Pháp luật đại cương – Bài 4
1
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
BÀI 4: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, Ý THỨC PHÁP LUẬT,
VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
Nội dung:
I. Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
II. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
Mục tiêu bài học
- Giúp người học nắm được khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật; các đặc điểm
của áp dụng pháp luật và các trường hợp cần áp dụng pháp luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm, cơ cấu của ý thức pháp luật; vai trò của ý thức
pháp luật đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật cũng như một số nét khái quát về phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm, dấu hiệu, cấu thành và các loại vi phạm pháp
luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm trách nhiệm pháp lý và các căn cứ truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
I. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm thực hiện pháp luật
1.1. Định nghĩa thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội,
duy trì trật tự hội cũng như bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhân, tổ chức trong hội.
Mục đích đó chỉ thể đạt được khi mọi nhân, tổ chức trong hội thực hiện nghiêm chỉnh,
Pháp luật đại cương – Bài 4
2
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
đầy đủ các quy phạm pháp luật trong thực tiễn đời sống. Nói cách khác, thực hiện pháp luật
quá trình các nhân, tổ chức trong hội khi đặt trong những hoàn cảnh, tình huống
quy phạm pháp luật dự liệu đã thực hiện những xử sự (hành động hoặc không hành động) theo
đúng quy định trong quy phạm pháp luật đó. Ví dụ, một người lái xe tham gia giao thông khi
vượt xe khác đã xử sự theo đúng quy định của Điều 14 Luật Giao thông đường bộ năm 2008
là “…báo hiệu bằng đèn hoặc còi…”, “…vượt khi không có chướng ngại vật phía trước”,
“…vượt về bên trái…”, tức là người đó đã thực hiện pháp luật.
Như vậy, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) thực tế hợp
pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật.
1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật có các đặc điểm sau:
- Thực hiện pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người.
Nhà nước đặt ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hội theo định hướng Nhà
nước mong muốn. Tất cả các quan hệ hội đều được thể hiện thông qua các xử sự của con
người. Bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể khi tham gia một quan
hệ xã hội nhất định, Nhà nước có thể tác động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh các quan hệ
đó theo định hướng Nhà nước mong muốn. Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của
con người không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tưởng của họ, do vậy, chỉ thể căn c
vào xử sự thực tế của các chủ thể tmới thể xác định được họ hay không thực hiện
pháp luật.
Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể thể được thhiện dưới dạng hành động
hoặc không nh động. Hành động thực hiện pháp luật thể hiện bằng những lời nói, cử chỉ,
động tác nhất định. Ví dụ: khi tham gia giao thông bằng xe gắn y, người điểu khiển xe
Pháp luật đại cương – Bài 4
3
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
đội bảo hiểm”, báo hiệu vượt trước khi vượt”, chuyển làn đúng nơi được phép”… Hành
vi thực hiện pháp luật thể hiện dưới dạng không hành động là trường hợp chủ thể không thực
hiện những cử chỉ, động tác, lời nói nhất định pháp luật cấm. dụ: không dừng xe, đ
xe lòng đường đô thị gây cản trở giao thông”; không tụ tập từ 3 (ba) xe trở lên lòng
đường, trên cầu, trong hầm đường bộ”; không dùng đèn chiếu xa khi tránh nhau”; không “sử
dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh” khi đang điều khiển xe.
- Thực hiện pháp luật phải hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật.
Thực hiện pháp luật sự hiện thực hoá các quy định của pháp luật, tức là biến các quy
định của pháp luật trong văn bản trở thành xử sự thực tế của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ pháp luật. Hành vi thực hiện pháp luật phải nằm trong khuôn khổ các quy định của
pháp luật. Những nh vi trái pháp luật hay vượt quá các quy định của pháp luật đều không
phải là thực hiện pháp luật và chủ thể có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý.
- Thực hiện pháp luật phải xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức điều khiển
hành vi, có năng lực hành vi pháp luật.
Mục đích của pháp luật là điều chỉnh các nh vi, xử sự của các nhân, tổ chức trong
xã hội theo định hướng của Nhà nước nhằm đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích
của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Với mục đích đó, các quy định của pháp luật chỉ có ý nghĩa
đối với các chủ thể có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
- Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ quyền của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Thực hiện
pháp luật trước hết nghĩa vụ của mọi nhân, tổ chức trong xã hội để bảo đảm một trật tự
hội cũng như bảo đảm quyền lợi ích của mọi thành viên trong hội. dụ, khi tham
gia giao thông, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của
Pháp luật đại cương – Bài 4
4
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
Luật Giao thông (Luật Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy…). Thực hiện pháp luật
không chỉ là nghĩa vụ còn là quyền của cá nhân, tổ chức trong những trường hợp pháp luật
thừa nhận đảm bảo quyền cho họ. dụ, khi nhân, tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp,
họ phải thực hiện theo các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2015. Các quy phạm pháp
luật quy định về thành lập doanh nghiệp cũng nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của
nhân, tổ chức.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật
Hệ thống pháp luật của quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với mỗi lĩnh
vực pháp luật đặc thù thì việc thực hiện pháp luật cũng nét riêng biệt. Hơn nữa, các quy
phạm pháp luật bao gồm nhiều loại mà mỗi loại lại yêu cầu một cách thức thực hiện riêng.
loại yêu cầu thực hiện bằng không hành động (ví dụ, các quy phạm cấm đoán), loại yêu
cầu thực hiện bằng hành động tích cực (ví dụ, các quy phạm bắt buộc), có loại yêu cầu có thể
thực hiện hoặc không thực hiện (ví dụ, các quy phạm trao quyền)… Tùy theo yêu cầu của các
quy phạm pháp luật mà thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức sau:
2.1. Tuân theo (tuân thủ) pháp luật
hình thức thực hiện pháp luật trong đó c chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến
hành những hành vi mà pháp luật cấm.
dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, người tham gia giao thông kiềm chế không
thực hiện các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008
như: không đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng; không điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy; không điều khiển xe
ô tô, y kéo, xe máy chuyên dùng trên đường trong máu hoặc hơi thở nồng độ cồn
quá mức cho phép…
Pháp luật đại cương – Bài 4
5
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
Đây hình thức thực hiện pháp luật bằng không hành động nh thức thực hiện
các quy phạm cấm đoán trong thực tế.
2.2. Thi hành (chấp hành) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng các hành động tích cực.
dụ: Khi tham gia hợp đồng mua bán tài sản, bên bán thực hiện nghĩa vụ giao vật đúng
số lượng, chủng loại cho bên mua, nghĩa vụ bảo hành…; bên mua thực hiện nghĩa vụ trả đủ
số tiền, đúng hạn theo thỏa thuận...
2.3. Sử dụng (vận dụng) pháp luật
hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của
mình theo quy định của pháp luật. đây là hình thức thực hiện các quyền mà pháp luật cho
phép, nên chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình.
Ví dụ: Khi tham gia hợp đồng mua bán tài sản, Trong thời hạn bảo hành nếu bên mua
phát hiện được khuyết tật của vật mua bán thì có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa không phải
trả tiền, giảm giá, đổi vật có khuyết tật lấy vật khác hoặc trả lại vật và lấy lại tiền” (Điều 447
Bộ luật Dân sự m 2015). Đây quy phạm pháp luật cho phép bên mua thực hiện quyền,
nên bên mua hoàn toàn có quyền tự quyết định có thực hiện hay không thực hiện quyền này.
2.4. Áp dụng pháp luật
hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nnước thông qua các cơ quan Nhà ớc,
tổ chức hoặc nhân thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy
định của pháp luật hoặc ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan
hệ pháp luật cụ thể. dụ, khi một người lái xe ô tham gia giao thông Không chấp
Pháp luật đại cương – Bài 4
6
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” thì sẽ bị các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử
lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt vì đây là hình thức thực
hiện pháp luật của chính Nhà ớc (hay hình thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác
thực hiện các quy định của pháp luật). Hình thức này có tác động rất lớn đến quyền và lợi ích
của các chủ thể. Nếu thiếu hình thức y thì phần lớn các quy định của pháp luật không thể
trở thành hiện thực trong thực tế.
Dựa vào các đặc điểm riêng của áp dụng pháp luật thì có thể định nghĩa về áp dụng pháp
luật như sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực Nhà nước, do các cơ
quan, tổ chức hoặc nhân thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành nhằm
biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các nhân,
tổ chức cụ thể.
Áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính quyền lực Nhà nước.
Tính quyền lực Nhà nước của hoạt động áp dụng pháp luật được thể hiện:
+ Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan, tổ
chức hoặc nhân thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành mỗi chủ thể đó
cũng chỉ có thể áp dụng pháp luật trong phạm vi được pháp luật trao quyền. Các lĩnh vực pháp
luật khác nhau sẽ do các chủ thể thẩm quyền khác nhau tiến hành áp dụng. dụ, chỉ
các quan điều tra, Viện Kiểm sát Tòa án mới thể tiến hành áp dụng pháp luật hình
sự tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi
được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm.
Pháp luật đại cương – Bài 4
7
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
+ Trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể thẩm quyền áp dụng pháp luật thể nhân
danh quyền lực Nhà nước hoặc sử dụng quyền lực Nhà nước để ban hành những mệnh lệnh,
quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có
liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật luôn thể hiện ý chí đơn phương của
chủ thể thẩm quyền áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng áp
dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền không phải là
ý chí cá nhân, y tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được y dựng trên sở pháp luật,
căn cứ vào pháp luật phù hợp với pháp luật. dụ, khi một vi phạm pháp luật hành
chính xảy ra, chủ thể thẩm quyền xử vi phạm hành chính sẽ sử dụng quyền lực Nhà
nước, áp dụng các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để tiến hành xử chủ thể
vi phạm đó, như ban hành một quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Quyết định đó luôn
thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể thẩm quyền xử phạt, trên sở các quy định của
pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của người bị phạt. Chủ thể vi phạm bắt buộc phải
thực hiện đúng quyết định đó, nếu họ không tự giác thực hiện quyết định y thì họ sẽ bị
cưỡng chế thực hiện.
Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước. Thông thường, sau khi ban hành các mệnh lệnh,
quyết định áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền sẽ công bố công khai cho đối tượng
áp dụng để họ biết và thực hiện. Đối với các quyết định cụ thể hoá quyền pháp lý cho các chủ
thể (ví dụ quyết định công nhận tốt nghiệp, quyết định lên lương, quyết định khen thưởng…)
thì đại đa số các chủ thể sẽ tự giác thực hiện. Đối với các quyết định cụ thể hoá nghĩa vụ pháp
lý cho các chủ thể thì thể có hai trường hợp xảy ra. Một là, các chủ thể tự giác thực hiện
không cần đến sự cưỡng chế của Nhà nước. Hai là, chủ thể không tự giác thực hiện các
mệnh lệnh, quyết định đó. Khi đó các chủ thể có thẩm quyền phải cưỡng chế thi hành để bảo
đảm cho các mệnh lệnh, quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh. dụ, khi nhận được
Pháp luật đại cương – Bài 4
8
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc bản án kết tội của a án thì người phải chấp
hành không muốn thực hiện. Khi hcố tình không thực hiện thì cơ quan Nhà nước thẩm
quyền sẽ phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bắt buộc họ thực hiện. - Áp dụng pháp luật
hoạt động tính tổ chức rất cao đây vừa hình thức thực hiện pháp luật vừa hình
thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật. vậy, hoạt
động áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt
chẽ do pháp luật quy định.
Áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi ích của các chủ thể. chủ thể
sẽ được hưởng những lợi ích nhất định nhưng cũng chủ thể phải chịu những hậu quả bất
lợi (thậm chí bị tước đoạt quyền sống của mình) nên pháp luật luôn xác định những trình tự,
thủ tục rất chặt chẽ các chủ thể thẩm quyền áp dụng phải tuân theo trong quá trình áp
dụng pháp luật để thể bảo đảm tính đúng đắn, chính xác của hoạt độngy, thông qua đó
có thể bảo đảm công bằng xã hội.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính cá biệt, cụ thể đối với từng quan hệ xã hội (áp
dụng pháp luật nhằm biệt hoá các quy phạm pháp luật vào những trường hợp cụ thể, đối
với các chủ thể cụ thể)
1
. Các quy phạm pháp luật những quy tắc chung nên không chỉ
chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp dụng để
giải quyết một vụ việc cụ thể đối với một chủ thể thì có nghĩa là quy phạm đó đã được cá biệt
hóa vào trường hợp cụ thể đó. Ví dụ, Nguyễn Văn A có hành vi điều khiển xe mô tô tham gia
giao thông không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông. Hành vi của A sẽ bị chủ
thể thẩm quyền áp dụng quy định của điểm a khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-
CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ xử phạt một mức cụ thể trong khoảng từ 100.000 đồng đến
1
Xem: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn tập môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, tr.253.
Pháp luật đại cương – Bài 4
9
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
200.000 đồng. Trong trường hợp này, hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền
xử phạt đã cá biệt hóa quy định của điểm a khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP vào
trường hợp vi phạm cụ thể của Nguyễn Văn A.
- Áp dụng pháp luật hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Mặc quy phạm pháp luật
những quy tắc, chuẩn mực, nhưng quy phạm pháp luật bao giờ cũng dành phần sáng tạo cho
các chủ thể thẩm quyền áp dụng. Quá trình áp dụng pháp luật quá trình nhận thức của
con người, vì vậy đòi hỏi chủ thể áp dụng pháp luật phải nhận thức vận dụng pháp luật một
cách đúng đắn, chính xác nhưng không y móc. Chủ thể áp dụng pháp luật cần linh hoạt,
sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định chính xác, hợp tình, hợp lý, đảm bảo lợi ích hài hòa của
Nhà nước và cá nhân. Đặc biệt trong trường hợp các quy phạm pháp luật chưa quy định hoặc
quy định chưa cụ thể, ràng thì chủ thể phải sáng tạo trong việc áp dụng tập quán hoặc áp
dụng pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. dụ, Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định: Trường hợp các bên không thỏa thuận pháp luật không quy định thì thể áp
dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.”.
3. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật Hoạt động áp dụng pháp
luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi quyền nghĩa vpháp của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt. Đây trường hợp pháp luật quy định cho tổ chức, nhân quyền và nghĩa vụ
pháp nhất định, nhưng các chủ thể không thể tự mình thực hiện được các quyền nghĩa
vụ đó mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
thẩm quyền. dụ, Điều 33 Hiến pháp m 2013 quy định: Mọi người quyền tự do
kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm.”. Tuy nhiên, muốn thành lập
doanh nghiệp để kinh doanh thì theo quy định của Luật Doanh nghiệp m 2015, chủ thể phải
Pháp luật đại cương – Bài 4
10
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
lập hồ đăng thành lập doanh nghiệp gửi đến quan thẩm quyền đxin cấp Giấy
chứng nhận đăng doanh nghiệp. quan Nhà nước thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật
để cấp Giấy chứng nhận này và nhờ vậy, chủ thể mới chính thức thực hiện được quyền tự do
kinh doanh theo nội dung giấy phép.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật các n đó không tự giải quyết được với nhau yêu cầu sự can thiệp của
Nhà nước. Trường hợp y, chủ thể thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ căn cứ vào các quy
định cụ thể của pháp luật để giải quyết tranh chấp đó. dụ, các chủ thể của một hợp đồng
mua bán nhà tranh chấp với nhau mà họ không tự giải quyết được gửi đơn đến Tòa án
có thẩm quyền yêu cầu giải quyết và Tòa án sẽ áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đó.
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp
luật, tức là khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể đó. Khi chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, Nhà ớc phải tiến hành áp dụng pháp luật để quyết định một biện
pháp cưỡng chế Nhà nước cụ thể đối với họ, tức là truy cứu trách nhiệm pháp lý với người vi
phạm nhằm trừng phạt họ, đồng thời nhằm giáo dục cho người vi phạm cho các chủ thể
khác ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật. dụ, Nguyễn Văn T hành vi điều khiển xe
tham gia giao thông không đội bảo hiểm. Hành vi của T đã vi phạm quy định
tại điểm i khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ là:
Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội bảo hiểm hoặc đội bảo hiểm không
cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộcảnh sát giao thông có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính sẽ áp dụng pháp luật để ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với T.
- Khi cần áp dụng c biện pháp tác động của Nhà nước nhưng không liên quan đến
trách nhiệm pháp mà vì lợi ích chung của hội. Đây là trường hợp các chủ thể không vi
Pháp luật đại cương – Bài 4
11
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
phạm pháp luật nhưng lợi ích chung của xã hội nên Nhà nước phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước đối với họ. Ví dụ, áp dụng biện pháp cưỡng chế để cách li và chữa bệnh
cho những người mắc bệnh truyền nhiễm nhằm tránh sự lây lan trong cộng đồng; hoặc trường
hợp Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình công cộng như quảng
trường, sân vận động, đường giao thông…
- Khi Nhà nước thấy cần xác nhận sự tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế nào đó
theo quy định của pháp luật. dụ, Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của di chúc; Ủy ban
nhân dân chứng thực văn bản, giấy tờ...
- Khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích theo quy
định của pháp luật. dụ, khi ch thể thẩm quyền áp dụng pháp luật về thi đua, khen
thưởng để công nhận thành tích trao tặng giấy khen, bằng khen, danh hiệu vinh dự Nhà
nước cho một cá nhân, tổ chức nào đó.
- Khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền nghĩa vụ pháp của các chủ thể
trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Viện kiểm sát
nhân dân áp dụng pháp luật để kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong qtrình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự.
Trong số các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thì áp dụng pháp luật hình thức
quan trọng nhất có vai trò quyết định vì nếu thiếu hình thức này thì phần lớn các quy định
của pháp luật sẽ không thể trở thành hiện thực trong thực tế. Hình thức này có thể bao hàm cả
ba hình thức trên, tức trong quá trình áp dụng pháp luật, các chthể thẩm quyền vừa
phải tuân theo pháp luật, vừa phải thi hành pháp luật và vừa được sử dụng pháp luật.
II. Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 4
12
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
1.1. Định nghĩa ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật một hình thái của ý thức xã hội được phát sinh, hình thành cùng với
ý thức chính trị trong hội. Trong hội các giai cấp đối kháng thì ý thức pháp luật của
các giai cấp này luôn mâu thuẫn với nhau, trong đó chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống
trị hay lực lượng cầm quyền mới được thể hiện đầy đủ trong pháp luật.
Ý thức pháp luật tổng thể những học thuyết, tưởng, quan điểm, quan niệm, tâm
trạng, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, thể
hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, sự đánh giá về tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi của các chủ thể
2
.
Ý thức pháp luật được thể hiện thông qua sự hiểu biết pháp luật hay trình độ, kiến thức
pháp lý, qua thái đđối với pháp luật ng như qua các hành vi pháp luật thực tế của con
người. Ý thức pháp luật được thể hiện qua ý thức pháp luật của nhân, của nhóm hội
của giai cấp.
1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có các đặc điểm sau:
- Ý thức pháp luật một trong các hình thái ý thức hội, vậy luôn chịu sự chi
phối của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã
hội, thể hiện:
+ Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Nhiều khi tồn tại xã hội cũ
đã mất đi nhưng ý thức pháp luật cũ vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài. Ví dụ, tâm lí trọng
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2017, tr.
444.
Pháp luật đại cương – Bài 4
13
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
nam, khinh nữ; phép vua thua lệ làng... hình thành từ thời kphong kiến nhưng vẫn còn tồn
tại trong xã hội hiện nay ở nước ta.
+ Tuy nhiên, tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tưởng pháp luật khoa học lại có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại hội. Hệ ởng pháp luật mới có thể sinh ra trong lòng
hội cũ. Ví dụ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành từ xã hội trước.
+ Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại hội, đối với ý thức chính trị, đạo
đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc như Nhà nước và pháp luật.
- Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp. Nội dung của ý thức pháp luật luôn
phản ánh những nhu cầu về chính trị, thể hiện thái độ của các giai cấp, tầng lớp xã hội đối với
các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành liên quan trực tiếp đến đời sống chính
trị, xã hội.
Mỗi quốc gia chỉ một hệ thống pháp luật nhưng tồn tại một số hệ thống ý thức pháp
luật: Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, của các tầng
lớp trung gian...
2. Cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật
2.1. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có cấu trúc khá phức tạp. Thông thường, căn cứ vào nội dung, tính chất
của các bộ phận thì ý thức pháp luật được phân thành tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
+ Tư tưởng pháp luật là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, học thuyết, trường phái pháp lý.
dụ, tưởng Hồ CMinh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản về Nhà
Pháp luật đại cương – Bài 4
14
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
nước về pháp luật... Tư tưởng pháp luật của giai cấp thống trị luôn giữ vai trò là tưởng chính
thống trong xã hội và được phản ánh trong pháp luật.
+ Tâm lý pháp luật là tổng thể các trạng thái tâm lý của con người như tình cảm, thái độ, tâm
trạng, thói quen, xúc cảm đối với pháp luật được hình thành từng người, từng nhóm người
hoặc cả giai cấp dưới ảnh hưởng của pháp luật và sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Tâm
lý pháp luật là yếu tố chủ quan nên phụ thuộc rất lớn vào bản thân từng cá nhân trong xã hội.
Trong tâm lý pháp luật, thái độ đối với pháp luật và thói quen pháp luật là yếu tố quan trọng.
Nhờ có thái độ đối với pháp luật và thói quen pháp luật mà con người hành động một cách rất
rõ ràng, dứt khoát.
Giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật mối quan hệ qua lại với nhau: tưởng
pháp luật tác động mạnh mẽ tới tâm pháp luật, làm cho tâm pháp luật thêm sâu sắc, ngược
lại, tâm pháp luật tiền đề cho sự hình thành phát triển các quan điểm, tưởng pháp
luật.
2.2. Phân loại ý thức pháp luật
Thông thường ý thức pháp luật được chia thành ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật
nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
- Ý thức pháp luật hội ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện cho hội,
chứa đựng những tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề bản nhất của pháp luật.
Đây là bộ phận tiến bộ, khoa học nên ý thức pháp luật xã hội được chính thức hoá trong toàn
xã hội.
Pháp luật đại cương – Bài 4
15
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
- Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình cảm của
một nhóm xã hội nhất định về pháp luật. Ý thức pháp luật nhóm phạm vi tác động hẹp hơn
so với ý thức pháp luật xã hội.
- Ý thức pháp luật của nhân phản ánh những quan điểm, tưởng, tâm lý, tình cảm,
thái độ của mỗi người đối với pháp luật và các hành vi pháp luật xảy ra trong thực tế. Ý thức
pháp luật của cá nhân thường thấp hơn ý thức pháp luật xã hội. Vì vậy, cần phải không ngừng
đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân lên ngang tầm
ý thức pháp luật xã hội.
3. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật
- Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật.
Trước hết, ý thức pháp luật là cơ sở để hoạch định chính sách xây dựng hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Trong quá trình quản lý Nhà nước và xã hội, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận
thức, hiểu biết về nhu cầu khách quan của nền kinh tế - xã hội, các cơ quan Nhà ớc có thẩm
quyền xây dựng pháp luật sẽ xác định các quan hệ xã hội nào cần phải được điều chỉnh bằng
pháp luật điều chỉnh như thế nào; các quan hệ hội nào cần thay đổi biện pháp điều
chỉnh... Từ đó hoạch định các chính sách, kế hoạch xây dựnghoàn thiện pháp luật. Ví dụ,
trước thực trạng tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ngày càng nhiều và nghiêm trọng ở nước
ta, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, Quốc hội nhận thấy cần phải nhanh chóng y dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Giao thông đường bộ.
Khi y dựng pháp luật, trên sở ý thức, nhận thức của mình, các chủ thể thẩm
quyền căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội, nhu cầu khách quan của đời sống
Pháp luật đại cương – Bài 4
16
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
hội để xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp với các điều kiện đó nhằm tăng cường
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện pháp luật, trên shiểu biết, kiến thức pháp của mình,
những người làm công tác y dựng pháp luật thể xác định được những quy phạm và văn
bản quy phạm pháp luật còn phù hợp, có tính khả thi; các quy phạm và các văn bản quy phạm
pháp luật không phù hợp, cần được thay thế… Trên cơ sở đó tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay
thế các quy phạm các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, m cho hệ thống pháp luật
ngày càng hoàn thiện hơn. dụ, khi thấy nhiều quy định trong Hiến pháp m 1992 không
còn phù hợp, Quốc hội đã tổ chức soạn thảo văn bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
- Ý thức pháp luật yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong thực tế, đặc biệt, ý
thức pháp luật là cơ sở để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác.
Ý thức pháp luật của mỗi người được thể hiện thông qua trình độ kiến thức pháp lý, hiểu
biết pháp luật (có thể là cao hay thấp), thái đđối với pháp luật (có thể tôn trọng, ủng hộ
hoặc coi thường, chống đối) hành vi pháp luật thực tế của người đó (có thể hợp pháp
hoặc bất hợp pháp). Khi mọi người trong hội đều ý thức pháp luật cao, tức đều hiểu
biết đúng đắn yêu cầu của các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của mình, đều
thái độ, tình cảm tôn trọng, ủng hộ các quy định của pháp luật luôn có các hành vi hợp pháp
thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác.
Trong quá trình áp dụng pháp luật, muốn bảo đảm công lý, công bằng hội thì c
quyết định được ban hành phải đúng đắn, chính xác. Muốn đưa ra được các quyết định áp
dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu trên thì chủ thể áp dụng phải hiểu rõ các yêu cầu, đòi hỏi của
pháp luật để lựa chọn đúng quy phạm pháp luật cần áp dụng, giải thích quy phạm đó phù hợp
Pháp luật đại cương – Bài 4
17
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
với trường hợp cần áp dụng ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh quy phạm đó trong
quá trình áp dụng.
4. Phổ biến, giáo dục pháp luật
4.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật hoạt động của các nhân, tổ chức trong hội nhằm
tăng cường sự hiểu biết pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, từ đó hình thành ý
thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo những yêu cầu của pháp luật.
4.2. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
- Trước hết, cần phổ biến, giáo dục các quy định của Hiến pháp và luật mà trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình, bình đẳng
giới, đất đai, y dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao
thông, quyền nghĩa vụ bản của công dân, quyền hạn trách nhiệm của quan N
nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
- Phổ biến, giáo dục các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Phổ biến, giáo dục về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật;
lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong việc thực hiện pháp luật.
Đây là những nội dung của phổ biến và giáo dục pháp luật cho mọi cá nhân trong hội.
Đối với một số đối tượng đặc thù như người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, nạn nhân bạo lực gia đình, người khuyết tật, người đang
chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, s
giáo dục bắt buộc, scai nghiện bắt buộc, nhóm người dễ bị tổn thương… thì những nội
dung của phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được nhấn mạnh phù hợp với nhu cầu nâng cao ý
Pháp luật đại cương – Bài 4
18
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
thức pháp luật của các nhóm đối tượng đặc thù này, giúp họ khắc phục nhanh chóng, kịp thời
những hạn chế về ý thức pháp luật cũng như hình thành ở họ ý thức pháp luật tích cực, ý thức
tôn trọng pháp luật từ đó hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
4.3. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức chủ yếu sau:
- Họp báo, thông cáo báo chí: Đâyhình thức phổ biến, trong đó các cơ quan Nhà ớc
thẩm quyền tchức các cuộc họp o hay ra các thông cáo báo cvề các văn bản pháp
luật vừa được công bố để mọi nhân trong hội nắm được các thông tin kịp thời vcác
văn bản pháp luật mới ban hành này.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin,
tài liệu pháp luật: Đây hình thức giáo dục pháp luật, trong đó các quan thẩm quyền
trực tiếp vấn, cung cấp các thông tin, tài liệu cho các nhân, tổ chức nhu cầu cần
các thông tin cần thiết về pháp luật phục vcuộc sống của họ, như thông tin về thành lập
doanh nghiệp, thông tin về việc đổi tên khai sinh…
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô,
ápphích, tranh cổ động; đăng tải trên ng báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông
tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của quan, tổ chức, khu dân cư. Đây một hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật khá hiệu quả. Ngày nay truyền thông đã trở thành một công
cụ hữu hiệu để cung cấp, trao đổi thông tin nói chung và thông tin về pháp luật nói riêng.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật. Đây cũng là một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
hiệu quả. Thông qua các cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật phổ thông hay kiến thức
pháp luật chuyên đề sẽ tạo hiệu ứng tích cực trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật.
Pháp luật đại cương – Bài 4
19
D
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân. Đây hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật của các quan tiến
hành tố tụng quan chức năng khác trong bộ máy Nhà nước. Thông qua hoạt động giải
quyết các vụ việc của mình, các quan y giúp các bên liên quan trong vụ việc cũng như
người dân nói chung hiểu biết hơn về các quy định của pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp
luật.
- Thông qua việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân cho c dự án luật. Việc tham gia
đóng góp ý kiến của nhân dân o các dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua việc lấy ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành
thực thi pháp luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức về trách nhiệm pháp
khả năng tiến hành các hành vi pháp đúng đắn, chính xác. Đồng thời, qua hoạt động y,
sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, hiểu rõ hơn giá trị xã hội và pháp luật.
Có thể nói, thái độ chấp hành hay không không chấp hành của người dân đối với pháp luật là
kết quả của sự am hiểu và tôn trọng pháp luật. Mặt khác, cũng thấy rằng con người chấp hành
pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
Bên cạnh các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật kể trên, còn có các hình thức khác
như lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông qua chương trình giáo dục pháp luật
trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân... Những hình thức y được tổ chức
linh hoạt y thuộc vào các cơ quan, tổ chức nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất của hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật.
III. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 4
20
Trường
Đại học Mở Hà Nội
Mở c
ơ hội học tập cho mọi người
lOMoARcPSD| 59732875
Vi phạm thường được hiểu hành vi m trái các quy định. Trong nh vực pháp lý, vi
phạm pháp luật được định nghĩa: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật lỗi, do chủ
thể năng lực trách nhiệm pháp thực hiện, xâm hại c quan hệ hội được pháp luật
bảo vệ.
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu sau:
- Vi phạm pháp luật phải hành vi xác định của con người. Pháp luật được ban hành
để điều chỉnh hành vi của các chủ thể. Điều này có nghĩa pháp luật không điều chỉnh ý nghĩ,
tưởng của con người. Các-Mác đã nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với
pháp luật, không phải đối tượng của nó. Phải căn cứ vào nh vi thực tế của các chủ thể
mới có thể xác định được họ có vi phạm pháp luật hay không. Thông qua hành vi, con người
mới tác động m thay đổi thế giới khách quan, mới khả năng gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của pháp luật. Những gì còn nằm trong ý nghĩ, tư tưởng của con
người chưa thể hiện ra bên ngoài thì không thể làm biến đổi thế giới khách quan, không
khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nên không thể coi là vi phạm pháp luật được.
dụ, một người thông qua các hành vi: điều khiển xe đi vào đường cấm, khu vực
cấm”; “đi ngược chiều của đường một chiều hay vượt bên phải trong các trường hợp không
được phép”… mới gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho những người cùng tham gia giao
thông. Những nh vi y vi phạm các quy định tại Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày
02/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ.
- Vi phạm pháp luật phải hành vi trái pháp luật. Vi phạm pháp luật xử sự trái với
các yêu cầu của pháp luật. Hành vi trái pháp luật được thể hiện dưới các hình thức:

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
BÀI 4: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, Ý THỨC PHÁP LUẬT,
VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ Nội dung:
I. Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
II. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
Mục tiêu bài học
- Giúp người học nắm được khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật; các đặc điểm
của áp dụng pháp luật và các trường hợp cần áp dụng pháp luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm, cơ cấu của ý thức pháp luật; vai trò của ý thức
pháp luật đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật cũng như một số nét khái quát về phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm, dấu hiệu, cấu thành và các loại vi phạm pháp luật.
- Giúp người học nắm được khái niệm trách nhiệm pháp lý và các căn cứ truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
I. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm thực hiện pháp luật
1.1. Định nghĩa thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội,
duy trì trật tự xã hội cũng như bảo đảm lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội thực hiện nghiêm chỉnh,
Pháp luật đại cương – Bài 4 1 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
đầy đủ các quy phạm pháp luật trong thực tiễn đời sống. Nói cách khác, thực hiện pháp luật
là quá trình các cá nhân, tổ chức trong xã hội khi đặt trong những hoàn cảnh, tình huống mà
quy phạm pháp luật dự liệu đã thực hiện những xử sự (hành động hoặc không hành động) theo
đúng quy định trong quy phạm pháp luật đó. Ví dụ, một người lái xe tham gia giao thông khi
vượt xe khác đã xử sự theo đúng quy định của Điều 14 Luật Giao thông đường bộ năm 2008
là “…báo hiệu bằng đèn hoặc còi…”, “…vượt khi không có chướng ngại vật phía trước…”,
“…vượt về bên trái…”, tức là người đó đã thực hiện pháp luật.
Như vậy, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) thực tế hợp
pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật.
1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật có các đặc điểm sau:
- Thực hiện pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người.
Nhà nước đặt ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng mà Nhà
nước mong muốn. Tất cả các quan hệ xã hội đều được thể hiện thông qua các xử sự của con
người. Bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể khi tham gia một quan
hệ xã hội nhất định, Nhà nước có thể tác động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh các quan hệ
đó theo định hướng Nhà nước mong muốn. Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của
con người mà không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, do vậy, chỉ có thể căn cứ
vào xử sự thực tế của các chủ thể thì mới có thể xác định được họ có hay không thực hiện pháp luật.
Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể có thể được thể hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động. Hành động thực hiện pháp luật thể hiện bằng những lời nói, cử chỉ,
động tác nhất định. Ví dụ: khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy, người điểu khiển xe
Pháp luật đại cương – Bài 4 2 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
đội mũ bảo hiểm”, “báo hiệu vượt trước khi vượt”, “chuyển làn đúng nơi được phép”… Hành
vi thực hiện pháp luật thể hiện dưới dạng không hành động là trường hợp chủ thể không thực
hiện những cử chỉ, động tác, lời nói nhất định mà pháp luật cấm. Ví dụ: không “dừng xe, đỗ
xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông”; không “tụ tập từ 3 (ba) xe trở lên ở lòng
đường, trên cầu, trong hầm đường bộ”; không “dùng đèn chiếu xa khi tránh nhau”; không “sử
dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh” khi đang điều khiển xe.
- Thực hiện pháp luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật.
Thực hiện pháp luật là sự hiện thực hoá các quy định của pháp luật, tức là biến các quy
định của pháp luật trong văn bản trở thành xử sự thực tế của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ pháp luật. Hành vi thực hiện pháp luật phải nằm trong khuôn khổ các quy định của
pháp luật. Những hành vi trái pháp luật hay vượt quá các quy định của pháp luật đều không
phải là thực hiện pháp luật và chủ thể có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý.
- Thực hiện pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi, có năng lực hành vi pháp luật.
Mục đích của pháp luật là điều chỉnh các hành vi, xử sự của các cá nhân, tổ chức trong
xã hội theo định hướng của Nhà nước nhằm đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích
của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Với mục đích đó, các quy định của pháp luật chỉ có ý nghĩa
đối với các chủ thể có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
- Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ và quyền của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Thực hiện
pháp luật trước hết là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo đảm một trật tự
xã hội cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. Ví dụ, khi tham
gia giao thông, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của
Pháp luật đại cương – Bài 4 3 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Luật Giao thông (Luật Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy…). Thực hiện pháp luật
không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của cá nhân, tổ chức trong những trường hợp pháp luật
thừa nhận và đảm bảo quyền cho họ. Ví dụ, khi cá nhân, tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp,
họ phải thực hiện theo các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2015. Các quy phạm pháp
luật quy định về thành lập doanh nghiệp cũng nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật
Hệ thống pháp luật của quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với mỗi lĩnh
vực pháp luật đặc thù thì việc thực hiện pháp luật cũng có nét riêng biệt. Hơn nữa, các quy
phạm pháp luật bao gồm nhiều loại mà mỗi loại lại yêu cầu một cách thức thực hiện riêng. Có
loại yêu cầu thực hiện bằng không hành động (ví dụ, các quy phạm cấm đoán), có loại yêu
cầu thực hiện bằng hành động tích cực (ví dụ, các quy phạm bắt buộc), có loại yêu cầu có thể
thực hiện hoặc không thực hiện (ví dụ, các quy phạm trao quyền)… Tùy theo yêu cầu của các
quy phạm pháp luật mà thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức sau:
2.1. Tuân theo (tuân thủ) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến
hành những hành vi mà pháp luật cấm.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, người tham gia giao thông kiềm chế không
thực hiện các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008
như: không đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng; không điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy; không điều khiển xe
ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn quá mức cho phép…
Pháp luật đại cương – Bài 4 4 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Đây là hình thức thực hiện pháp luật bằng không hành động và là hình thức thực hiện
các quy phạm cấm đoán trong thực tế.
2.2. Thi hành (chấp hành) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng các hành động tích cực.
Ví dụ: Khi tham gia hợp đồng mua bán tài sản, bên bán thực hiện nghĩa vụ giao vật đúng
số lượng, chủng loại cho bên mua, nghĩa vụ bảo hành…; bên mua thực hiện nghĩa vụ trả đủ
số tiền, đúng hạn theo thỏa thuận...
2.3. Sử dụng (vận dụng) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của
mình theo quy định của pháp luật. Vì đây là hình thức thực hiện các quyền mà pháp luật cho
phép, nên chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình.
Ví dụ: Khi tham gia hợp đồng mua bán tài sản, “Trong thời hạn bảo hành nếu bên mua
phát hiện được khuyết tật của vật mua bán thì có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa không phải
trả tiền, giảm giá, đổi vật có khuyết tật lấy vật khác hoặc trả lại vật và lấy lại tiền” (Điều 447
Bộ luật Dân sự năm 2015). Đây là quy phạm pháp luật cho phép bên mua thực hiện quyền,
nên bên mua hoàn toàn có quyền tự quyết định có thực hiện hay không thực hiện quyền này.
2.4. Áp dụng pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước,
tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy
định của pháp luật hoặc ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan
hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ, khi một người lái xe ô tô tham gia giao thông mà “Không chấp
Pháp luật đại cương – Bài 4 5 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” thì sẽ bị các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử
lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt vì đây là hình thức thực
hiện pháp luật của chính Nhà nước (hay hình thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác
thực hiện các quy định của pháp luật). Hình thức này có tác động rất lớn đến quyền và lợi ích
của các chủ thể. Nếu thiếu hình thức này thì phần lớn các quy định của pháp luật không thể
trở thành hiện thực trong thực tế.
Dựa vào các đặc điểm riêng của áp dụng pháp luật thì có thể định nghĩa về áp dụng pháp
luật như sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực Nhà nước, do các cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành nhằm cá
biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân,
tổ chức cụ thể.
Áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính quyền lực Nhà nước.
Tính quyền lực Nhà nước của hoạt động áp dụng pháp luật được thể hiện:
+ Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó
cũng chỉ có thể áp dụng pháp luật trong phạm vi được pháp luật trao quyền. Các lĩnh vực pháp
luật khác nhau sẽ do các chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành áp dụng. Ví dụ, chỉ có
các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án mới có thể tiến hành áp dụng pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi
được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm.
Pháp luật đại cương – Bài 4 6 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
+ Trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật có thể nhân
danh quyền lực Nhà nước hoặc sử dụng quyền lực Nhà nước để ban hành những mệnh lệnh,
quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có
liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật luôn thể hiện ý chí đơn phương của
chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng áp
dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền không phải là
ý chí cá nhân, tùy tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được xây dựng trên cơ sở pháp luật,
căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật. Ví dụ, khi có một vi phạm pháp luật hành
chính xảy ra, chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính sẽ sử dụng quyền lực Nhà
nước, áp dụng các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để tiến hành xử lý chủ thể
vi phạm đó, như ban hành một quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Quyết định đó luôn
thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền xử phạt, trên cơ sở các quy định của
pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của người bị phạt. Chủ thể vi phạm bắt buộc phải
thực hiện đúng quyết định đó, nếu họ không tự giác thực hiện quyết định này thì họ sẽ bị cưỡng chế thực hiện.
Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước. Thông thường, sau khi ban hành các mệnh lệnh,
quyết định áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền sẽ công bố công khai cho đối tượng
áp dụng để họ biết và thực hiện. Đối với các quyết định cụ thể hoá quyền pháp lý cho các chủ
thể (ví dụ quyết định công nhận tốt nghiệp, quyết định lên lương, quyết định khen thưởng…)
thì đại đa số các chủ thể sẽ tự giác thực hiện. Đối với các quyết định cụ thể hoá nghĩa vụ pháp
lý cho các chủ thể thì có thể có hai trường hợp xảy ra. Một là, các chủ thể tự giác thực hiện
mà không cần đến sự cưỡng chế của Nhà nước. Hai là, chủ thể không tự giác thực hiện các
mệnh lệnh, quyết định đó. Khi đó các chủ thể có thẩm quyền phải cưỡng chế thi hành để bảo
đảm cho các mệnh lệnh, quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh. Ví dụ, khi nhận được
Pháp luật đại cương – Bài 4 7 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc bản án kết tội của Tòa án thì người phải chấp
hành không muốn thực hiện. Khi họ cố tình không thực hiện thì cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền sẽ phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bắt buộc họ thực hiện. - Áp dụng pháp luật
là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì đây vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình
thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật. Vì vậy, hoạt
động áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt
chẽ do pháp luật quy định.
Áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của các chủ thể. Có chủ thể
sẽ được hưởng những lợi ích nhất định nhưng cũng có chủ thể phải chịu những hậu quả bất
lợi (thậm chí bị tước đoạt quyền sống của mình) nên pháp luật luôn xác định những trình tự,
thủ tục rất chặt chẽ mà các chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải tuân theo trong quá trình áp
dụng pháp luật để có thể bảo đảm tính đúng đắn, chính xác của hoạt động này, thông qua đó
có thể bảo đảm công bằng xã hội. -
Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính cá biệt, cụ thể đối với từng quan hệ xã hội (áp
dụng pháp luật nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật vào những trường hợp cụ thể, đối
với các chủ thể cụ thể)1. Các quy phạm pháp luật là những quy tắc chung nên không chỉ rõ
chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp dụng để
giải quyết một vụ việc cụ thể đối với một chủ thể thì có nghĩa là quy phạm đó đã được cá biệt
hóa vào trường hợp cụ thể đó. Ví dụ, Nguyễn Văn A có hành vi điều khiển xe mô tô tham gia
giao thông không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông. Hành vi của A sẽ bị chủ
thể có thẩm quyền áp dụng quy định của điểm a khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-
CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ xử phạt một mức cụ thể trong khoảng từ 100.000 đồng đến
1 Xem: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn tập môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, tr.253.
Pháp luật đại cương – Bài 4 8 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
200.000 đồng. Trong trường hợp này, hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền
xử phạt đã cá biệt hóa quy định của điểm a khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP vào
trường hợp vi phạm cụ thể của Nguyễn Văn A. -
Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Mặc dù quy phạm pháp luật
những quy tắc, chuẩn mực, nhưng quy phạm pháp luật bao giờ cũng dành phần sáng tạo cho
các chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Quá trình áp dụng pháp luật là quá trình nhận thức của
con người, vì vậy đòi hỏi chủ thể áp dụng pháp luật phải nhận thức và vận dụng pháp luật một
cách đúng đắn, chính xác nhưng không máy móc. Chủ thể áp dụng pháp luật cần linh hoạt,
sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định chính xác, hợp tình, hợp lý, đảm bảo lợi ích hài hòa của
Nhà nước và cá nhân. Đặc biệt trong trường hợp các quy phạm pháp luật chưa quy định hoặc
quy định chưa cụ thể, rõ ràng thì chủ thể phải sáng tạo trong việc áp dụng tập quán hoặc áp
dụng pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. Ví dụ, Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp
dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.”.
3. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật Hoạt động áp dụng pháp
luật được tiến hành trong các trường hợp sau: -
Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt. Đây là trường hợp pháp luật quy định cho tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ
pháp lý nhất định, nhưng các chủ thể không thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa
vụ đó mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền. Ví dụ, Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do
kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”. Tuy nhiên, muốn thành lập
doanh nghiệp để kinh doanh thì theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2015, chủ thể phả i
Pháp luật đại cương – Bài 4 9 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
lập hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp gửi đến cơ quan có thẩm quyền để xin cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật
để cấp Giấy chứng nhận này và nhờ vậy, chủ thể mới chính thức thực hiện được quyền tự do
kinh doanh theo nội dung giấy phép. -
Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của
Nhà nước. Trường hợp này, chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ căn cứ vào các quy
định cụ thể của pháp luật để giải quyết tranh chấp đó. Ví dụ, các chủ thể của một hợp đồng
mua bán nhà có tranh chấp với nhau mà họ không tự giải quyết được và gửi đơn đến Tòa án
có thẩm quyền yêu cầu giải quyết và Tòa án sẽ áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đó. -
Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp
luật, tức là khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể đó. Khi chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước phải tiến hành áp dụng pháp luật để quyết định một biện
pháp cưỡng chế Nhà nước cụ thể đối với họ, tức là truy cứu trách nhiệm pháp lý với người vi
phạm nhằm trừng phạt họ, đồng thời nhằm giáo dục cho người vi phạm và cho các chủ thể
khác ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật. Ví dụ, Nguyễn Văn T có hành vi điều khiển xe
mô tô tham gia giao thông mà không đội mũ bảo hiểm. Hành vi của T đã vi phạm quy định
tại điểm i khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ là:
Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không
cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ” và cảnh sát giao thông có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính sẽ áp dụng pháp luật để ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với T. -
Khi cần áp dụng các biện pháp tác động của Nhà nước nhưng không liên quan đến
trách nhiệm pháp lý mà vì lợi ích chung của xã hội. Đây là trường hợp các chủ thể không vi
Pháp luật đại cương – Bài 4 10 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
phạm pháp luật nhưng vì lợi ích chung của xã hội nên Nhà nước phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước đối với họ. Ví dụ, áp dụng biện pháp cưỡng chế để cách li và chữa bệnh
cho những người mắc bệnh truyền nhiễm nhằm tránh sự lây lan trong cộng đồng; hoặc trường
hợp Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình công cộng như quảng
trường, sân vận động, đường giao thông… -
Khi Nhà nước thấy cần xác nhận sự tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế nào đó
theo quy định của pháp luật. Ví dụ, Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của di chúc; Ủy ban
nhân dân chứng thực văn bản, giấy tờ... -
Khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích theo quy
định của pháp luật. Ví dụ, khi chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về thi đua, khen
thưởng để công nhận thành tích và trao tặng giấy khen, bằng khen, danh hiệu vinh dự Nhà
nước cho một cá nhân, tổ chức nào đó. -
Khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể
trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Viện kiểm sát
nhân dân áp dụng pháp luật để kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự.
Trong số các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thì áp dụng pháp luật là hình thức
quan trọng nhất và có vai trò quyết định vì nếu thiếu hình thức này thì phần lớn các quy định
của pháp luật sẽ không thể trở thành hiện thực trong thực tế. Hình thức này có thể bao hàm cả
ba hình thức trên, tức là trong quá trình áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền vừa
phải tuân theo pháp luật, vừa phải thi hành pháp luật và vừa được sử dụng pháp luật.
II. Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 4 11 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
1.1. Định nghĩa ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội được phát sinh, hình thành cùng với
ý thức chính trị trong xã hội. Trong xã hội có các giai cấp đối kháng thì ý thức pháp luật của
các giai cấp này luôn mâu thuẫn với nhau, trong đó chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống
trị hay lực lượng cầm quyền mới được thể hiện đầy đủ trong pháp luật.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, tâm
trạng, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, thể
hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, sự đánh giá về tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi của các chủ thể2.
Ý thức pháp luật được thể hiện thông qua sự hiểu biết pháp luật hay trình độ, kiến thức
pháp lý, qua thái độ đối với pháp luật cũng như qua các hành vi pháp luật thực tế của con
người. Ý thức pháp luật được thể hiện qua ý thức pháp luật của cá nhân, của nhóm xã hội và của giai cấp.
1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có các đặc điểm sau: -
Ý thức pháp luật là một trong các hình thái ý thức xã hội, vì vậy nó luôn chịu sự chi
phối của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, thể hiện:
+ Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Nhiều khi tồn tại xã hội cũ
đã mất đi nhưng ý thức pháp luật cũ vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài. Ví dụ, tâm lí trọng
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2017, tr. 444.
Pháp luật đại cương – Bài 4 12 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
nam, khinh nữ; phép vua thua lệ làng... hình thành từ thời kỳ phong kiến nhưng vẫn còn tồn
tại trong xã hội hiện nay ở nước ta.
+ Tuy nhiên, tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học lại có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng pháp luật mới có thể sinh ra trong lòng xã
hội cũ. Ví dụ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành từ xã hội trước.
+ Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, đối với ý thức chính trị, đạo
đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc như Nhà nước và pháp luật. -
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp. Nội dung của ý thức pháp luật luôn
phản ánh những nhu cầu về chính trị, thể hiện thái độ của các giai cấp, tầng lớp xã hội đối với
các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành có liên quan trực tiếp đến đời sống chính trị, xã hội.
Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng tồn tại một số hệ thống ý thức pháp
luật: Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, của các tầng lớp trung gian...
2. Cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật
2.1. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có cấu trúc khá phức tạp. Thông thường, căn cứ vào nội dung, tính chất
của các bộ phận thì ý thức pháp luật được phân thành tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
+ Tư tưởng pháp luật là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, học thuyết, trường phái pháp lý.
Ví dụ, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản về Nhà
Pháp luật đại cương – Bài 4 13 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
nước về pháp luật... Tư tưởng pháp luật của giai cấp thống trị luôn giữ vai trò là tư tưởng chính
thống trong xã hội và được phản ánh trong pháp luật.
+ Tâm lý pháp luật là tổng thể các trạng thái tâm lý của con người như tình cảm, thái độ, tâm
trạng, thói quen, xúc cảm đối với pháp luật được hình thành ở từng người, từng nhóm người
hoặc cả giai cấp dưới ảnh hưởng của pháp luật và sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Tâm
lý pháp luật là yếu tố chủ quan nên phụ thuộc rất lớn vào bản thân từng cá nhân trong xã hội.
Trong tâm lý pháp luật, thái độ đối với pháp luật và thói quen pháp luật là yếu tố quan trọng.
Nhờ có thái độ đối với pháp luật và thói quen pháp luật mà con người hành động một cách rất rõ ràng, dứt khoát.
Giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối quan hệ qua lại với nhau: Tư tưởng
pháp luật tác động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật, làm cho tâm lý pháp luật thêm sâu sắc, ngược
lại, tâm lý pháp luật là tiền đề cho sự hình thành và phát triển các quan điểm, tư tưởng pháp luật.
2.2. Phân loại ý thức pháp luật
Thông thường ý thức pháp luật được chia thành ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật
nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
- Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện cho xã hội,
chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ bản nhất của pháp luật.
Đây là bộ phận tiến bộ, khoa học nên ý thức pháp luật xã hội được chính thức hoá trong toàn xã hội.
Pháp luật đại cương – Bài 4 14 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
- Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình cảm của
một nhóm xã hội nhất định về pháp luật. Ý thức pháp luật nhóm có phạm vi tác động hẹp hơn
so với ý thức pháp luật xã hội.
- Ý thức pháp luật của cá nhân phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình cảm,
thái độ của mỗi người đối với pháp luật và các hành vi pháp luật xảy ra trong thực tế. Ý thức
pháp luật của cá nhân thường thấp hơn ý thức pháp luật xã hội. Vì vậy, cần phải không ngừng
đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân lên ngang tầm
ý thức pháp luật xã hội.
3. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật
- Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trước hết, ý thức pháp luật là cơ sở để hoạch định chính sách xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Trong quá trình quản lý Nhà nước và xã hội, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận
thức, hiểu biết về nhu cầu khách quan của nền kinh tế - xã hội, các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xây dựng pháp luật sẽ xác định các quan hệ xã hội nào cần phải được điều chỉnh bằng
pháp luật và điều chỉnh như thế nào; các quan hệ xã hội nào cần thay đổi biện pháp điều
chỉnh... Từ đó hoạch định các chính sách, kế hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ví dụ,
trước thực trạng tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ngày càng nhiều và nghiêm trọng ở nước
ta, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, Quốc hội nhận thấy cần phải nhanh chóng xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Giao thông đường bộ.
Khi xây dựng pháp luật, trên cơ sở ý thức, nhận thức của mình, các chủ thể có thẩm
quyền căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội, nhu cầu khách quan của đời sống
Pháp luật đại cương – Bài 4 15 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
xã hội để xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp với các điều kiện đó nhằm tăng cường
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện pháp luật, trên cơ sở hiểu biết, kiến thức pháp lý của mình,
những người làm công tác xây dựng pháp luật có thể xác định được những quy phạm và văn
bản quy phạm pháp luật còn phù hợp, có tính khả thi; các quy phạm và các văn bản quy phạm
pháp luật không phù hợp, cần được thay thế… Trên cơ sở đó tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay
thế các quy phạm và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, làm cho hệ thống pháp luật
ngày càng hoàn thiện hơn. Ví dụ, khi thấy nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1992 không
còn phù hợp, Quốc hội đã tổ chức soạn thảo văn bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
- Ý thức pháp luật là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong thực tế, đặc biệt, ý
thức pháp luật là cơ sở để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác.
Ý thức pháp luật của mỗi người được thể hiện thông qua trình độ kiến thức pháp lý, hiểu
biết pháp luật (có thể là cao hay thấp), thái độ đối với pháp luật (có thể là tôn trọng, ủng hộ
hoặc coi thường, chống đối) và hành vi pháp luật thực tế của người đó (có thể là hợp pháp
hoặc bất hợp pháp). Khi mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu
biết đúng đắn yêu cầu của các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của mình, đều có
thái độ, tình cảm tôn trọng, ủng hộ các quy định của pháp luật và luôn có các hành vi hợp pháp
thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác.
Trong quá trình áp dụng pháp luật, muốn bảo đảm công lý, công bằng xã hội thì các
quyết định được ban hành phải đúng đắn, chính xác. Muốn đưa ra được các quyết định áp
dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu trên thì chủ thể áp dụng phải hiểu rõ các yêu cầu, đòi hỏi của
pháp luật để lựa chọn đúng quy phạm pháp luật cần áp dụng, giải thích quy phạm đó phù hợp
Pháp luật đại cương – Bài 4 16 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
với trường hợp cần áp dụng và có ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh quy phạm đó trong quá trình áp dụng.
4. Phổ biến, giáo dục pháp luật
4.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội nhằm
tăng cường sự hiểu biết pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, từ đó hình thành ý
thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo những yêu cầu của pháp luật.
4.2. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
- Trước hết, cần phổ biến, giáo dục các quy định của Hiến pháp và luật mà trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng
giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao
thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan Nhà
nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
- Phổ biến, giáo dục các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Phổ biến, giáo dục về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật;
lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong việc thực hiện pháp luật.
Đây là những nội dung của phổ biến và giáo dục pháp luật cho mọi cá nhân trong xã hội.
Đối với một số đối tượng đặc thù như người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, nạn nhân bạo lực gia đình, người khuyết tật, người đang
chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, nhóm người dễ bị tổn thương… thì những nội
dung của phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được nhấn mạnh phù hợp với nhu cầu nâng cao ý
Pháp luật đại cương – Bài 4 17 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
thức pháp luật của các nhóm đối tượng đặc thù này, giúp họ khắc phục nhanh chóng, kịp thời
những hạn chế về ý thức pháp luật cũng như hình thành ở họ ý thức pháp luật tích cực, ý thức
tôn trọng pháp luật từ đó hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
4.3. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức chủ yếu sau:
- Họp báo, thông cáo báo chí: Đây là hình thức phổ biến, trong đó các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền tổ chức các cuộc họp báo hay ra các thông cáo báo chí về các văn bản pháp
luật vừa được công bố để mọi cá nhân trong xã hội nắm được các thông tin kịp thời về các
văn bản pháp luật mới ban hành này.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin,
tài liệu pháp luật: Đây là hình thức giáo dục pháp luật, trong đó các cơ quan có thẩm quyền
trực tiếp tư vấn, cung cấp các thông tin, tài liệu cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu cần có
các thông tin cần thiết về pháp luật phục vụ cuộc sống của họ, như thông tin về thành lập
doanh nghiệp, thông tin về việc đổi tên khai sinh…
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô,
ápphích, tranh cổ động; đăng tải trên công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông
tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư. Đây là một hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật khá hiệu quả. Ngày nay truyền thông đã trở thành một công
cụ hữu hiệu để cung cấp, trao đổi thông tin nói chung và thông tin về pháp luật nói riêng.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật. Đây cũng là một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
có hiệu quả. Thông qua các cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật phổ thông hay kiến thức
pháp luật chuyên đề sẽ tạo hiệu ứng tích cực trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật.
Pháp luật đại cương – Bài 4 18 lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân. Đây là hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan chức năng khác trong bộ máy Nhà nước. Thông qua hoạt động giải
quyết các vụ việc của mình, các cơ quan này giúp các bên liên quan trong vụ việc cũng như
người dân nói chung hiểu biết hơn về các quy định của pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật.
- Thông qua việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân cho các dự án luật. Việc tham gia
đóng góp ý kiến của nhân dân vào các dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua việc lấy ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành
và thực thi pháp luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức về trách nhiệm pháp lý và
khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác. Đồng thời, qua hoạt động này,
sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, hiểu rõ hơn giá trị xã hội và pháp luật.
Có thể nói, thái độ chấp hành hay không không chấp hành của người dân đối với pháp luật là
kết quả của sự am hiểu và tôn trọng pháp luật. Mặt khác, cũng thấy rằng con người chấp hành
pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
Bên cạnh các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật kể trên, còn có các hình thức khác
như lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông qua chương trình giáo dục pháp luật
trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân... Những hình thức này được tổ chức
linh hoạt tùy thuộc vào các cơ quan, tổ chức nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất của hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật.
III. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật đại cương – Bài 4 19 D lOMoAR cPSD| 59732875
Trường Đại học Mở Hà Nội
Mở c ơ hội học tập cho mọi người
Vi phạm thường được hiểu là hành vi làm trái các quy định. Trong lĩnh vực pháp lý, vi
phạm pháp luật được định nghĩa: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ
thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu sau:
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của con người. Pháp luật được ban hành
để điều chỉnh hành vi của các chủ thể. Điều này có nghĩa là pháp luật không điều chỉnh ý nghĩ,
tư tưởng của con người. Các-Mác đã nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với
pháp luật, không phải là đối tượng của nó. Phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể
mới có thể xác định được họ có vi phạm pháp luật hay không. Thông qua hành vi, con người
mới tác động làm thay đổi thế giới khách quan, mới có khả năng gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của pháp luật. Những gì còn nằm trong ý nghĩ, tư tưởng của con
người mà chưa thể hiện ra bên ngoài thì không thể làm biến đổi thế giới khách quan, không
có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nên không thể coi là vi phạm pháp luật được.
Ví dụ, một người thông qua các hành vi: “điều khiển xe mô tô đi vào đường cấm, khu vực
cấm”; “đi ngược chiều của đường một chiều hay vượt bên phải trong các trường hợp không
được phép”… mới gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho những người cùng tham gia giao
thông. Những hành vi này vi phạm các quy định tại Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày
02/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật. Vi phạm pháp luật là xử sự trái với
các yêu cầu của pháp luật. Hành vi trái pháp luật được thể hiện dưới các hình thức:
Pháp luật đại cương – Bài 4 20