yếu ra khỏi cái
không bản chất, bề ngoài, ngẫu nhiên của sự vật, hiện tượng, sẽ làm cho nhận thức
trở nên phức tạp, kkhăn. Từ định nghĩa khiến cho người ta thể hiểu được sự
vật hiện tượng đó cái gì, nắm bắt được cái bản chất nhất của đối tượng dưới
dạng khái quát nhất. Định nghĩa khái niệm mang lại sự tiện lợi cần thiết cho
con người. rất ngắn gon, dễ hiểu, dễ nhớ. Không quan tâm đến định nghĩa của
khái niệm sẽ vi phạm đến tính cân đối logic, tính rõ ràng, chính xác và ngắn gọn,
trong khi trình bày slàm cho nhận thức của con người bị lộn xộn, mập my
khó khăn cho việc lĩnh hội tri thức.
7. PHÂN CHIA KHÁI NIỆM
7.1. Bản chất và các loại phân chia ki niệm
Khi nghiên cứu khái niệm nào đó, chúng ta không chỉ vạch ra nội hàm mà
còn phát hiện ngoại diên của chúng.
lOMoARcPSD| 59747617
Thao tác logic vạch ra ngoại diên của khái niệm gọi là phân chia khái niệm. Nói
cách khác, phân chia khái niệm thao tác logic chỉ ra ngoại diên của một khái
niệm nào đó có bao nhiêu đối tượng hợp thành Khi phân chia khái niệm chúng ta
liệt kê các khái niệm loài của khái niệm giống. Khái niệm giống bị phân chia gọi
khái niệm bị phân chia. Các khái niệm loài được liệt gọi là khái niệm phân
chia hay các thành phần phân chia. Dấu hiệu dùng để phân chia gọi là cơ sở phân
chia.
Có hai loại phân chia
Phân chia theo sự biến đổi dấu hiệu. (Phân loại khái niệm) Đó sphân chia
khái niệm giống thành các loài sao cho mỗi loài vẫn giữ được dấu hiệu nào đó của
giống, nhưng dấu hiệu đó lại có chất lượng mới trong các loài.
sở phân chia thể dấu hiệu bản chất, bên trong hoặc dấu hiệu không bản
chất, bên ngoài.
Ví dụ: Khi dựa vài trình độ nhận thức, trình đhọc lực của học sinh người ta chia
khái niệm “học sinh” ra thành: “học sinh giỏi”, “học sinh khá”, “học sinh trung
bình”, “học sinh yếu”, “học sinh kém”. Trong quá trình phân loại đó mỗi một
thành phần phân chia đóng vai trò là các khái niệm loài so với khái niệm giống là
“học sinh”
Không được lẫn lộn thao tác phân chia với chia nhỏ đối tượng, với chia cái toàn
thể thành cái bộ phận. Khi phân chia khái niệm thì cái niệm bị phân chia các
tành phần phân chia nằm trong quan hệ giống – loài.
Phân chia khái niệm rất cần thiết trong hoạt động thực tiễn nhưng không phải
mọi sự phân chia đều có giá trị khoa học và thực tiễn. Chính vì vậy, khi lựa chọn
cơ sở phân chia cần hướng vào mục đích khoa học và giá trị thực tiễn.
Phân đôi khái niệm
Thao tác logic phân chia khái niệm bphân chia thành hai khái niệm mâu thuẫn
với nhau gọi là phân đôi khái niệm.
lOMoARcPSD| 59747617
dụ: Phân đôi khái niệm “từ” ta được hai khái niệm mâu thuẫn nhau là “thực
từ” “hư từ” (không phải thực từ). Hoặc chia khái niệm “người” thành “người
da trắng” và “người da không trắng”.
Phân đôi khái niệm luôn luôn cân đối được tiến hành theo một sở nhất
định. Nhưng chỉ giúp hiểu khái niệm khẳng định sau khi thực hiện một số
bước có thể trở lại khái niệm ban đầu. Phân đôi khái niệm cho phép chúng ta rút
ra được đối tượng khảo sát từ trong tập hợp các đối tượng khác nhau một cách
nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn nhất.
7.2. Các quy tắc phân chia khái niệm
Phân chia phải cân đối. Khi phân chia khái niệm thì ngoại diên của khái
niệm bị phân chia phải bằng tổng ngoại diên của các thành phần phân chia.
Vi dụ: Ta chia khái niệm “chiến tranh” thành “chiến tranh chính nghĩa” và chiến
tranh phi nghĩa” ngoại diện của khái niệmchiến tranh” bằng tổng ngoại diên của
hai khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” và “chiến tranh phi nghĩa”.
Khi vi phạm quy tắc này sẽ dẫn đến sai lầm (lỗi logic) phân chia thừa thành
phần hoặc phân chia thiếu thành phần. Phân chia thừa thành phần khi phân chia
ngoại diên của khái niệm bi phân chia nhỏ hơn tổng ngoại diên của các thành phần
phân chia. Phân chia thiếu thành phần ngoại diên của khái niệm bị phân chia
lớn hơn tổng ngoại diên của các thành phần phân chia.
Phân chia phải theo một cơ sở nhất định và giữa nguyên trong quá
trình phân chia. Trong quá trình phân chia, có thể theo nhiều cách khác nhau
tùy theo dấu hiệu lựa chọn. Nhưng trong một cách phân chia chỉ được căn cứ
dấu hiệu xác định nào đó và phải giữa nguyên dấu hiệu ấy trong suốt quá trình
phân chia.
Các thành phần phân chia phải loại trnhau, nghĩa chúng nằm
trong quan hệ không hợp.
lOMoARcPSD| 59747617
dụ Từ khái niệm nhà nước chia ra thành nhà ước chủ nô, nhà nước phong kiến,
nhà nước sản và nhà nước hội chủ nghĩa đây sự phân chia đúng đắn.
bốn thành phần phân chia là những khái niệm có ngoại diên loại trừ nhau.
Phân chia phải liên tục. Nghĩa phân chia phải được thực hiện từ khái
niệm giống đến khái niệm loài gần gũi rồi mới đến khái niệm loài xã hơn.
Ý nghĩa của việc phân chia khái niệm
Phân chia khái niệm có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn. Điều đó được thể hiện trước hết chỗ, thông qua phân chia
khái niệm, người ta nắm bắt được các sự vật hiện tượng một cách hệ thống, tạo
ra tính trình tự trong quá trình lập luận, không lẫn lộn đối tượng này với các đối
tượng khác hoặc không bỏ sót các đối tượng trong quá trình lập luận, tạo ra sự bao
quát tất cả lớp đối tượng trong một hệ thống hoàn chỉnh của chúng. Việc phân
chia khái niệm còn tạo điều kiện quan trọng cho sự phát triển tri thức phát triển
duy logic. Bởi vì, qua sự phân chia ta thphát hiện ra quy luật của sự hình
thành phát triển của các sự vật, hiện tượng. sở quan trọng để hình
thành tính có hệ thống trong tư duy logic.
Nhờ phân chia khái niệm mà hoạt động thực tiễn của con người được những
luận bản, hiệu quả trong việc quản lý xã hội, quản khoa học.. Giúp cho sự
sắp xếp, bố trí các tổ chức hội, các sở nghiên cứu, quản khoa hoc. Trở
nên hợp lý, nhằm nâng cao hiệu quả công việc.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59747617 BÀI 3: KHÁI NIỆM
1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA KHÁI NIỆM
1.1. Nguồn gốc, tính chất chung của khái niệm
Trong nhận thức, khái niệm được hình thành từ thực tiễn, nhưng khái niệm
không hình thành trực tiếp từ thực tiễn. Việc hình thành khái niệm thông qua sự
khái quát một cách tự giác các phương pháp logic đó là: phương pháp phân tích,
phương pháp trừu tượng hóa, và phương pháp tổng hợp.
Phương pháp phân tích: là phương pháp phân chia biểu tượng chung thành các
nhân tố nhằm nhận thức từng nhân tố và mối liên hệ bên trong các nhân tố đó.
Phương pháp trừu tượng hóa: là phương pháp cho phép gạt bỏ những mặt không
bản chất, rút ra những mặt bản chất.
Phương pháp tổng hợp: là phương pháp kết hợp những mặt bản chất, những đặc
trưng vào một tư tưởng thống nhất về đối tượng.
Ví dụ: để có được định nghĩa “Người” là động vật có lao động, ngôn ngữ và tư
duy, đều phải trải qua ba phương pháp trên.
Như vậy khái niệm không hình thành một cách thông thường, dựa trên các
phương pháp hình thành ở trên, nên có những tính chất sau: Khái niệm không
phản ánh hết các thuộc tính của sự vật, khái niệm chỉ phản ánh thuộc tính bản chất
của sự vật. Mỗi sự vật ngoài thuộc tính bản chất còn có những thuộc tính khác. Ví
dụ: Người da đen, người da vàng, người da trắng. Bởi vậy, khái niệm chỉ phản
ánh những thuộc tính bản chất nhất của sự vật chứ không phải là những đặc trưng khác.
Như vậy: Khái niệm là một hình thức logic của tư duy phản ánh những dấu hiệu
bản chất, khác biệt của các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan.
Với tính cách là sự phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng các khái niệm
luôn luôn vận động, phát triển để phản ánh ngày càng đầy đủ, đúng đắn và chính
xác hơn bản chất của sự vật. Sự vận động và phát triển của khái niệm tùy thuộc lOMoAR cPSD| 59747617
vào sự vận động vào sự vận động và phát triển của các sự vật mà khái niệm phản
ánh và tùy thuộc vào trình độ nhận thức của con người.
Trong thực tế, có những khái niệm chân thực và có những khái niệm giả
dối. Khái niệm chân thực là những khái niệm phản ánh đúng đắn chính xác các
đặc tính bản chất và khác biệt của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: “điện thoại di
động”, “máy tính xách tay”, “viên gạch”. Khái niệm giả dối là những khái niệm
phản ánh sai lệch hoặc xuyên tạc những đặc tính bản chất, khác biệt của sự vật,
hiện tượng. Ví dụ: khái niệm “người cá”, “âm phủ”, “động cơ vĩnh cửu”.
1.2. Hình thức ngôn ngữ thể hiện khái niệm
Khái niệm được diễn đạt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức thể hiện của
khái niệm. Tuy nhiên, hình thức ngôn ngữ thể hiện khái niệm là từ (cụm từ) Không
có từ (cụm từ) không thể có ngôn ngữ, không thể có phương tiện để thể hiện khái
niệm và vì vậy, cũng không thể hình thành và sử dụng khái niệm.
Sự khác nhau giữa từ và khái niệm: Từ là đơn vị cấu thành ngôn ngữ, là sự
thống nhất hữu cơ giữa âm và nghĩa. Còn khái niệm là hình thức logic của tư duy
được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa hai bộ phận nội hàm và ngoại diên. Hai
bộ phận này chỉ được diễn đạt thông qua ngôn ngữ là từ. Song không thể thay thế
nội hàm và ngoại diên của khái niệm bằng âm và nghĩa của từ. Do đó không thể
đồng nhất khái niệm với từ hay cụm từ.
Mối quan hệ giữa khái niệm và từ: Giữa khái niệm và từ có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó thì khái niệm là nội
dung, đóng vai trò quyết định đối với từ. Tính quyết định của khái niệm đối với
từ được thể hiện ở chỗ, nội hàm và ngoại diên của khái niệm phản ánh mặt bản
chất nào của đối tượng thì nó quy định từ phải thể hiện ra bằng một loại từ tương ứng .
Ví dụ: Khi khái niệm đề cập đến hành động, trạng thái của con người hoặc của
sự vật thì từ phải được thể hiện ra bằng động từ. Còn khái niệm phản ánh đặc
trưng màu sắc, hình dáng của đối tượng thì từ tương ứng với nó phải là tính từ. lOMoAR cPSD| 59747617
Mặt khác, khi khái niệm mà biến đổi thì từ cũng phải biến đổi theo. Ngược lại,
mặc dù chịu sự chi phối có tính quyết định của khái niệm, nhưng từ không phải là
yếu tố thụ động, một chiều mà có tác động trở lại đối với khái niệm. Sự tác động
trở lại đó được thể hiện ở chỗ, từ là hình thức, là cái vỏ vật chất bộc lộ nội dung
của khái niệm ra bên ngoài. Sự bộc lộ này có thể đúng đắn hoặc sai lệch so với
bản chất của khái niệm. Điều đó tùy thuộc vào vốn từ và khả năng lựa chọn loại
từ (cụm từ) của chủ thể. Mối quan hệ giữa khái niệm và từ còn thể hiện ở chỗ,
trong quá trình thể hiện khái niệm, mỗi loại ngôn ngữ khác nhau thể hiện khái
niệm một cách khác nhau. Ngay trong một loại ngôn ngữ xác định cũng có những
từ diễn đạt khái niệm không giống nhau. Có từ, cụm từ giống nhau nhưng lại thể
hiện khái niệm khác nhau. Ví dụ: Cùng một từ “mai” có thể chỉ tên một người là
(cô Mai) hoặc tên một loài hoa (hoa mai), có thể là thời gian của ngày hôm sau
(ngày mai) hay chỉ một loại dụng cụ để đào đất (cái mai). Những loại từ này được
gọi là từ đồng âm nhưng khác nghĩa. Ngược lại, có những từ (cụm từ) khác nhau
nhưng lại thể hiện cùng một khái niệm. Ví dụ: Để chỉ hện tượng “chết” người ta
có thể dùng rất nhiều từ (cụm từ) như: “qua đời”, “xuống suối vàng”, “về với tổ
tiên” …Đây là những từ đồng nghĩa, khác âm. Ngay cả từ, (cụm từ) như nhau
nhưng được sắp xếp theo thứ tự khác nhau cũng thể hiện các khái niệm khác nhau.
Ví dụ: “phạm tội” (chỉ hành vi phạm pháp của con người) còn “tội phạm” lại chỉ
người có hành vi phạm pháp). Chính vì sự phức tạp trong sự thể hiện khái niệm
của từ mà trong hoạt động nhận thức hay trong hoạt động nghiên cứu khoa học
phải không ngừng chuẩn hóa các khái niệm và phải lựa chọn được một hệ thống
các thuật ngữ riêng để thể hiện đúng đắn các khái niệm khoa học. Có như vậy mới
nâng cao được khả năng diễn đạt chính xác nội dung các tri thức khoa học và hiệu
quả sử dụng các khái niệm.
1. KẾT CẤU LOGIC CỦA KHÁI NIỆM
Bất kỳ một khái niệm nào cũng gồm hai bộ phận hợp thành là nội hàm và ngoại diên. lOMoAR cPSD| 59747617
2.1. Nội hàm của khái niệm
Nội hàm của khái niệm là tập hợp những dấu hiệu bản chất, khác biệt của
các đối tượng (sự vật, hiện tượng), được phản ánh trong khái niệm. (đây là phần định tính)
Ví dụ: Khái niệm “dân tộc”, thì nội hàm của nó là một cộng đồng người ổn định,
được hình thành trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung các mối
liên hệ về kinh tế, chung một ngôn ngữ, và chung một nền văn hóa.
Như vây, Nội hàm của khái niệm chỉ cho chúng ta biết sự vật, hiện tượng ấy là cái
gì? Nó như thế nào? Nó khác các sự vật, hiện tượng khác ở những đặc tính nào.
2.2. Ngoại diên của khái niệm
Ngoại diên của khái niệm là tập hợp những đối tượng có các dấu hiệu được
phản ánh ở trong nội hàm
Ví dụ: Ngoại diên của khái niệm “dân tộc” bao gồm tất cả các dân tộc trên thế
giới như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Đức, dân tộc Lào…Bởi các
quốc gia dân tộc trên thế gới đều có các dấu hiệu nêu trong nội hàm khái niệm “dân tộc”.
Để diễn tả ngoại diên của khái niệm, người ta dùng diện tích của hình tròn
Đây là là sơ đồ mà Ven là người đầu tiên đề xuất để diễn tả ngoại diên của khái
niệm. Vì vậy mà người ta gọi là sơ đồ Ven Hình 1 Sơ đồ
này được diện tả như hình 1. A
Nội hàm và ngoại diên là hai bộ phận hợp thành khái niệm. Giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó,
nội hàm thể hiện mặt chất còn ngoại diên thể hiện
mặt lượng của khái niệm. Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên là quan hệ
ngược hay còn gọi là quan hệ nghịch biến. Nghĩa là nếu số lượng các dấu hiệu
trong nội hàm mà tăng lên thì số lượng các đối tượng thuộc ngoại diên sẽ giảm đi và ngược lại. lOMoAR cPSD| 59747617
3.CÁC LOẠI KHÁI NIỆM
3.1.Phân chia khái niệm dựa vào nội hàm
Khái niệm cụ thể: là khái niệm phản ánh một đối tượng thực tế hay một lớp đối tượng nào đó.
Ví dụ: Khái niệm “cái quạt”, “lọ nước hoa”, “Trái đất”,…
Khái niệm trừu tượng là khái niệm phản ánh những đặc tính hoặc những quan hệ của các đối tượng.
Ví dụ: Khái niệm “lễ phép”, “bằng nhau”, “lịch sự”,…
Khái niệm khẳng định là khái niệm phản ánh sự tồn tại xác định của đối tượng
hay các thuộc tính, các quan hệ của đối tượng. Ví dụ: “Cái nhà kia”, “có văn hóa”, “có kỷ luật”,….
Khái niệm phủ định là khái niệm phản ánh sự không tồn tại dấu hiệu xác định ở đối tượng.
Ví dụ: “Vô kỷ luật”, “mất trất tự”, …
Khái niệm đơn là khái niệm tồn tại độc lập không có quan hệ tương ứng với khái niệm khác.
Ví dụ: “Cái bút”, “cái điện thoại”, “thỏi son”
Khái niệm kép là khái niệm chỉ tồn tại trong mối quan hệ với một khái niệm khác tương ứng.
Ví dụ: “Cơ sở hạ tầng” và “kiến trúc thượng tầng”, “bên trong” và “bên ngoài”,
“số chắn và số lẻ”,…
3.2. Phân chia khái niệm dựa vào ngoại diên
Căn cứ vào ngoại diên, người ta có thể phân chia thành các khái niệm sau:
Khái niệm đơn nhất là khái niệm mà ngoại diên chỉ có một đối tượng duy nhất.
Ví dụ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Việt nam”, “đỉnh núi Evơret”,… lOMoAR cPSD| 59747617
Khái niệm chung là khái niệm mà ngoại diên của nó có từ hai đối tượng trở lên.
Ví dụ: “học sinh”, “giáo viên”, “trường đại học”,…
Khái niệm tập hợp là khái niệm mà ngoại diên của nó chỉ được xác lập khi hợp
nhất một số đối tượng nào đó lại với nhau.
Ví dụ: “Chi ủy”, “Hội đồng nhà trường”, “Ban chấp hành chi đoàn”
4. QUAN HỆ GIỮA CÁC KHÁI NIỆM
Trong thế giới khách quan mọi sự vật hiện tượng nằm trong mối quan hệ qua lại,
tác động lẫn nhau. Các khái niệm phản ánh các sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan vì vậy cũng thể hiện điều đó thông qua mối quan hệ giữa các khái niệm. 4.1. Quan hệ hợp
Quan hệ hợp là quan hệ giữa các khái niệm có ít nhất một bộ phận ngoại diên trùng nhau.
Quan hệ hợp bao gồm quan hệ đồng nhất, quan hệ bao hàm và quan hệ giao nhau.
Các khái niệm đồng nhất: Là các khái niệm có nội hàm
tương ứng với nhau và có ngoại diên hoàn toàn trùng nhau. A
Ví dụ: Khái niệm “số chẵn” với khái niệm A’
“chia hết cho hai”. Khái niệm “nước” và khái niệm “chất
lỏng không màu, không mùi không vị”.
Quan hệ đồng nhất được mô tả bằng diện tích hai hình Hình 2 tròn
chồng khit lên nhau. (Hình 2) lOMoAR cPSD| 59747617
Các khái niệm bao hàm: Là quan hệ giữa hai khái niệm mà nội hàm của khái
niệm này tạo thành một phần nội hàm của khái niệm kia và toàn bộ ngoại diên của
khái niệm này chỉ là một bộ phận thuộc ngoại diên của khái niệm kia. A A1
Ví dụ: khái niệm “học sinh” và “học sinh giỏi”.
Trong hai khái niệm có quan hệ bao hàm thì khái
Niệm nào có ngoại diên rộng hơn, chứa đựng toàn
Bộ ngoại diện của khái niệm kia gọi là khái niệm bao hàm. Còn khái
niệm có toàn bộ ngoại diên chỉ là một bộ phận Hình 3 thuộc ngoại diên của khái
niệm kia, được gọi là khái niệm bị bao hàm. Quan hệ bao hàm được mô tả bằng
diện tích của hai hình tròn chứa đựng nhau (hình 3). Việc xác định một khái niệm
nào đó bao hàm hoặc bị bao hàm cũng chỉ có tính chất tương đối. Bởi vì, cùng
một khái niệm, nếu xét trong mối quan hệ với khái niệm này là bị bao hàm. Song
xét trong mối quan hệ với khái niệm khác lại là khái niệm bao hàm.
Ví dụ: Khái niệm “học sinh giỏi” nếu xét trong mối quan hệ với khái niệm “học
sinh” thì nó được xác định là bị bao hàm. Nhưng xét trong mối quan hệ với khái
niệm “học sinh giỏi xuất sắc” thì nó lại là khái niệm bao hàm.
Các khái niệm giao nhau: Hai khái niệm giao nhau nếu nội hàm của chúng không
loại trừ nhau và ngoại diên của chúng có một phần trùng nhau
Ví dụ: khái niệm sinh viên và vận động viên.
Quan hệ giao nhau được mô tả bằng diện tích của
hai hình tròn có một bộ phận lồng vào nhau. (Hình 4). Hình 4
4.2. Quan hệ không hợp
Quan hệ không hợp là quan hệ giữa các khái niệm không có một bộ phận ngoại diên nào chung nhau.
Được chia thành các khái niệm tách rời, đối lập và mâu thuẫn. A B lOMoAR cPSD| 59747617
Các khái niệm tách rời: Hai khái niệm gọi là tách rời nếu nội hàm của chúng loại
trừ nhau và ngoại diên của chúng không có phần nào trùng nhau.
Ví dụ: Khái niệm “cái đồng hồ” và “cái bút”. A B
Khái niệm “cái ti vi” và “cây cau”.
Khái niệm tách rời được mô tả bằng hai hình tròn
Tách rời nhau – không có bộ phận nào chung nhau Hình 5 (hình 5).
Các khái niệm đối lập: Hai khái niệm gọi là đối lập nhau, nếu
nội hàm của một khái niệm không những loại trừ các dấu hiệu A
của khái niệm kia, mà còn thay thế chúng bằng các dấu hiệu A1
ngược lại và tổng ngoại diên của hai khái niệm nhỏ hơn ngoại A2
diên của khái niệm giống chung.
Ví dụ: Trong khái niệm “giai cấp” thì khái niệm “giai cấp chủ nô” và khái
“niệm giai cấp nô lệ” là hai khái niệm đối lập nhau. Hình 6 Hai
khái niệm đối lập được mô tả bằng (hình 6).
Các khái niệm mâu thuẫn: Hai khái niệm được gọi là mâu thuẫn thuẫn
nếu nội hàm của chúng phủ định lẫn nhau và không khẳng định dấu A B
hiệu nào khác, còn tổng ngoại diên của chúng bằng ngoại diên của khái niệm giống chung.
Ví dụ: Hai khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” và “khái niệm
Hai khai niệm mâu thuẫn được miêu tả ở (hình 7) Hình 7
Ngoài các quan hệ ở trên, giữa các khái niệm còn quan hệ đồng thuộc, nếu chúng
cùng phụ thuộc vào khái niệm giống chung. Các khái niệm này có chung các dấu
hiệu giống, nhưng có các dấu hiệu loài riêng. Các khái niệm đồng thuộc có thể là
khái niệm hợp hoặc các khái niệm không hợp ví dụ “người lao động trí óc” gồm
có “giáo viên”, “nhà văn”, “kỹ sư” , “nhạc sỹ” … lOMoAR cPSD| 59747617
5. MỞ RỘNG VÀ THU HẸP KHÁI NIỆM
Mở rộng và thu hẹp khái niệm là những thao tác logic dựa trên quan hệ ngược
chiều giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm. Nội hàm càng rộng, càng phong
phú, càng có nhiều dấu hiệu thì ngoại diên càng hẹp và ngược lại.
5.1. Mở rộng khái niệm
Mở rộng khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm có ngoại diên hẹp đến khái
niệm có ngoại diên rộng bằng cách tước bỏ bớt các dấu hiệu thuộc nội hàm của
khái niệm ban đầu.
Ví dụ: ta có khái niệm “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel trong thế kỷ
XXI người Việt Nam”. (A3) A1
Nếu tước bỏ bớt dấu hiệu “người Việt Nam” ta sẽ được A2
khái niệm “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel A3
trong thế kỷ XXI” (A2). So với khái niệm A3 ta thấy số
lượng dấu hiệu trong nội hàm ít hơn nhưng Hình 8
số lượng các đối tượng thuộc ngoại diên lại nhiều hơn.
Tiếp tục bỏ bớt các dấu hiệu về thời gian “Trong thế kỷ XXI” ta được khái niệm
(A1) là “Nhà khoa học xuất sắc được giải thưởng Fiel”
Quá trình mở rộng khái niệm kết thúc khi ta thu được khái niệm có ngoại diên
rộng nhất và nội hàm hẹp nhất.
Quá trình mở rộng khái niệm được diễn tả ở hình 8.
5.2. Thu hẹp khái niệm
Thu hẹp khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm có ngoại diên rộng đến khái
niệm có ngoại diên hẹp bằng cách thêm vào nội hàm của khái niệm ban đầu những lOMoAR cPSD| 59747617
dấu hiệu mới chỉ thuộc về một số đối tượng nằm trong ngoại diên của khái niệm ban đầu ấy .
Ví dụ: Ta có khái niệm “nhà toán học” (A). Nếu ta thêm vào nội hàm của
khái niệm này dấu hiệu “thế kỷ XXI”.
So với khái niệm (A) khái niệm này có các dấu A
hiệu trong nội hàm nhiều hơn song số lượng các A1
đối tượng thuộc ngoại diên lại ít hơn tạo thành A2 khái niệm
“Nhà toán học thế kỷ XXI” (A1). Hình 9
Nếu tiếp tục thêm dấu hiệu “được giải thưởng Fiel” vào nội hàm của khái niệm
A1 ta lại có khái niệm A2 là “Nhà toán học thế kỷ XXI được giải thưởng Fiel”.
Thao tác thu hẹp khái niệm ta chỉ cần thêm các dấu hiệu vào nội hàm của khái
niệm và kết thúc khi ta thu được khái niệm đơn nhất, vì nội hàm của khái niệm
đơn nhất là phong phú nhất và ngoại diên chỉ có một đối tượng duy nhất thao tác
này cần chuyển liên tiếp từ khái niệm giống tới khái niệm loài. Thao tác thu hẹp
khái niệm được mô tả ở hình 9.
Thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm là hai thao tác ngược nhau.
6. ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM
Trong hoạt động thực tiễn của mình con người tất yếu phải giải thích ý
nghĩa của các từ (thuật ngữ), phát hiện nội hàm của các khái niệm, từ đó phân biệt
đối tượng này với đối tượng khác. Nội hàm của các khái niệm không trực tiếp bộc
lộ trong các từ biểu thị khái niệm. Phát hiện nội hàm của khái niệm là các định
các dấu hiệu bản chất hoặc ý nghĩa của từ (thuật ngữ) biểu thị khái niệm. Điều này
sẽ thực hiện được nhờ định nghĩa khái niệm.
Định nghĩa khái niệm là thao tác logic nhờ đó phát hiện nội hàm của khái
niệm hoặc xác lập ý nghĩa của các thuật ngữ. lOMoAR cPSD| 59747617
Ví dụ: Định nghĩa “gia đình là tế bào của xã hội, được tạo thành bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống”.
Định nghĩa khái niệm gồm hai bộ phận hợp thành là khái niệm được định nghĩa
và khái niệm dùng để định nghĩa.
Khái niệm được định nghĩa là khái niệm cần phải xác định các dấu hiệu trong nội
hàm của nó. Khái niệm dùng để định nghĩa là khái niệm được sử dụng để chỉ ra
nội hàm của khái niệm được định nghĩa.
6.1. Các loại định nghĩa khái niệm
Định nghĩa thực tế: là định nghĩa nhờ đó đối tượng được định nghĩa được tách ra
từ các lớp đối tượng giống nhau theo các dấu hiệu khác biệt của nó.
Ví dụ “Hình vuông là hình chữ nhật có các cạnh bằng nhau”
Định nghĩa thực tế thường trả lời cho câu hỏi: Đối tượng được thể hiện bằng thuật ngữ đó là gì?
Định nghĩa duy danh là định nghĩa sử dụng những từ tương đương, đồng nghĩa
để thay thế, lý giải thuât ngữ thể hiện khái niệm.
Ví dụ: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội, được bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành được chính quyền cho đến khi tạo ra được những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Định nghĩa duy danh trả lời cho câu hỏi: thuật ngữ ấy có nghĩa là gì?
Định nghĩa theo nguồn gốc là định nghĩa chỉ ra quá trình hình thành của đối
tượng được đề cập đến trong định nghĩa
Ví dụ: Tam giác là hình học được tạo thành bởi ba đoạn thẳng gấp khúc khép kín”.
Đây là định nghĩa theo nguồn gốc. Bởi vì định nghĩa ấy chỉ ra được quá trình hình
thành của tam giác- đối tượng được đề cập đến trong dịnh nghĩa. lOMoAR cPSD| 59747617
Định nghĩa qua quan hệ đối lập là loại định nghĩa mà trong đó nội hàm của khái
niệm cần phải định nghĩa được chỉ ra thông qua việc thiết lập mối quan hệ với
khái niệm có nội hàm trái ngược với nó.
Ví dụ: Khi định nghĩa về vật chất thì người ta định nghĩa thông qua quan hệ với
phạm trù đối lập đó là phạm trù ý thức.
Cách định nghĩa này thường được sử dụng để định nghĩa các khái niệm có ngoại
diên cực kỳ rộng – các phạm trù. Chẳng hạn các phạm trù triết học thường được
định nghĩa theo cách này như: tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thưc, cái chung và cái riêng…
Định nghĩa mô tả là loại định nghĩa liệt kê một loạt dấu hiệu của đối tượng nhờ
đó có thể hiểu được bả chất của đối tượng đó.
Ví dụ trong tác phẩm Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã mô tả thúy Kiều như sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Định nghĩa mô tả thường được sử dụng trong các khoa học xã hội, đặc biệt là việc
mô tả các sự kiện hoặc nhân vật cụ thể.
Định nghĩa thông qua giống gần gũi và khác biệt về loài là một loại định nghĩa
mà trong đó nội hàm của khái niệm cần phải định nghĩa được chỉ ra nhờ thiết lập
mối quan hệ với khái niệm giống gần gũi cùng với các dấu hiệu khác biệt về loài.
Ví dụ “ Nước là chất lỏng không mau không mùi, không vị” Đây là định nghĩa
thông qua giống gần gũi và khác biệt về loài. Bởi vì, nội hàm của khái niệm
“nước” được chỉ ra nhờ thiết lập mối quan hệ với khái niệm giống gần gũi của nó
là “chất lỏng” và với các dấu hiệu khác biệt về loài là “không màu, không mùi, không vị”. lOMoAR cPSD| 59747617
Thực hiện định nghĩa thông qua giống gần gũi và khác biệt về loài ta phải chỉ ra
được khái niệm giống gần gũi. Chính việc làm đó mói cho ta định nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ.
6.2. Các quy tắc định nghĩa khái niệm Một
là, định nghĩa phải cân đối
Khi định nghĩa một khái niệm nào đó thì ngoại diên của khái niệm được định
nghĩa phải trùng với ngoại diện của khái niệm dùng để định nghĩa . Vi phạm quy
tắc này sẽ dẫn đến lỗi định nghĩa quá rộng hoặc quá hẹp.
Định nghĩa quá rộng là định nghĩa mà trong đó ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa.
Ví dụ: Hình vuông và hình bình hành có một góc vuông là định nghĩa quá rộng vì
ngoại diên của khái niệm được định nghĩa “hình vuông” nhỏ hơn ngoại diên của
khái nieemh dùng để định nghĩa “hình bình hành có một góc vuông” còn bao hàm
cả hình chữ nhật nữa.
Trong trường hợp gặp các loại định nghĩa quá rộng, chúng ta phải sửa chữa định
nghĩa đó bằng cách tăng thêm các dấu hiệu nội hàm hoặc thay khái niệm giống xa
bằng khái niệm giống gần gũi.
Định nghĩa quá hẹp là định nghĩa mà trong đó ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa lớn hơn ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa.
Ví dụ: “Hình chữ nhật là hình thoi có một góc vuông”. Đây là định nghĩa quá hẹp
vì ngoại diên của khái niệm được định nghĩa “hình chữ nhật” lớn hơn ngoại diên
của khái niệm dùng để định nghĩa “hình thoi có một góc vuông”. Vì hình thoi có
một góc vuông chỉ là hình vuông còn hình chữ nhật bao hàm trong đó cả hình
vuông và hình bình hành có một góc vuông và có hai cạnh kề không bằng nhau.
Gặp các định nghĩa quá hẹp, chúng ta phải sửa chữa các định nghĩa đó, bằng cách
thay các khái niệm loài gần gũi bằng khái niệm giống gần gũi của khái niệm được
định nghĩa hoặc tăng thêm ngoại diên vào khái niệm dùng để định nghĩa. lOMoAR cPSD| 59747617
Hai là, định nghĩa phải rõ ràng, chính xác và ngắn gọn
Định nghĩa rõ ràng là định nghĩa không sử dụng những từ mập mờ, hiểu nhiều
nghĩa khác nhau mà chỉ sử dụng những từ ngữ hiểu theo một nghĩa xác định, để
người nhận thức định nghĩa hiểu đúng nghĩa đã xác định của từ ngữ ấy.
Định nghĩa chính xác là định nghĩa mà trong đó các dấu hiệu thuộc nội hàm của
khái nieemh phải đúng các đặc điểm, thuộc tính bản chất của đối tượng được đề
cập đến trong định nghĩa chứ không phải là các đặc điểm, thuộc tính của các đối tượng khác.
Định nghĩa ngắn gọn là định nghĩa không có các từ thừa hoặc các từ lặp lại. Muốn
vây, khi định nghĩa cần phải lựa chọn các từ khái quát, cắt bỏ những từ thừa không
cần thiết để có được định nghĩa với số lượng từ ít nhất, liên kết với nhau chặt chẽ
nhất mà lại chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu trong nội hàm của khái niệm cần phải định nghĩa.
Ba là, định nghĩa không được ví von, vòng quanh luẩn quẩn
Mục tiêu cơ bản của định nghĩa khái niệm là chỉ ra nội hàm của khái niệm, trong
khi việc ví von một đối tượng này với một đối tượng khác không giúp cho việc
chỉ ra nội hàm của khái niệm cần phải định nghĩa.
Ví dụ: “ Chủ nghĩa xã hội là mùa xuân của nhân loại” là định nghĩa ví von, không
chỉ ra được nội hàm của khái niệm “chủ nghĩa xã hội”.
Định nghĩa vòng quanh luẩn quẩn là sự lặp lại thuật ngữ của khái niệm cần phải
định nghĩa trong khái niệm dùng để định nghĩa.
Ví dụ: Đồng hồ là vật dụng để đo thời gian và thời gian là phải dùng đồng hồ để do. lOMoAR cPSD| 59747617
Bốn là, định nghĩa không được phủ định mà phải là định nghĩa khẳng định
Mục tiêu của định nghĩa khái niệm là chỉ ra nội hàm của khái niệm. Trong khi đó
việc phủ định một khái niệm đối lập chỉ ra cái mà đối tượng không có, chưa chỉ
ra được các dấu hiệu bản chất của khái niệm cần định nghĩa,
Ví dụ: “Đẹp không phải là xấu”, “thực từ không phải là hư từ”.
Để định nghĩa định nghĩa đúng đắn một khái niệm khoa học nào đó, đòi hỏi phải
tuân theo các quy tắc trên. Nếu vi phạm một trong những quy tắc đó sẽ dẫn đến
định nghĩa không chính xác.
6.3. Ý nghĩa của việc định nghĩa khái niệm
Định nghĩa khái niệm có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Nó giúp cho con người nắm bắt được cái bản chất của đối tượng
dưới dạng khái quát nhất, tức là nắm được cái linh hồn của khái niệm. Bởi vì, mỗi
sự vật hiện tượng đều có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính khác nhau. Nếu
không phân biệt và tách được cái bản chất nhất, bên trong, tất yếu ra khỏi cái
không bản chất, bề ngoài, ngẫu nhiên của sự vật, hiện tượng, sẽ làm cho nhận thức
trở nên phức tạp, khó khăn. Từ định nghĩa khiến cho người ta có thể hiểu được sự
vật hiện tượng đó là cái gì, nắm bắt được cái bản chất nhất của đối tượng dưới
dạng khái quát nhất. Định nghĩa khái niệm mang lại sự tiện lợi và cần thiết cho
con người. Nó rất ngắn gon, dễ hiểu, dễ nhớ. Không quan tâm đến định nghĩa của
khái niệm sẽ vi phạm đến tính cân đối logic, tính rõ ràng, chính xác và ngắn gọn,
trong khi trình bày sẽ làm cho nhận thức của con người bị lộn xộn, mập mờ gây
khó khăn cho việc lĩnh hội tri thức.
7. PHÂN CHIA KHÁI NIỆM
7.1. Bản chất và các loại phân chia khái niệm
Khi nghiên cứu khái niệm nào đó, chúng ta không chỉ vạch ra nội hàm mà
còn phát hiện ngoại diên của chúng. lOMoAR cPSD| 59747617
Thao tác logic vạch ra ngoại diên của khái niệm gọi là phân chia khái niệm. Nói
cách khác, phân chia khái niệm là thao tác logic chỉ ra ngoại diên của một khái
niệm nào đó có bao nhiêu đối tượng hợp thành Khi phân chia khái niệm chúng ta
liệt kê các khái niệm loài của khái niệm giống. Khái niệm giống bị phân chia gọi
là khái niệm bị phân chia. Các khái niệm loài được liệt kê gọi là khái niệm phân
chia hay các thành phần phân chia. Dấu hiệu dùng để phân chia gọi là cơ sở phân chia.
Có hai loại phân chia
Phân chia theo sự biến đổi dấu hiệu. (Phân loại khái niệm) Đó là sự phân chia
khái niệm giống thành các loài sao cho mỗi loài vẫn giữ được dấu hiệu nào đó của
giống, nhưng dấu hiệu đó lại có chất lượng mới trong các loài.
Cơ sở phân chia có thể là dấu hiệu bản chất, bên trong hoặc dấu hiệu không bản chất, bên ngoài.
Ví dụ: Khi dựa vài trình độ nhận thức, trình độ học lực của học sinh người ta chia
khái niệm “học sinh” ra thành: “học sinh giỏi”, “học sinh khá”, “học sinh trung
bình”, “học sinh yếu”, “học sinh kém”. Trong quá trình phân loại đó mỗi một
thành phần phân chia đóng vai trò là các khái niệm loài so với khái niệm giống là “học sinh”
Không được lẫn lộn thao tác phân chia với chia nhỏ đối tượng, với chia cái toàn
thể thành cái bộ phận. Khi phân chia khái niệm thì cái niệm bị phân chia và các
tành phần phân chia nằm trong quan hệ giống – loài.
Phân chia khái niệm là rất cần thiết trong hoạt động thực tiễn nhưng không phải
mọi sự phân chia đều có giá trị khoa học và thực tiễn. Chính vì vậy, khi lựa chọn
cơ sở phân chia cần hướng vào mục đích khoa học và giá trị thực tiễn. Phân đôi khái niệm
Thao tác logic phân chia khái niệm bị phân chia thành hai khái niệm mâu thuẫn
với nhau gọi là phân đôi khái niệm. lOMoAR cPSD| 59747617
Ví dụ: Phân đôi khái niệm “từ” ta được hai khái niệm mâu thuẫn nhau là “thực
từ” và “hư từ” (không phải thực từ). Hoặc chia khái niệm “người” thành “người
da trắng” và “người da không trắng”.
Phân đôi khái niệm luôn luôn là cân đối và được tiến hành theo một cơ sở nhất
định. Nhưng nó chỉ giúp hiểu khái niệm khẳng định và sau khi thực hiện một số
bước có thể trở lại khái niệm ban đầu. Phân đôi khái niệm cho phép chúng ta rút
ra được đối tượng khảo sát từ trong tập hợp các đối tượng khác nhau một cách
nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn nhất.
7.2. Các quy tắc phân chia khái niệm
Phân chia phải cân đối. Khi phân chia khái niệm thì ngoại diên của khái
niệm bị phân chia phải bằng tổng ngoại diên của các thành phần phân chia.
Vi dụ: Ta chia khái niệm “chiến tranh” thành “chiến tranh chính nghĩa” và “chiến
tranh phi nghĩa” ngoại diện của khái niệm “chiến tranh” bằng tổng ngoại diên của
hai khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” và “chiến tranh phi nghĩa”.
Khi vi phạm quy tắc này sẽ dẫn đến sai lầm (lỗi logic) là phân chia thừa thành
phần hoặc phân chia thiếu thành phần. Phân chia thừa thành phần là khi phân chia
ngoại diên của khái niệm bi phân chia nhỏ hơn tổng ngoại diên của các thành phần
phân chia. Phân chia thiếu thành phần là ngoại diên của khái niệm bị phân chia
lớn hơn tổng ngoại diên của các thành phần phân chia.
Phân chia phải theo một cơ sở nhất định và giữa nguyên trong quá
trình phân chia. Trong quá trình phân chia, có thể theo nhiều cách khác nhau
tùy theo dấu hiệu lựa chọn. Nhưng trong một cách phân chia chỉ được căn cứ
dấu hiệu xác định nào đó và phải giữa nguyên dấu hiệu ấy trong suốt quá trình phân chia.
Các thành phần phân chia phải loại trừ nhau, có nghĩa là chúng nằm trong quan hệ không hợp. lOMoAR cPSD| 59747617
Ví dụ Từ khái niệm nhà nước chia ra thành nhà ước chủ nô, nhà nước phong kiến,
nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa đây là sự phân chia đúng đắn. Vì
bốn thành phần phân chia là những khái niệm có ngoại diên loại trừ nhau.
Phân chia phải liên tục. Nghĩa là phân chia phải được thực hiện từ khái
niệm giống đến khái niệm loài gần gũi rồi mới đến khái niệm loài xã hơn.
Ý nghĩa của việc phân chia khái niệm
Phân chia khái niệm có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn. Điều đó được thể hiện trước hết ở chỗ, thông qua phân chia
khái niệm, người ta nắm bắt được các sự vật hiện tượng một cách có hệ thống, tạo
ra tính trình tự trong quá trình lập luận, không lẫn lộn đối tượng này với các đối
tượng khác hoặc không bỏ sót các đối tượng trong quá trình lập luận, tạo ra sự bao
quát tất cả lớp đối tượng trong một hệ thống hoàn chỉnh của chúng. Việc phân
chia khái niệm còn tạo điều kiện quan trọng cho sự phát triển tri thức phát triển tư
duy logic. Bởi vì, qua sự phân chia ta có thể phát hiện ra quy luật của sự hình
thành và phát triển của các sự vật, hiện tượng. Dó là cơ sở quan trọng để hình
thành tính có hệ thống trong tư duy logic.
Nhờ có phân chia khái niệm mà hoạt động thực tiễn của con người có được những
lý luận cơ bản, hiệu quả trong việc quản lý xã hội, quản lý khoa học.. Giúp cho sự
sắp xếp, bố trí các tổ chức xã hội, các cơ sở nghiên cứu, quản lý khoa hoc. Trở
nên hợp lý, nhằm nâng cao hiệu quả công việc.