











Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077 Bài bào chữa
(Vụ Vũ Thanh Đức – Quảng Bình)
Kính thưa HĐXX, kính thưa vị đại diện VKS, kính thưa tất cả các vị có mặt tại phiên tòa,
Tôi là luật sư Chu Mạnh Cường, thuộc văn phòng luật sư Phạm Hồng
Hải và cộng sự, đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Theo lời mời của Bị cáo Vũ
Thanh Đức, tôi có mặt với tư cách là người bào chữa cho bị cáo Đức tại phiên tòa hôm nay.
Trước hết, tôi xin được bày tỏ sự cám ơn tới HĐXX đã tạo điều kiện
cho tôi được nghiên cứu hồ sơ vụ việc, tham dự phiên tòa. Qua các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án, căn cứ các chứng cứ đã được thẩm định tại phiên tòa, sau
khi nghe quan điểm của vị đại diện VKS, tôi xin được trình bày một số ý kiến như sau:
Bị cáo Đức bị VKS tỉnh Quảng Bình truy tố về tội “Tham ô tài sản”
theo điểm a khoản 3 điều 278 BLHS với tình tiết định khung là: “Chiếm đoạt
tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”. Tuy
nhiên, qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm định tại phiên
tòa, Tôi cho rằng, không có đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Đức đã chiếm
đoạt số tiền 272.313.334đ. Những chứng cứ mà VKS căn cứ để kết luận bị
cáo Đức chiếm đoạt tiền trên không có giá trị pháp lý. Trong vụ án này có quá
nhiều bất hợp lý, mâu thuẫn. Cụ thể tôi xin chứng minh như sau:
I/ Căn cứ vào các chứng cứ không có giá trị pháp lý.
1/ VKS cho rằng lời khai của các nhân chứng, bị cáo khác tại các tiểu ban
huyện đều khai bị cáo Đức nhận tiền trích lại. Như vậy là “Có tính thống
nhất” giữa các lời khai, từ đó để kết luận Đức nhận tiền.
Xem xét toàn bộ các lời khai của các nhân chứng, bị cáo khác tại các
tiểu ban thì đúng là có một sự thống nhất. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố
tụng đã không đánh giá “Tính thống nhất” này một cách toàn diện, cụ thể như
sau: Toàn bộ các lời khai đều thể hiện thống nhất hai nội dung : Một là:
Ban quản lý dự án tỉnh có chủ trương các tiểu ban, hàng quý khi thanh toán
phải trích lại một khoản chi phí để Ban quản lý dự án tỉnh lấy kinh phí hoạt lOMoAR cPSD| 22014077
động. Hai là: Để thực hiện chủ trương trên, Bị cáo Đức, với vai trò là thư ký,
là người trực tiếp nhận số tiền trích lại đó. Hai nội dung trên liên kết chặt chẽ
với nhau, nội dung thứ nhất là tiền đề, nguyên nhân để nội dung thứ hai được thực hiện.
Tuy nhiên, qua quá trình điều tra, chính cơ quan điều tra đã kết luận:
“Ban dự án tỉnh không có chủ trương trích lại tiền”. Vậy thì, qua kết luận
này ta thấy rằng cái gọi là “Tính thống nhất” trong lời khai đã không còn.
Toàn bộ lời khai về “Chủ trương trích lại tiền của Ban dự án tỉnh” là không đúng sự thật.
Khi mà chính Cơ quan điều tra đã kết luận nội dung thứ nhất: “Ban dự
án tỉnh không có chủ trương trích lại tiền” thì nội dung thứ hai: “hàng quý,
khi thanh toán, các tiểu ban phải trích lại tiền cho bị cáo Đức” và đặc biệt
sự kết luận: “Bị cáo Đức một mình chiếm đoạt toàn bộ số tiền 272 triệu”
trở lên bất hợp lý, bởi vì:
- Bị cáo Đức chỉ là một thư ký dự án, không có quyền hành gì để đến
mức cả 6 tiểu ban dự án ở các huyện (mà thành phần gồm phó chủ tịch
huyện, giám đốc các trung tâm y tế, các bác sĩ – đều là những người có
trình độ, có chức vụ và cả một bộ máy nhân viên y tế hàng mấy trăm
con người ở các huyện) lại phải “sợ” đến mức hàng quý phải nộp tiền
để bị cáo Đức chiếm đoạt một mình. Đây là một vấn đề mà bất cứ người
nào cũng nhìn thấy sự vô lý.
- Quy trình thanh toán của dự án được quy định rất chặt chẽ. Để thanh
toán phải có 6 chữ ký, cụ thể là: Người làm đơn đề nghị thanh toán ký,
lãnh đạo tiểu ban huyện ký duyệt, thư ký dự án tỉnh ký duyệt về mặt
chuyên môn, kế toán dự án tỉnh kiểm tra về tài chính, anh Yến phó ban
dự án tỉnh ký duyệt, cuối cùng mới chuyển cho chị Hà trưởng ban dự
án tỉnh ký. Với quy trình chặt chẽ như vậy, với những người có trình
độ, chức vụ, kinh nghiệm ký duyệt như vậy, nếu không có chủ trương
chung của Ban dự án tỉnh thì bị cáo Đức không thể “qua mặt” một bộ
máy như vậy để một mình chiếm đoạt tiền trong cả một quãng thời
gian dài 5 quý, tại 6 tiểu ban huyện như vậy.
Về cơ sở pháp lý, cái gọi là “Tính thống nhất trong các lời khai” chưa thể
là cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Đức nhận tiền. Trong vụ án này, tôi không
kết luận rằng các cơ quan tiến hành tố tụng đã ép cung, mớm cung, dụ cung lOMoAR cPSD| 22014077
để có được sự “thống nhất” đó. Tuy nhiên, theo bị cáo Đức thì: “khi mới bị
bắt giam, vì điều tra viên nói với bị cáo là cứ nhận đi, rồi sẽ trả tự do ngay,
vì đang trong tâm trạng quá căng thẳng về thần kinh nên bị cáo Đức đã
chấp nhận đề nghị của ĐTV và viết bản tự khai theo số liệu ĐTV cung cấp.
Khi đối chất với bị cáo Đức, các bị cáo khác cầm một tờ giấy đánh máy do
ĐTV đưa cho để theo đó mà trình bày”. Nội dung trên chỉ là lời khai của bị
cáo Đức, về vấn đề này, chúng ta biết rằng rất khó có thể đưa ra chứng cứ.
Tuy nhiên, xem xét các chứng cứ, tôi thấy rằng có dấu hiệu không bình
thường, tôi xin trình bày để HĐXX xem xét đánh giá:
- Bản tường trình ngày 15/10/2006 của bị cáo Đỗ Thanh Phi (BL 555 –
562) viết trong lúc đang bị tạm giam, dài 16 trang. Nội dung liệt kê lại
chi tiết quá trình diễn biến vụ việc từ quý 1/2005 đến hết quý 1/2006.
Trong đó kê chi tiết tất cả các lần thanh toán, các khoản chi. Tôi tổng
hợp được có 202 mục tiền, chi tiết đến từng trăm lẻ (nêu ví dụ).
- Bản tường trình ngày 04/10/2006 của bị cáo Trần Quốc Tuấn (BL 276
– 281) viết trong lúc đang bị tạm giam, dài 11 trang. Nội dung liệt kê
lại chi tiết quá trình diễn biến vụ việc từ quý 1/2005 đến hết quý 1/2006.
Trong đó kê chi tiết tất cả các lần thanh toán, các khoản chi. Tôi tổng
hợp được có 221 mục kê tiền chi tiết đến từng trăm lẻ (nêu ví dụ).
Điều bất hợp lý trong hai bản tường trình này là các “mục kê tiền” trên
được kê chính xác đến từng đồng nhỏ? Một người đang trong trại giam, không
có các giấy tờ, tài liệu bên cạnh thì không thể viết được một bản kê với các số
liệu về tiền chi tiết như vậy? Vậy thì có việc cung cấp tài liệu để bị cáo Phong,
Tuấn viết không? Và nếu có thì đó có phải là “Mớm cung” không? Nếu làm
rõ được hai chứng cứ “có nhiều nghi vấn” này, chúng ta có thể hiểu tại sao
các cơ quan tiến hành tố tụng lại có thể “Tạo ra” cái gọi là “Các huyện đều
thống nhất khai” để kết tội bị cáo Đức, rất mong HĐXX công minh xem xét.
Kính thưa HĐXX, qua nội dung đã phân tích, cái gọi là “lời khai thống
nhất của các tiểu ban” đã được chính các cơ quan tiến hành tố tụng xác minh
là sai sự thật, đầy mâu thuẫn, chứng cứ có dấu hiệu “không bình thường”
như trên, Tôi cho rằng không thể căn cứ vào đó để kết luận bị cáo Đức nhận tiền được.
2/ Chỉ căn cứ vào lời khai không chứng cứ. lOMoAR cPSD| 22014077
Theo quy định của pháp luật về tài chính kế toán thì các chứng từ kế
toán, giấy biên nhận tiền là những chứng cứ hợp pháp, hợp lệ có giá trị chứng
cứ. Cáo trạng của VKS kết luận bị cáo Đức chiếm đoạt 272 triệu chỉ căn cứ
vào lời khai của các bị cáo khác, nhân chứng liên quan với nội dung là sau khi
các tiểu ban nhận tiền thanh toán hàng quý, phải trích lại cho bị cáo Đức một
số tiền theo thỏa thuận (30%, 50%). Tuy nhiên, những người khai như vậy
không ai đưa ra được một giấy tờ, chứng cứ gì thể hiện là đã đưa tiền trích lại
cho bị cáo Đức. Trong khi đó, về phía họ, khi nhận tiền đều có đầy đủ chứng
từ, giấy biên nhận xác nhận rằng họ đã nhận đầy đủ số tiền theo các chứng từ đề nghị thanh toán.
Ngay tại phiên tòa cả 6 huyện đều khai:Đây là chủ trương của ban dự
án tỉnh và Đức là người trực tiếp trích lại tiền.Nhưng không huyện nào đưa ra
được một chứng cứ gì để chứng minh Đức đã nhận tiền.VKS vẫn cho rằng có
tính thống nhất trong các lời khai này.Trong khi đó,ngay tại phiên tòa HĐXX
đã hỏi những người luôn đi bên cạnh,công tác cùng Đức,như chị Hà,anh
Yến,chị Hồng,chị Tiện họ đều khẳng định tỉnh không có chủ trương trích lại
tiền và chưa bao giờ nghe thấy bất cứ dư luận ,hay điều tiếng gì về việc anh
Đức nhận tiền .Tôi thấy rằng đây cũng có thể coi là tính thống nhất trong các
lời khai để chứng minh Đức không nhận tiền.Chúng ta thấy rằng tính thống
nhất trong các lời khai của các huyện không có chứng cứ chứng minh,còn tính
thống nhất trong các lời khai của những người luôn đi công tác,làm việc trong
ban dự án cùng Đức đã được chính các cơ quan tiến hành tố tụng xác minh
công nhận,hơn nữa đã được xác minh lại ngay tại tòa,vậy thì chúng ta nên tin
vào lời khai nào?Đương nhiên chúng ta phải tin vào những lời khai đã được
xác minh và có cơ sở pháp lý.
Điều 64, khoản 2 Bộ luật TTHS quy định: “Chứng cứ được xác định
bằng: a/ vật chứng; b/ Lời khai …” Theo quy định của điều luật, theo thực tế
cuộc sống thì “Vật chứng” có giá trị pháp lý và đáng tin cậy hơn “Lời khai”.
Trong vụ án này, các giấy biên nhận tiền, chứng từ kế toán có chữ ký đã nhận
đầy đủ tiền của các tiểu ban chính là “Vật chứng”. Nếu các tiểu ban không
thể đưa ra được giấy tờ gì xác nhận đã giao tiền cho bị cáo Đức thì không thể
buộc bị cáo Đức phải chịu trách nhiệm về số tiền đó được.
Trong bản luận tội của VKS có viết lời khai chỉ trở thành chứng cứ khi
lời khai phù hợp với các lời khai khác.Điều này thứ nhất không có quy định
trong luật TTHS,thứ hai chính lời khai của các nhân chứng ngay tại tòa chứa
đựng mâu thuẫn,không có chứng cứ mà chính Cơ quan ĐT đã xác minh điều
đó về sự mâu thuẫn đó lOMoAR cPSD| 22014077
3/ Các giấy tờ có bút tích của bị cáo Đức:
Các cơ quan tiến hành tố tụng kết luận bị cáo Đức đã hướng dẫn các
tiểu ban làm khống chứng từ thanh toán để lấy tiền chia nhau. Kết luận này
chỉ cũng chỉ căn cứ vào các lời khai, không có văn bản gì chứng minh. Theo
sự phân công nhiệm vụ thì bị cáo Đức với vai trò là Thư ký dự án có trách
nhiệm hướng dẫn các tiểu ban các vấn đề nghiệp vụ. Tuy nhiên, hướng dẫn về
nghiệp vụ và hướng dẫn làm khống chứng từ hoàn toàn khác nhau.
Cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào một tờ giấy đi đường trên đó có
chữ viết của bị cáo Đức viết hộ, một tờ giấy nháp trên có có chữ viết của bị
cáo Đức để suy luận là bị cáo Đức hướng dẫn các tiểu ban làm khống chứng
từ là không đủ cơ sở pháp lý, bởi vì: Nội dung viết trên giấy đi đường chỉ là
ngày tháng, người ta hoàn toàn có thể viết hộ người khác vì nhiều lý do, không
thể căn cứ vào đó để suy luận là bị cáo hướng dẫn làm khống chứng từ, và sau
đó suy luận là bị cáo nhận tiền trích lại.
4/ Lời khai nhận tội của bị cáo Đức:
Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào hai lời khai của bị cáo Đức để
kết luận bị cáo chiếm đoạt 272 triệu. Tuy nhiên, tôi cho rằng hai lời khai đó
không có giá trị pháp lý, bởi vì:
4.1. Bản tự khai ngày 29/06/2006.
Bị cáo Đức bị bắt tạm giam ngày 21/06/2006. Trong trại giam, vì là thương
binh sọ não, với áp lực của việc bị bắt tạm giam, bị cáo đã bị trấn động về thần
kinh đến mức phải điều trị tại trạm xá của trại. Trong thời gian điều trị bệnh
thần kinh, bị cáo đã viết bản tự khai ngày 29/06/2006 với một số nội dung:
- Ban dự án tỉnh chủ trương trích lại tiền từ các tiểu ban.
- Tổng số tiền đã nhận vào khoảng 286 triệu
- Số tiền trích lại đã được chi cho hoạt động chung của dự án: anh Yến,
chị Hà tiếp khách, Hồng giao dịch, bồi dưỡng cho chị Tiện thủ quỹ khoảng 92 triệu
- Đã chi bồi dưỡng cho chị Hà, anh Yến, chị Hồng mỗi người 40 triệu.
Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác minh: Ban dự án tỉnh
không có chủ trương trích lại tiền, không có việc sử dụng tiền cho hoạt động lOMoAR cPSD| 22014077
chung của dự án, chị Hà, anh Yến, chị Hồng đều không nhận tiền. Vậy thì lời
tự khai của một người đang bị giam giữ, trong lúc bị trấn động về thần kinh
đến mức phải điều trị tại trạm xá, lời khai chứa đựng 4 nội dung thì 3 nội dung
đã được xác minh là không đúng sự thật, vậy thì nội dung còn lại có đúng sự
thật không? Tôi cho rằng không thể sử dụng một lời khai được thực hiện khi
đang phải điều trị thần kinh, và nội dung thì mâu thuẫn, không đúng sự thật
như vậy để buộc tội bị cáo, kính mong HĐ xem xét.
4.2. Biên bản hỏi cung ngày 07/08/2006.
Bản cung ngày 07/08/2006, bị cáo Đức cũng khai lại nội dung như bản tự
khai ngày 29/06/2006. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã xác minh nội dung lời
khai của bị cáo Đức là không đúng sự thật (không có chủ trương, chị Hà, anh
Yến, chị Hồng không nhận tiền …). Thêm nữa, bản cung này vi phạm nghiêm
trọng tố tụng, bởi vì:
- Theo điều 132 BLTTHS : “Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký
vào từng trang của biên bản”. Trong bản cung này có 4 trang, không
có chữ ký của bị cáo Đức trên từng trang như quy định của điều luật.
- Điều 131 bộ luật TTHS quy định: “Trước khi hỏi cung, Điều tra viên
phải … giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định
tại điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản”.
Trong biên bản hỏi cung này thể hiện khi thực hiện việc hỏi cung, Điều
tra viên đã không giải thích cho bị can về quyền và nghĩa vụ theo quy
định do đó trong bản cung này không có chữ ký của bị cáo Đức tại mục
ký xác nhận việc đã được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Kính thưa HĐXX, điều 72 khoản 2 bộ luật TTHS quy định : “Lời nhận tội
của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các
chứng cứ khác của vụ án”. Điều 64 quy định: “Chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định”. Đối chiếu
hai bản tự khai ngày 29/06 và biên bản hỏi cung ngày 07/08/2006, tôi thấy rằng:
Về bản tự khai ngày 29/06/2005: Bản khai được thực hiện trong thời gian
điều trị về bệnh thần kinh. Nội dung sai sự thật, không phù hợp với những gì
cơ quan tiến hành tố tụng đã xác minh. lOMoAR cPSD| 22014077
Bản cung ngày 07/08/2006: Về mặt tố tụng thì vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng. Về nội dung thì sai sự thật, đã được chính các cơ quan tiến hành tố tụng xác minh.
Vậy kính đề nghị HĐ không coi hai tài liệu trên là chứng cứ của vụ án.
Kính thưa HĐXX, qua nội dung đã phân tích trên, tôi cho rằng các căn cứ
mà VKS dựa vào để kết luận bị cáo Đức nhận tiền chưa đủ cơ sở pháp lý.
II/ Trong vụ án này, có rất nhiều điểm bất hợp lý, mâu thuẫn, cụ thể như sau:
1/ Về trường hợp của bị cáo Hồng:
Trong cáo trạng có ghi: “Khi đến các tiểu ban dự án huyện, Vũ Thanh
Đức (có cả Hồng) cũng đặt vấn đề với các giám đốc, phó giám đốc các trung
tâm y tế huyện, … Yêu cầu trích lại 50% tiền thanh toán…”.
Các nhân chứng, bị cáo khác cũng đều khai: Hồng cũng biết việc trích
lại, có lần còn trực tiếp nhận tiền trích lại, và còn trực tiếp tham gia hướng dẫn
viết khống phần nhiên liệu. Tuy vậy, VKS lại kết luận bị cáo Hồng không
được chia tiền, không phải chịu trách nhiệm về số tiền chiếm đoạt cùng với bị
cáo Đức, đây là điều bất hợp lý, xét về logic chúng ta thấy rằng: khi một người
biết đồng nghiệp của mình đang làm trái để chiếm đoạt tiền, bản thân cũng
trực tiếp tham gia vào việc làm trái đó thì không thể có chuyện họ không được
hưởng gì. Đây là một điểm bất hợp lý trong kết luận của các cơ quan tiến hành
tố tụng. Về tính logic thì chỉ có thể xảy ra các tình huống sau: Một là: Nếu
Hồng biết việc Đức chiếm đoạt tiền một mình thì Hồng phải báo cáo với cấp
trên, Hai là: Hồng cũng phải được chia phần tiền. Với kết luận của VKS như
trên thì chỉ có thể kết luận là lời khai của các bị cáo, nhân chứng là không đúng sự thật.
2/ Nhận định suy diễn vô lý.
Trong cáo trạng có ghi lại quá trình thanh toán quý IV/2005 cho tiểu
ban dự án huyện Quảng Ninh: “Ngày 25/12/2005, anh Trần Văn Thiệu đi
cùng anh Nguyễn Viết Đoài, Nguyễn Văn Mĩnh lên Ban quản lý dự án tỉnh
họp và thanh toán. Đức và Hồng thanh toán chứng từ được 24.185.000đ
(trong đó khống 28 ngày công với số tiền 7.722.000đ, gồm: Y tế huyện giám lOMoAR cPSD| 22014077
sát y tế xã 2.800.000đ; xăng xe đi giám sát xã 420.000đ; nhiên liệu tuyến
huyện 785.000đ; vận động nhân dân mua màn 3.717.000đ), Đức đặt vấn đề
trích lại cho ban quản lý dự án tỉnh khoản “Vận động nhân dân mua màn
và y tế huyện giám sát xã là 6.022.500đ.
Nên sau khi họp xong lúc khoảng 11h, anh Thiệu đến chị Tiện nhận đủ
tiền thanh toán. Theo thỏa thuận trước, anh Thiệu khai khi đưa tiền trích
lại cho Đức thì gặp Hồng ở tầng 2, nên đã đưa 6.022.500đ cho Hồng và nói
lại với Đức biết ngay khi Đức vừa đi đến, đang đứng cùng anh Mĩnh ở cửa
phòng Hồng, nhưng Hồng không thừa nhận. Do Đức đã đặt vấn đề trước
với anh Thiệu nên Đức phải chịu trách nhiệm”
Phân tích lời khai của anh Thiệu ta thấy rằng: Thiệu khai đưa tiền cho
Hồng, Hồng không thừa nhận, cơ quan điều tra cũng đã kết luận Hồng không
nhận, vậy thì ai đưa tiền cho Đức (?) không chứng minh được điều đó mà lại
bắt Đức phải chịu trách nhiệm là áp đặt, vô lý ?
Qua tình tiết trên, chúng ta thấy rằng trong vụ án này các cơ quan tiến
hành tố tụng có khuynh hướng suy luận “áp đặt tội” cho bị cáo Đức, ai khai
đưa bao nhiêu, mặc dù không có chứng cứ, suy diễn chứng cứ vô lý nhưng
vẫn buộc bị cáo Đức phải chịu.
3/ Chiếm đoạt cả tiền thanh toán hợp lệ:
Trong cáo trạng, tại phần thanh toán cho tiểu ban dự án huyện Bố Trạch
quý III/2005 (trang 7) có ghi: “Đức tự trích lại số tiền 15.352.700đ, trong đó
có 1.875.000đ tiền thanh toán hợp lệ, còn 13.477.700đ là thanh toán khống”.
Trong bản tường trình do bị cáo Phi viết (BL 629) có ghi:
Quý 1/2006, tổng thanh toán của Minh Hóa là: 44.695.400đ
Số tiền thanh toán hợp lệ: 24.861.900đ
Số tiền làm khống chứng từ: 19.833.500đ (cáo trạng ghi là: 22.533.500đ)
Số tiền trích lại cho dự án tỉnh: 20.840.500đ (trong đó tiền hợp lệ là
5.407.000đ, và tiền khống là 15.433.500đ) (cáo trạng ghi trích lại là 15.433.500đ) lOMoAR cPSD| 22014077
Như chúng ta hiểu thanh toán hợp lệ là khoản thanh toán thực tế mà tiểu
ban đã chi để thực hiện công việc. Nếu bị cáo Đức giữ lại tiền thanh toán hợp
lệ thì tiểu ban lấy tiền đâu để thanh toán cho các khoản chi thực tế đã phát
sinh? Chắc chắn rằng các tiểu ban không khi nào chấp nhận mang tiền nhà đi
để làm việc cho dự án? (So sánh thêm phần lệch về số liệu với cáo trạng).
4/ Lời khai không đúng sự thật vẫn được coi là chứng cứ.
Việc nhận tiền trích lại tại tiểu ban dự án huyện Lệ Thủy, bị cáo Phong
khai: Quý 1/2005 giao tiền trích lại cho bị cáo Đức tại phòng làm việc, bị cáo
Hồng là người chứng kiến: “Sau khi anh Đức nhận tiền ở tôi thì có trao đổi
ngay với chị Hồng các khoản trích lại ngay trước mặt tôi để cho chị Hồng
biết” (BL 557), tuy nhiên, bị cáo Hồng đã khai trước cơ quan điều tra là không
biết việc này. Qua kết luận của cơ quan điều tra là Hồng không được chia tiền
là một chứng cứ khẳng định lời khai trên của Phong là không đúng sự thật.
Trong lần giao tiền sau, tại quán cà phê “Giọt Đắng”, bị cáo Phong
khai rằng khi Phong giao tiền cho Đức, chị Mai chủ quán cà phê “Giọt Đắng”
có chứng kiến và còn hỏi Phong “tiền bạc chi rứa” (BL 540). Tuy nhiên, cơ
quan điều tra đã xác minh và chị Mai đã khẳng định: “Việc anh Phong khai
với cơ quan điều tra ngày 30/09/2005, tôi (Mai) có thấy anh Phong giao tiền
cho khách nào đó tại quán tôi trong lúc uống cà phê và sau đó tôi (Mai) có
hỏi anh Phong “tiền bạc chi rứa” là không có” (BL 4712).Vậy mà trong bản
luận tội tôi vẫn thấy vị đại diện VKS vẫn đưa vào để coi là một căn cứ buộc tội bị cáo Đức.
Qua những lời khai, sự xác minh của cơ quan điều tra, chúng ta thấy
rằng bị cáo Phong khai đưa tiền cho Đức (không có giấy biên nhận), những
người mà Phong đưa ra để làm chứng cho việc giao tiền (chị Hồng, chị Mai)
đều khẳng định rằng không chứng kiến việc Phong giao tiền. Vậy thì lời khai
của Phong là không đúng sự thật. Với các chứng cứ như vậy, lẽ ra các cơ quan
tiến hành tố tụng phải không công nhận việc Phong đưa tiền cho Đức. Vậy mà
các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn căn cứ vào các lời khai như vậy để kết luận
bị cáo Đức nhận tiền là trái với quy định của pháp luật, không công bằng cho bị cáo Đức.
5/ Số liệu mâu thuẫn. lOMoAR cPSD| 22014077
5.1. So sánh số tiền “huyện giám sát xã” trong tờ trình (BL 531) và Bản tự
khai (BL 556 – 562) do bị cáo Phong khai, có sự chênh lệnh: Thời gian Tờ trình (BL 531) Bản tự khai (BL 556) Quý 1/2005 11.755.000đ 11.200.000đ Quý 2/2005 24.617.600đ 22.400.000đ Quý 3/2005 24.617.000đ 22.400.000đ Quý 4/2005 13.162.600đ 11.200.000đ Quý 1/2006 11.586.000đ 11.200.000đ
5.2. Trong “Tờ trình” do bị can Đỗ Thanh Phong viết (BL 534) có ghi “Kinh
phí giám sát thường xuyên … trích lại cho Ban dự án tỉnh 30 % số kinh
phí”. Trong khi đó, trong bản tự khai của bị can Phong viết khi đang bị giam
(BL 556 - 562), việc thanh toán trong các quý 1, 2, 3/2005, lại ghi trích lại cho
Ban dự án tỉnh 50% kinh phí huyện giám sát xã, cụ thể:
Quý 1/2005 thanh toán huyện giám sát xã là 11.200.000đ, phần trích lại cho
tỉnh là 5.600.000đ (=50%);
Quý 2/2005 thanh toán huyện giám sát xã là 22.400.000đ, phần trích lại cho
tỉnh là 11.200.000đ (=50%)
Quý 3/2005 thanh toán huyện giám sát xã là 22.400.000đ, phần trích lại cho
tỉnh là 11.200.000đ (=50%).
Kính thưa HĐXX, qua việc so sánh số liệu đầy mâu thuẫn, lời khai tiền
hậu bất nhất như đã nêu, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Nếu là “Sự thật khách
quan” luôn chỉ có một, tại sao bị cáo Phong lúc khai thế này lúc khai thế khác
về số tiền? khai thỏa thuận trích lại 30% vậy mà lại tính trích lại là 50% ? Các
cơ quan tiến hành tố tụng có thể dựa vào những lời khai tùy tiện, mâu thuẫn,
thiếu chứng cứ như vậy để buộc tội bị cáo Đức đã chiếm đoạt 272 triệu được
không? Tôi rất mong HĐXX công minh xem xét.
6/ Giao tiền cho một người nhưng cáo trạng lại kết luận người khác nhận tiền.
Trong đợt thanh toán quý 3/2005 tại huyện Minh Hóa, tại cáo trạng có
ghi: “Đức tính tiền trích lại 14.726.100đ, còn đưa cho Phi 23.426.100đ”. Theo
cáo trạng thì Đức là người đưa tiền thanh toán quý 3/2005 và Phi là người nhận tiền. lOMoAR cPSD| 22014077
Tại biên bản hỏi cung bị can Phi (BL 714) về đợt thanh toán quý 3/2005,
ĐTV hỏi: “Ai đưa tiền thanh toán cho anh, đưa ở đâu”; Phi trả lời: “Chị Tiện
thủ quỹ đưa tiền thanh toán cho tôi, tại phòng làm việc của đội y tế dự phòng Minh Hóa”.
Tuy nhiên, trong giấy biên nhận tiền quý 3/2005 của huyện Minh Hóa,
người nhận tiền lại là anh Cao Văn Chương (có giấy biên nhận tiền, anh Chương ký).
Qua sự mâu thuẫn của ba chứng cứ trên, chúng ta sẽ đặt câu hỏi: Vậy
sự thật nằm ở đâu? Về tình, về lý, về luật, chắc chắn chúng ta phải căn cứ giấy
biên nhận tiền để kết luận rằng anh Chương là người nhận tiền. Vậy thì tính
trung thực của lời khai, độ tin cậy của các chứng cứ mà VKS căn cứ vào kết
tội bị cáo Đức thế nào? Rất mong HĐXX xem xét.
7/ Về vấn đề tội danh:
VKS truy tố bị cáo Đức tội “Tham ô tài sản” là không đúng quy định
của pháp luật. Điều 278 BLHS quy định về tội tham ô tài sản là: “Người nào
lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm
quản lý …”. Điều luật đã quy định rõ chủ thể của tội tham ô phải là người có
“Chức vụ” hoặc “Quyền hạn” và hành vi khách quan phải là “Chiếm đoạt
tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý”. Đối chiếu quy định của pháp luật
đối với trường hợp bị cáo Đức tôi thấy rằng:
Trong dự án, bị cáo Đức không được coi là người có “chức vụ, quyền
hạn”. Điều 3 mục III trong “Quy chế làm việc của Ban quản lý dự án quỹ
toàn cầu phòng chống sốt rét” quy định rõ nhiệm vụ của bị cáo Đức chỉ là
một “Thư ký dự án” với những nhiệm vụ được giao thuần túy về mặt chuyên
môn. Đặc điểm của tội “Tham ô” phải là hành vi “Chiếm đoạt tài sản mà mình
có trách nhiệm quản lý”. Căn cứ vào sự phân công nhiệm vụ của bị cáo Đức
thì vấn đề tài chính của dự án không phải do bị cáo quản lý. Trưởng và phó
ban dự án mới là những người có chức vụ, quyền hạn quản lý về mặt tài chính.
Trong vụ án này, “NẾU” đủ cơ sở kết luận bị cáo Đức “Tham ô tài sản” thì
chỉ có thể với vai trò người đồng phạm chứ không thể độc lập thực hiện một mình được. III/ Kiến nghị. lOMoAR cPSD| 22014077
Kính thưa HĐXX, với những nội dung đã phân tích trên, tôi thấy rằng
không có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đức đã chiếm đoạt số tiền 272 triệu. Các
chứng cứ trong vụ án mâu thuẫn, bất hợp lý, có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng tố tụng.
Để vụ việc được giải quyết đúng pháp luật, đảm bảo sự công bằng cho
bị cáo Đức – một Đảng viên, một thương binh đã từng đổ máu để bảo vệ Tổ
quốc, một bác sĩ luôn tận tâm cống hiến cho xã hội, tôi kính đề nghị HĐXX
trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ các mâu thuẫn, bất hợp lý trong vụ án.
Trong trường hợp không đủ chứng cứ chứng minh bị cáo Đức nhận tiền thì
cần tuyên bị cáo Đức vô tội.
Rất mong sự công bằng của HĐXX. Trân trọng cám ơn. Luật sư Chu Mạnh Cường