



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
BÀI 3. QUY PHẠM PHÁP LUẬT, QUAN HỆ PHÁP
LUẬT, MỘT SỐ NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Nội dung: I- Quy phạm pháp luật II- Quan hệ pháp luật III-
Một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
Mục tiêu của bài học -
Giúp người học hiểu được khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật; phân
biệt được sự khác nhau giữa quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội khác; phân biệt được
các bộ phận của quy phạm pháp luật cũng như cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong
các văn bản quy phạm pháp luật. -
Nội dung của chương cũng hướng đến việc giúp người học hiểu được khái niệm,
đặc điểm của quan hệ pháp luật; các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật và các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. -
Giúp người học hiểu được khái quát đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều
chỉnh và các chế định cơ bản của một số ngành luật (lĩnh vực pháp luật) trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Pháp luật đại cương – Bài 3 1 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
I. QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm quy phạm pháp luật
1.1. Định nghĩa quy phạm pháp luật
Con người sống trong một cộng đồng xã hội nhất định, vì vậy nhu cầu cần có các quy
tắc xử sự để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội hướng đến việc bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân trong xã hội. Khi chưa có Nhà nước, các quy
phạm xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Khi Nhà
nước ra đời, Nhà nước phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật để quản lý xã hội. Quy
phạm pháp luật chính là quy tắc xử sự định hướng cho nhận thức và hướng dẫn cách xử sự
hay các hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội theo hướng nhằm đảm bảo một trật tự xã
hội nhất định. Do đó: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung hay chuẩn mực chung do
Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
mục đích của Nhà nước.
1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật
* Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội nên nó có tất cả các đặc điểm của
quy phạm xã hội. Đó là: -
Quy phạm pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực để định hướng và hướng dẫn
cách xử sự cho mọi người trong xã hội. Bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã được dự
liệu trong quy phạm pháp luật đều phải xử sự theo những cách thức đã được nêu ra. Quy phạm
pháp luật là quy tắc được đặt ra không phải cho một cá nhân hay một tổ chức cụ thể đã được
xác định mà là quy tắc chung cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ xã hội do nó điều chỉnh.
Ví dụ, khoản 1 Điều 132 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội không cứu giúp
người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng như sau: “Người nào thấy người khác
Pháp luật đại cương – Bài 3 2 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn
đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”. Theo quy định này, bất kỳ người nào thấy người khác
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều kiện cứu giúp thì đều phải thực hiện
hành vi cứu giúp. Chẳng hạn một người đang đi đường nhìn thấy một người sắp chết đuối bên
hồ thì phải tìm cách cứu giúp, nếu bơi giỏi thì có thể tự cứu, nếu bơi yếu hoặc không biết bơi
thì phải đi gọi người tới cứu; hoặc một người đang điều khiển xe mô tô, xe ô tô đi qua nơi vừa
xảy ra tai nạn, thấy người bị thương nguy hiểm đến tính mạng thì phải đưa người bị thương
đến bệnh viện gần nhất để cấp cứu. Với những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
có điều kiện cứu giúp mà không thực hiện hành vi cứu giúp để cho người gặp nạn bị chết thì
đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. -
Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của
con người. Căn cứ vào quy phạm pháp luật có thể xác định được hành vi nào là hợp pháp,
hành vi nào là trái pháp luật, hoạt động nào mang tính pháp lý và hoạt động nào không mang tính pháp lý.
Ví dụ, cùng là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác, nhưng nếu là hành vi của
cán bộ chuyên môn do cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp
quân khu chỉ định để thực hiện việc thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc theo lệnh của
Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình thì đó là hành vi hợp pháp. Nhưng nếu là hành vi của
một người vì muốn tước đoạt tính mạng của người khác mà tiêm thuốc độc làm người đó chết
thì hành vi đó là hành vi bất hợp pháp (hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người). -
Quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống cho đến
khi nó bị sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ. Vì quy phạm pháp luật là những quy tắc, khuôn mẫu
chung định hướng và hướng dẫn cho xử sự, hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội
Pháp luật đại cương – Bài 3 3 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
nên nó được thực hiện nhiều lần. Tuy nhiên, do xã hội luôn vận động và phát triển nên một số
quy phạm pháp luật dần dần không còn phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội, vì thế,
các quy định đó sẽ bị sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ. Khi một quy phạm pháp luật bị sửa đổi,
bị thay thế hoặc bãi bỏ thì nó sẽ hết hiệu lực pháp lý và các cá nhân, tổ chức trong xã hội
không cần phải thực hiện nữa.
Ngoài các đặc điểm chung nói trên, quy phạm pháp luật còn có một số đặc điểm riêng như sau: *
Quy phạm pháp luật luôn thể hiện ý chí của Nhà nước.
Khác với các loại quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật chỉ được hình thành bằng
con đường Nhà nước (Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật), do vậy,
quy phạm pháp luật luôn thể hiện ý chí của Nhà nước. *
Nội dung của quy phạm pháp luật thường thể hiện hai mặt: cho phép và
bắt buộc, tức là nó quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào
quan hệ xã hội do nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật được ban hành là để điều chỉnh
quan hệ xã hội, làm cho quan hệ đó phát triển theo chiều hướng Nhà nước mong
muốn. Vì thế, quy phạm pháp luật thường xác định cách xử sự hay quyền và nghĩa vụ
pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ, khoản 5 Điều 4
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Người tham gia giao thông phải có ý
thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình
và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông
đường bộ”. Quy định này đã xác định cụ thể nghĩa vụ pháp lý cho người tham gia
giao thông, chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện, đồng thời xác định
Pháp luật đại cương – Bài 3 4 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
quyền của Nhà nước được yêu cầu các chủ thể trên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đó.
1.3. Phân loại quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu
chí phân loại khác nhau. Cụ thể: -
Nếu căn cứ vào nội dung và vai trò của quy phạm pháp luật thì có thể chia quy
phạm pháp luật thành: quy phạm điều chỉnh, quy phạm bảo vệ, quy phạm định nghĩa, quy phạm xung đột. -
Nếu căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật thì có thể
chia quy phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các ngành luật, ví dụ: quy phạm pháp
luật hiến pháp, quy phạm pháp luật dân sự… -
Nếu căn cứ vào nội dung phần quy định của quy phạm pháp luật thì có thể chia
chúng thành các loại quy phạm dứt khoát, quy phạm tùy nghi và quy phạm hướng dẫn. -
Nếu căn cứ vào yêu cầu của Nhà nước đối với các chủ thể được nêu trong phần
quy định của quy phạm pháp luật thì có thể chia chúng thành các loại quy phạm cho phép,
quy phạm bắt buộc và quy phạm cấm đoán. 2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật
Nói đến cơ cấu của quy phạm pháp luật là nói đến các bộ phận hợp thành quy phạm
pháp luật. Theo quan điểm truyền thống trong khoa học pháp lý Việt Nam thì quy phạm pháp
luật thông thường gồm ba bộ phận cấu thành là: giả định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, trong
thực tế thì cơ cấu của các quy phạm pháp luật phụ thuộc vào từng loại quy phạm. Phần sau
đây sẽ đề cập đến cơ cấu của một số loại quy phạm pháp luật.
2.1. Cơ cấu của quy phạm pháp luật điều chỉnh
Pháp luật đại cương – Bài 3 5 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Quy phạm pháp luật điều chỉnh là loại quy phạm pháp luật nêu ra quy tắc xử sự để
hướng dẫn xử sự cho mọi người khi tham gia những quan hệ xã hội nhất định.
Cơ cấu của loại quy phạm pháp luật này có thể có ba bộ phận cấu thành là giả định,
quy định và biện pháp tác động của Nhà nước (hoặc các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật). a. Giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra những chủ thể nhất định, ở trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định nào đó thì phải xử sự theo quy định của pháp luật hoặc
nêu ra những điều kiện, hoàn cảnh để áp dụng các biện pháp tác động của Nhà nước. Phần giả
định cũng chỉ rõ chủ thể nào cần phải xử sự trong điều kiện, hoàn cảnh đó hoặc chủ thể nào
sẽ là đối tượng để áp dụng các biện pháp tác động của Nhà nước. Vì vậy, phần giả định của
quy phạm pháp luật thường trả lời cho các câu hỏi: Ai? Khi nào? Trong điều kiện, hoàn cảnh nào?
Ví dụ 1: khoản 1 Điều 63 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định:
“Người học chương trình giáo dục đại học nếu được hưởng học bổng và chi phí đào
tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà nước Việt
Nam, thì sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc của Nhà nước trong thời
gian ít nhất là gấp đôi thời gian được hưởng học bổng và chi phí đào tạo, nếu không chấp
hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo”.
Trong quy phạm pháp luật trên, bộ phận giả định là: “Người học chương trình giáo dục
đại học nếu được hưởng học bổng và chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài
Pháp luật đại cương – Bài 3 6 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà nước Việt Nam, thì sau khi tốt nghiệp” và “nếu không chấp hành”.
Ví dụ 2: Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập
hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”. Giả định của quy phạm này chỉ gồm hai
từ “vợ, chồng”.
Giả định của quy phạm pháp luật có thể là đơn giản, tức là chỉ nêu lên một điều kiện,
hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế (ví dụ 1), song cũng có thể là phức tạp, tức là nêu lên
nhiều điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống và chỉ khi xảy ra tất cả các điều kiện,
hoàn cảnh đó thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được đề cập đến mới chịu sự tác động của quy phạm1.
Ví dụ 3: Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào cho thuê, cho mượn
địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm” . Trong quy phạm trên, giả định là giả định phức tạp bởi vì nó nêu lên hai điều kiện,
hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống, một là “Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm
hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” và hai là,
“không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này”. Tùy theo đặc thù của các
lĩnh vực pháp luật mà các quy phạm pháp luật thường có nhiều giả định đơn giản hoặc phức tạp hơn. b. Quy định
1 Xem: Nội dung cơ bản của môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, sđd, tr. 247.
Pháp luật đại cương – Bài 3 7 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách xử sự hay quy tắc xử sự cho
chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm. Đây là phần
trực tiếp thể hiện ý chí, mong muốn của Nhà nước, là mệnh lệnh của Nhà nước đối với các
chủ thể, nó chỉ rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do
nó điều chỉnh. Vì vậy, phần quy định thường có nội dung trả lời cho các câu hỏi:
Được làm gì? Không được làm gì? Phải làm gì và làm như thế nào?
Trong quy phạm pháp luật ở ví dụ 1 nêu trên thì đoạn “phải chấp hành sự điều động
làm việc của Nhà nước trong thời gian ít nhất là gấp đôi thời gian được hưởng học bổng và
chi phí đào tạo” là phần quy định của quy phạm; còn trong quy phạm thuộc ví dụ 2 thì đoạn
“có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài
sản riêng vào tài sản chung” là phần quy định của quy phạm.
Quy định của quy phạm có thể là dứt khoát, tức là chỉ nêu lên một cách xử sự rõ ràng,
dứt khoát cho chủ thể (ví dụ 1), song cũng có thể là tùy nghi, tức là nêu lên nhiều cách xử sự
rồi cho phép chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp (ví dụ 2).
c. Biện pháp tác động của Nhà nước (biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật)
Biện pháp tác động của Nhà nước là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên các biện
pháp tác động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả
định của quy phạm khi họ có thành tích trong học tập, công tác, lao động, phục vụ, trong khi
thi hành nhiệm vụ, công vụ hoặc trong việc thực hiện pháp luật (tức là các hình thức khen
thưởng); hoặc khi họ vi phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
Pháp luật đại cương – Bài 3 8 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
đầy đủ những nghĩa vụ pháp lý được nêu trong phần quy định của quy phạm (tức là các biện
pháp trừng phạt hay chế tài).
Ở quy phạm trong ví dụ 1, cụm từ “thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo” là biện
pháp tác động của Nhà nước mà cụ thể đây là biện pháp trừng phạt hay chế tài.
Các hình thức thưởng hay phạt do Nhà nước quy định được gọi là các biện pháp nhằm
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác, bởi vì Nhà nước quy
định các hình thức khen thưởng nhằm động viên, khuyến khích các chủ thể tự giác, nhiệt tình
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật liên quan tới hoạt động của mình, phấn
đấu đạt được thành tích cao trong hoạt động đó. Đồng thời, Nhà nước cũng quy định các biện
pháp cưỡng chế Nhà nước để trừng phạt những chủ thể vi phạm pháp luật, không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình nhằm giáo dục, răn
đe, phòng ngừa sự vi phạm pháp luật xảy ra trong thực tế, qua đó góp phần làm cho pháp luật
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn.
Các biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với các chủ thể có thể là
cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp tác động (giống như phần chế tài được quy định
trong ví dụ 1), song cũng có thể là không cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp tác động rồi
cho phép chủ thể có thẩm quyền áp dụng được lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp
đó. Ví dụ 4: khoản 1 Điều 16 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ
về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn quy định: “Cán bộ, công chức cấp xã có thành tích
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì được xét khen thưởng theo các hình thức sau: - Giấy khen; - Bằng khen;
- Danh hiệu vinh dự Nhà nước;
Pháp luật đại cương – Bài 3 9 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người - Huy chương;
- Huân chương”.”
Quy phạm được trình bày trong ví dụ trên đã đưa ra năm hình thức khen thưởng là:
Giấy khen, Bằng khen, Danh hiệu vinh dự Nhà nước, Huy chương và Huân chương để các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào thành tích cụ thể của cán bộ, công chức mà lựa
chọn và áp dụng một hình thức khen thưởng phù hợp.
Mỗi loại biện pháp tác động có những vai trò, tác dụng khác nhau trong việc quản lý,
điều hành xã hội. Nhà nước sử dụng kết hợp cả hai loại biện pháp này để khích lệ, động viên
mọi người phấn đấu đạt thành tích cũng như để cảnh báo, răn đe mọi người không vi phạm
pháp luật, qua đó giúp cho mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật nhằm đảm bảo trật
tự xã hội và lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.
2.2. Cơ cấu của quy phạm bảo vệ
Quy phạm bảo vệ là loại quy phạm không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội mà
có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ đó khỏi hành vi vi phạm pháp luật. Vì thế, cơ cấu của loại
quy phạm này chỉ gồm hai bộ phận là giả định và chế tài. Ví dụ, Điều 183 Bộ luật Hình sự
năm 2015 quy định: “Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến
tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”.
Trong quy phạm này, đoạn viết: “Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người
chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”
thuộc phần giả định, phần còn lại của quy phạm là phần chế tài. Chế tài của quy phạm pháp
luật bao gồm nhiều loại như chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật.
2.3. Cơ cấu của quy phạm xung đột
Pháp luật đại cương – Bài 3 10 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật đặc biệt, không trực tiếp quy định quyền
và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể hoặc các biện pháp tác động của Nhà nước đối với các
chủ thể mà chỉ nêu lên văn bản quy phạm pháp luật nào hoặc pháp luật của nước nào sẽ được
lựa chọn để áp dụng. Cơ cấu của loại quy phạm này chỉ gồm hai bộ phận là phạm vi và hệ
thuộc. Phạm vi là bộ phận nêu lên quan hệ xã hội nào sẽ được điều chỉnh bởi quy phạm đó,
còn hệ thuộc là bộ phận nêu lên văn bản quy phạm pháp luật nào hoặc pháp luật của nước nào
sẽ được lựa chọn để áp dụng.
Ví dụ 4: Khoản 1 Điều 126 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân
theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn.”.
Trong quy phạm này, phần phạm vi là “việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài” và “việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam”. Phần còn lại của quy phạm là phần hệ thuộc, vì phần này chỉ rõ pháp luật của nước
được lựa chọn áp dụng để giải quyết việc kết hôn.
Ví dụ 5: Khoản 1 Điều 24 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Cu Ba quy
định: “Nếu vợ, chồng cùng là công dân của nước ký kết này và cùng cư trú trên lãnh thổ của
nước ký kết kia thì các vấn đề về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa họ được xác định
theo pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân”. Trong quy phạm này, đoạn: “Nếu vợ,
chồng cùng là công dân của nước ký kết này và cùng cư trú trên lãnh thổ của nước ký kết kia
thì các vấn đề về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa họ” thuộc phần phạm vi; phần
còn lại là phần hệ thuộc.
Pháp luật đại cương – Bài 3 11 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
3. Cách trình bày quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật
Trong quá trình xây dựng pháp luật, do kỹ thuật xây dựng pháp luật yêu cầu các quy
phạm pháp luật phải được trình bày một cách ngắn gọn, chặt chẽ, không trùng lặp, chồng chéo
nên trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm có thể được trình bày theo nhiều cách khác nhau như sau:
Thứ nhất, các bộ phận của một quy phạm có thể được trình bày trong cùng một điều,
khoản của một văn bản quy phạm pháp luật (như ví dụ 1).
Thứ hai, trong một điều của một văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày một hoặc
nhiều quy phạm pháp luật.
Ví dụ, Điều 63 Luật Giáo dục đại học năm 2012 là trường hợp trong một điều của một
văn bản quy phạm pháp luật trình bày nhiều quy phạm pháp luật, vì riêng khoản 1 của Điều
này là một quy phạm, các khoản khác là các quy phạm khác. Nhưng trong Điều 34 Luật Giao
dịch điện tử năm 2005 thì chỉ trình bày một quy phạm pháp luật, nội dung của Điều này như
sau: “Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể
hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.”.
Thứ ba, các bộ phận của một quy phạm pháp luật có thể được trình bày trong các điều
khoản khác nhau của cùng một văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ 6: Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về miễn hình phạt như sau:
“Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến
mức được miễn trách nhiệm hình sự.”.
Thứ tư, các bộ phận chứa đựng nội dung của một quy phạm pháp luật có thể được trình
bày trong các điều khoản khác nhau của các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Pháp luật đại cương – Bài 3 12 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Ví dụ 7: Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định cấm hành vi: “Người
đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa
có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng
mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có
vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ
đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”.
Nếu ghép nội dung hai điều này với nhau có thể tạo nên một quy phạm pháp luật bao
gồm ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định và chế tài, trong đó quy định được trình bày
ở Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, còn giả định và chế tài thì được trình bày
trong Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là cách trình bày khá phổ biến hiện nay.
Thứ năm, trật tự của các bộ phận trong quy phạm pháp luật không nhất thiết phải trình
bày theo đúng thứ tự giả định, quy định và biện pháp tác động của Nhà nước mà các bộ phận
đó có thể được trình bày theo cách đảo lộn hoặc đan xen nhau (xem ví dụ 1).
II. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm quan hệ pháp luật
1.1. Định nghĩa quan hệ pháp luật
Trong cuộc sống, để thỏa mãn nhu cầu của mình, con người phải thiết lập nhiều mối
quan hệ xã hội với nhau như quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa hàng xóm, láng giềng với nhau,
Pháp luật đại cương – Bài 3 13 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
quan hệ giữa bạn bè, đồng nghiệp… Trong các mối quan hệ này, Nhà nước sẽ xác định những
mối quan hệ cần phải điều chỉnh bằng pháp luật để ban hành pháp luật điều chỉnh các quan hệ
đó. Vì thế, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh trong đó các bên
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được Nhà nước quy
định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Ví dụ, quan hệ giữa cha mẹ và con là một quan
hệ pháp luật bởi vì nó được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và Gia đình, trong đó quy định rõ
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con.
1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật -
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí bởi vì nó được hình thành và được điều
chỉnh theo ý chí của con người.
Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở những điểm sau: -
Thứ nhất, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước thông qua việc xác định các
quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, qua việc quy định điều kiện tham gia quan hệ
cũng như quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội
đó. Ví dụ, Nhà nước ta thấy cần điều chỉnh quan hệ giữa sinh viên với nhà trường trong đào
tạo nên đã ban hành Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học để điều chỉnh quan hệ đó, song
mối quan hệ giữa đoàn viên với tổ chức đoàn không được điều chỉnh bằng pháp luật mà bằng
điều lệ của tổ chức Đoàn. -
Thứ hai, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của các chủ thể cụ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật, trong đó ý chí của các chủ thể khác phải phù hợp, không được trái với ý chí của
Nhà nước. Ví dụ, quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên với một trường đại học cụ thể ở
nước ta được thiết lập với sự tác động của ý chí Nhà nước (thông qua việc cho phép cơ sở đó
được tổ chức tuyển sinh và đào tạo), cơ sở đào tạo và sinh viên đó. Trong đó, ý chí của Nhà
nước giữ vai trò quyết định: nếu Nhà nước không cho phép trường đại học đó tuyển sinh và
Pháp luật đại cương – Bài 3 14 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
đào tạo hoặc sinh viên không đủ điểm chuẩn theo quy định của Nhà nước thì quan hệ đó không được thiết lập.
Thậm chí, có những quan hệ pháp luật hình thành hoàn toàn chỉ do ý chí của Nhà nước.
Ví dụ, những người vi phạm Luật Giao thông không bao giờ muốn bị xử phạt nhưng Nhà nước
bắt buộc họ phải tham gia vào quan hệ đó. -
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể
do Nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật, ví dụ quan hệ mua bán trong luật dân sự, các chủ thể, tức là người mua và người
bán, đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Trong quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh
viên và nhà trường thì Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học cũng quy định rõ quyền và
nghĩa vụ của cả hai bên chủ thể là nhà trường và sinh viên.
2. Cấu thành của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật gồm 3 yếu tố cấu thành là chủ thể, nội dung và khách thể. 2.1.
Chủ thể của quan hệ pháp luật a. Định nghĩa
Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức, song không phải là cá nhân và
tổ chức bất kỳ mà chỉ những cá nhân, tổ chức có đủ những điều kiện nhất định theo quy định
của pháp luật thì mới có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật. Vì thế, có thể hiểu: Chủ
thể của quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và
tham gia vào quan hệ pháp luật.
b. Điều kiện để cá nhân, tổ chức trở thành chủ thể độc lập và chủ động của quan hệ pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 3 15 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Chủ thể độc lập và chủ động của quan hệ pháp luật là những cá nhân hoặc tổ chức có
thể tự mình thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật một cách
độc lập và chủ động, muốn vậy thì họ phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể bao gồm:
năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật. -
Năng lực pháp luật: Là khả năng mà pháp luật quy định cho cá nhân hay tổ chức có
các quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý khi tham gia quan hệ pháp luật. Khi đó, cá nhân hay tổ chức
sẽ có các quyền hoặc phải chịu các nghĩa vụ pháp lý nhất định trong các quan hệ pháp luật cụ
thể. Ví dụ, Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học
tập”; như vậy, một đứa trẻ ra đời, được cấp Giấy khai sinh là đã có quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ học tập, trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước… vì nó đã được công nhận là công dân.
Thời điểm phát sinh và chấm dứt năng lực pháp luật của chủ thể được pháp luật quy
định khác nhau tùy theo từng loại chủ thể (cá nhân khác với tổ chức) và tùy thuộc vào từng
quan hệ pháp luật cụ thể. Đối với chủ thể là cá nhân thì trong nhiều quan hệ pháp luật, năng
lực pháp luật của cá nhân phát sinh từ khi họ sinh ra và chấm dứt khi họ chết (ví dụ, một đứa
trẻ mới ra đời đã trở thành chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế, quan hệ pháp luật quốc
tịch…). Tuy nhiên, có một số quan hệ pháp luật mà năng lực pháp luật của cá nhân chỉ phát
sinh khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định. Ví dụ, năng lực pháp luật lao động của công
dân có thể phát sinh từ khi người ta sinh ra vì Hiến pháp quy định “Công dân có quyền làm
việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” (Điều 34), song năng lực tham gia vào
một quan hệ pháp luật lao động cụ thể chỉ phát sinh khi công dân từ đủ 15 tuổi trở lên. Hoặc
năng lực pháp luật của công dân trong quan hệ kết hôn chỉ phát sinh từ khi họ đủ 18 tuổi trở
lên nếu là nữ và đủ 20 tuổi trở lên nếu là nam. Đối với chủ thể là tổ chức thì năng lực pháp
luật của nó phát sinh khi tổ chức được thành lập hoặc được công nhận hợp pháp và chấm dứt
khi tổ chức bị giải thể hoặc bị chia tách, sáp nhập, hợp nhất.
Pháp luật đại cương – Bài 3 16 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Một tổ chức hoặc cá nhân chỉ cần có năng lực pháp luật là đã có thể trở thành chủ thể
của quan hệ pháp luật. Ví dụ, đứa trẻ mới ra đời đã trở thành chủ thể trong quan hệ giữa cha
mẹ và con; nếu được cấp Giấy khai sinh là nó đã trở thành chủ thể trong quan hệ giữa công
dân và Nhà nước… vì nó được Nhà nước thừa nhận là có quyền và nghĩa vụ pháp lý, tức là
đã có năng lực pháp luật trong các quan hệ này. Tuy nhiên, đứa trẻ đó không thể tự mình thực
hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ của một người con hoặc một công dân vì nó chưa có năng lực hành vi pháp luật. -
Năng lực hành vi pháp luật: là khả năng của chủ thể được Nhà nước thừa nhận là bằng
hành vi của chính mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Thời điểm phát sinh và chấm dứt năng lực hành vi pháp luật của chủ thể được pháp luật
quy định rất khác nhau tùy theo từng loại chủ thể (cá nhận khác với tổ chức) và tùy thuộc vào
từng quan hệ pháp luật.
Đối với chủ thể là cá nhân thì năng lực hành vi pháp luật của cá nhân không phát sinh
từ khi họ sinh ra mà sẽ hình thành dần dần và cá nhân sẽ được coi là có năng lực hành vi pháp
luật đầy đủ khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Đó là độ
tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể có thể tự mình xác lập và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong một quan hệ pháp luật cụ thể. Độ tuổi đó
là khác nhau trong các quan hệ pháp luật khác nhau tùy theo quy định cụ thể của pháp luật. Ví
dụ: trong quan hệ pháp luật lao động thì phải đạt độ tuổi từ đủ 15 tuổi trở lên; trong quan hệ
kết hôn thì độ tuổi đó là nam từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, như vậy, trong
quan hệ kết hôn cá nhân chỉ có thể tham gia khi đã đạt đến độ tuổi này.
Chủ thể là tổ chức sẽ có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật đầy đủ khi
nó được thành lập hoặc được công nhận, năng lực hành vi pháp luật của tổ chức sẽ chấm dứt
khi nó bị giải thể hoặc bị chia tách, sáp nhập, hợp nhất.
Pháp luật đại cương – Bài 3 17 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Chỉ tổ chức, cá nhân nào có cả năng lực pháp luật lẫn năng lực hành vi pháp luật trong
quan hệ pháp luật nào thì mới có thể trở thành chủ thể chủ động và độc lập trong quan hệ pháp
luật đó, do vậy, năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật của chủ thể có quan hệ mật
thiết với nhau trong đó năng lực pháp luật giữ vai trò quyết định, nó là tiền đề, là cơ sở để tạo
ra năng lực hành vi pháp luật. Nếu chủ thể không có năng lực pháp luật trong quan hệ pháp
luật nào thì sẽ không thể có năng lực hành vi pháp luật trong quan hệ pháp luật đó. Ví dụ, một
người nào đó bị Tòa án tước quyền bầu cử, tức là không có năng lực pháp luật trong quan hệ
bầu cử thì cũng không thể được phát thẻ cử tri để đi bầu cử.
c. Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể là cá nhân gồm công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch cư trú ở
Việt Nam. Trong đó năng lực pháp luật của công dân rộng rãi hơn nhiều so với người nước
ngoài, người không quốc tịch. Công dân có thể trở thành chủ thể của hầu hết các quan hệ pháp
luật, còn người nước ngoài, người không quốc tịch chỉ được tham gia vào những quan hệ pháp
luật nhất định khi được pháp luật cho phép. Ví dụ, trong quan hệ mua bán nhà ở, công dân
Việt Nam có thể mua bán nhà ở tự do theo quy định của pháp luật, còn người nước ngoài chỉ
được mua bán nhà ở trong một số trường hợp hạn chế do pháp luật cho phép.
Chủ thể là tổ chức gồm có: -
Nhà nước: là chủ thể đặc biệt của nhiều quan hệ pháp luật trong đó có những quan hệ
chỉ Nhà nước mới là chủ thể có quyền. Ví dụ, ở Việt Nam thì chỉ Nhà nước mới là chủ sở hữu
toàn bộ tài nguyên thiên nhiên, chủ sở hữu đất đai, các chủ thể khác chỉ có quyền sử dụng chứ
không có quyền sở hữu. -
Cơ quan, tổ chức Nhà nước: có thể trở thành chủ thể của nhiều quan hệ pháp luật và là
chủ thể không thể thiếu trong những quan hệ có liên quan tới việc thực hiện chức năng, thẩm
Pháp luật đại cương – Bài 3 18 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
quyền của nó. Ví dụ, trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thì Tòa án là chủ thể không thể
thiếu khi xét xử các vụ án. -
Các tổ chức phi Nhà nước: có thể trở thành chủ thể của nhiều quan hệ pháp luật, đặc
biệt là những quan hệ có liên quan tới việc bảo vệ lợi ích của các hội viên. Ví dụ, khi xây
dựng Luật Thanh niên thì không thể thiếu sự tham gia của tổ chức Đoàn thanh niên vì đó là
tổ chức đại diện và bảo vệ cho lợi ích của các đoàn viên thanh niên. -
Pháp nhân: là tổ chức do Nhà nước thành lập hoặc thừa nhận có thể trở thành chủ thể
độc lập của nhiều quan hệ pháp luật. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân trong một lĩnh
vực nhất định khi có đủ các điều kiện sau:
+ Được thành lập một cách hợp pháp, tức là được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành
lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận; ví dụ, các trường đại học công lập là do Nhà
nước thành lập, các trường đại học tư thục là do Nhà nước cho phép thành lập;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tức là có ban lãnh đạo và các bộ phận cấu thành, giữa các bộ
phận đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, ví dụ, các trường đại học đều có Ban giám hiệu, các khoa, phòng, ban…;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, ví dụ,
các trường đại học đều phải có tài sản để tiến hành các hoạt động của nhà trường; + Nhân
danh mình tham gia các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực đó một cách độc lập, ví dụ, các
trường đại học mới có thể nhân danh chính nó để tổ chức tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cho
người học, còn các khoa trong trường không thể nhân danh chính nó để tiến hành các hoạt động này.
2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 3 19 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể
tham gia quan hệ do Nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể có thể được xem xét dưới hai góc độ:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể pháp luật nói
chung, ở góc độ này chúng bao gồm tất cả các quyền và nghĩa vụ tạo nên địa vị pháp lý của
chủ thể. Ví dụ, Hiến pháp hiện hành của nước ta có một chương là quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, tổng thể các quyền và nghĩa vụ này tạo nên địa vị pháp lý của công dân Việt Nam.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể của một quan hệ
pháp luật cụ thể. Ví dụ, quan hệ mua bán 01 chiếc xe máy SH125cc giữa người bán (A, 30
tuổi) và người mua (B, 20 tuổi) là một quan hệ pháp luật cụ thể, trong đó A và B là những chủ
thể của quan hệ này, đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Ở góc độ này thì:
* Quyền chủ thể là cách xử sự mà chủ thể có thể tiến hành theo quy định của pháp luật,
bao gồm các khả năng sau: -
Khả năng tự xử sự theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho phép, ví
dụ, A và B có thể tự thỏa thuận trả tiền mua xe bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, trả một lần hoặc trả góp... -
Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải chấm dứt những hành vi cản trở việc
thực hiện quyền của mình hoặc phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền
của mình. Ví dụ, sau khi trả tiền mua xe, người mua B có quyền yêu cầu người bán A thực
hiện nghĩa vụ giao xe cho mình, thực hiện chế độ bảo hành... -
Khả năng được bảo vệ, tức là được yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm hại. Ví dụ, nếu người
Pháp luật đại cương – Bài 3 20