CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (4 TIẾT)
1.1 Sự hình thành phát triển của i chính quốc tế
Trong lịch sử phát triển của hội loài người, Tài chính quốc tế (TCQT) đã ra đời
phát triển từ hình thức đơn giản đến những hình thức phức tạp, đa dạng gắn liền với
những điều kiện khách quan của sự phát triển hội của mỗi quốc gia và của đời sống
quốc tế trên cả khía cạnh kinh tế khía cạnh chính trị.
Những hình thức khai của quan hệ i chính quốc tế như việc trao đổi, buôn
bán ng hóa giữa các quốc gia, cống nộp vàng bạc, châu báu giữa nước này với nước
khác đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu lệ gắn liền với Nhà nước chủ nô. Cùng với s
phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã ra đời để điều
chỉnh các quan hệ buôn bán giữa các quốc gia tín dụng quốc tế đã xuất hiện do các
quan hệ vay nợ giữa các ớc. o cuối thời kỳ phong kiến, tín dụng quốc tế đã bước
phát triển mạnh m đã trở thành một trong những đòn bẩy mạnh mẽ nhất của tích lũy
nguyên thủy bản.
Với sự xuất hiện của Ch nghĩa bản, những hình thức cổ truyền của quan hệ Tài
chính quốc tế như thuế xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế vẫ tiếp tục tồn tại ngày càng
phát triển đa dạng thích ứng với những ớc phát triển mới của các quan hệ kinh tế quốc
tế thái độ chính trị của các Nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa
tiền tệ, kinh tế thị trường, những diễn biến phức tạp của cục diện chính trị thế giới, cũng
như cách tiếp cận của Chính phủ các ớc trong quan hệ quốc tế, bên cạnh những hình
thức cổ truyền, đã xuất hiện những hình thức mới của quan hệ Tài chính quốc tế như đầu
quốc tế trực tiếp, đầu quốc tế gián tiếp với các loại hình hoạt động đa dạng, viện trợ
quốc tế không hoàn lại, hợp c quốc tế về tài chính tiền t thông qua việc thiết lập các
tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế…
Trong lịch sử tồn tại phát triển của mình, Việt Nam đã các quan hệ kinh tế
tài chính quốc tế với các quốc gia láng giềng trong khu vực với một số quốc gia khác
như Lào, Trung Quốc, Nhật Bản, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Pháp, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha…Tuy nhiên, những quan hệ đó không mang tính thường xuyên, tích cực và
chủ động. Sau khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phòng (1955), Việt Nam đã các
quan hệ kinh tế tài chính với c ớc hội chủ nghĩa (XHCN) các tổ chức kinh tế
hội chủ nghĩa như Hội đồng tương trợ kinh tế, ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế,
ngân hàng đầu quốc tế…).
Sau khi hoàn toàn thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã chủ động mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia Tư bản ch nghĩa (TBCN), dân tộc ch
nghĩa, các tổ chức quốc tế trong ngoài Liên hợp quốc, c tổ chức phi Chính phủ…,
đặc biệt với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Chính việc mở rộng đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế quốc tế theo xu hướng hội nhập, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã làm
cho các quan hệ i chính quốc tế của Việt Nam phát triển đa dạng, phong phú phức
tạp hơn. T chỗ các quan hệ i chính quốc tế chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại,
vay vốn quốc tế với lãi suất ưu đãi…chuyển dần sang các quan hệ Tài chính quốc tế độc
lập, bình đẳng nảy sinh trong lĩnh vực hợp tác sản xuất kinh doanh, thương mại, đầu
tư…mà Việt Nam một bên tham gia; từ chỗ chủ yếu quan hệ với c nước hội
chủ nghĩa tới chỗ quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở quan điểm đối
tác kinh tế cùng lợi.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia ngày càng sâu rộng, với
việc thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam đã mở
rộng các quan hệ Tài chính quốc tế phải phù hợp với điều kiện cụ thể và đảm bảo thực hiện
các nguyên tắc của Nhà nước Việt Nam để thể vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế,
vừa củng cố chế độ chính trị giữ gìn các giá trị truyền thống của quốc gia. lẽ đó,
trong quá trình thực hiện c quan hệ Tài chính quốc tế cần quán triệt các nguyên tắc
bản là: Tự nguyện, Bình đẳng, Tôn trọng ch quyền lãnh thổ của nhau đôi n cùng
lợi. c nguyên tắc y không những chỉ quán triệt trong việc hoạch định chính sách hội
nhập kinh tế i chính quốc tế, trong xây dựng chiến lược, sách ợc, sở pháp cho
các hoạt động i chính quốc tế, n rất cần được quán triệt trong từng hoạt động Tài
chính quốc tế cụ thể nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế chính trị chủ quyền quốc gia.
1.2. Khái niệm, đặc điểm tài chính quốc tế
1.2.1. Khái niệm tài chính quốc tế
Tài chính quốc tế một lĩnh vực cùng rộng lớn, hoạt động rất phức tạp với các
hình thức, các chủ thể đa dạng, liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau trên phạm vi khu
vực hoặc toàn cầu. Tài chính quốc tế chính sự di chuyển giữa các ng tiền vốn giữa c
quốc gia; trong phạm vi quốc gia được biểu hiện bằng các hình thức hoạt động thu - chi
bằng tiền, các hoạt động tạo lập sử dụng quỹ ngoại tệ các chủ thể kinh tế - hội của
mỗi nước. Trong đó, các hoạt động thu - chi bằng tiền, tạo lập sử dụng quỹ ngoại tệ
chính kết quả tất yếu của các quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau của các chủ
thể bên trong ngoài quốc gia.
Hiện nay, các quan điểm ch yếu về về Tài chính quốc tế như sau:
Quan điểm thứ nhất, theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia.org) thì "Tài chính
quốc tế (International Finance) một chuyên ngành hẹp thuộc chuyên ngành Kinh tế
quốc tế. Tài chính quốc tế chuyên nghiên cứu về tỷ giá hối đoái, đầu quốc tế, các định
chế tài chính quốc tế" (như các tổ chức tài chính quốc tế, các ng ty đa quốc gia...)
Quan điểm thứ hai, xét trên góc độ quốc gia: Tài chính quốc tế bao gồm hoạt động
tài chính đối nội đối ngoại, hoạt động tài chính thuần tuý giữa các quốc gia với nhau.
Hoạt động i chính thuần tuý lại bao gồm hoạt động tài chính của các ng ty đa quốc
gia (MNC - Multinational Corporation hoặc MNE - Multinational Enterprises) các tổ
chức tài chính quốc tế (IFO - International Financial Organizations). Thực vậy: Đứng trên
góc độ từng quốc gia để nhìn nhận thì hoạt động tài chính gồm có: Hoạt động tài chính
đối nội (nội địa), hoạt động tài chính đối ngoại hoạt động tài chính thuần túy giữa các
quốc gia. Hoạt động tài chính thuần túy giữa các quốc gia (hay còn gọi hoạt động tài
chính quốc tế thuần túy) lại bao gồm hoạt động tài chính của các Công ty đa quốc gia
hoạt động tài chính của các tổ chức quốc tế. Theo cách nhìn nhận này, thì hoạt động tài
chính quốc tế được quan niệm bao gồm hoạt động tài chính đối ngoại hoạt động tài
chính quốc tế thuần túy. Quan niệm này thường được sử dụng các quốc gia đang phát
triển, mức độ hội nhập còn hạn chế.
Quan điểm thứ ba, xét trên góc độ toàn cầu: Quan điểm này cho rằng, hoạt động
tài chính bao gồm: hoạt động tài chính đối nội hoạt động tài chính đối ngoại, do đó,
Tài chính quốc tế chỉ bao gồm các hoạt động tài chính thuần tuý tức hoạt động tài
chính của các công ty đa quốc gia (MNC) các tổ chức tài chính quốc tế (IFO), chỉ
những hoạt động tài chính mang phạm vi toàn cầu mới Tài chính quốc tế. Quan điểm
này thường được sử dụng các nước nền kinh tế phát triển, mức độ mở cửa hội nhập
cao. Đứng trên góc độ toàn cầu để nhìn nhận thì hoạt động Tài chính quốc tế được quan
niệm chỉ bao gồm các hoạt động Tài chính quốc tế thuần túy, bởi hoạt động tài chính
của mỗi quốc gia đã bao gồm hoạt động tài chính đối nội hoạt động i chính đối ngoại;
chỉ những hoạt động tài chính chung trên phạm vi toàn cầu mới Tài chính quốc tế.
Quan niệm này thường được sử dụng các quốc gia phát triển, mức độ mở cửa hội nhập
cao.
Để làm hơn về Tài chính quốc tế nhằm giúp người đọc có một ch nhìn tổng
quan nhất về hệ thống tài chính quốc tế hiện nay, dựa trên việc kết hợp phạm vi hoạt
động của c hoạt động tài chính quốc tế theo ba quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm
về Tài chính quốc tế như sau:
Tài chính quốc tế hoạt động tài chính diễn ra giữa các quốc gia. Đó sự di
chuyển của các dòng tiền vốn giữa các quốc gia, gắn liền với các quan hệ quốc tế giữa
các ch thể trong nước và ngoài nước, nhằm đáp ng nhu cầu của các chủ thể đó khi
thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế. Tài chính quốc tế chuyên nghiên cứu về tỷ giá hối
đoái, các hình thức thanh toán đầu quốc tế, các thể chế, các tổ chức, các tập đoàn
tài chính quốc tế".
Đứng trên giác độ một quốc gia, Tài chính quốc tế được hiểu sự vận động của
các luồng tiền tệ giữa c quốc gia. nghĩa các hoạt động tài chính diễn ra giữa một
bên các chủ thể của các quốc gia khác hoặc các tổ chức tài chính quốc tế. Trong mỗi
một quốc gia, hoạt động tài chính quốc tế một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động
tài chính của quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế c chính sách của quốc
gia đó trong quan hệ với cộng đồng quốc tế.
Lịch s phát triển của mọi quốc gia độc lập đều khẳng định một xu thế tất yếu để
tồn tại phát triển, mỗi quốc gia cần phải m cửa tiến hành ngày càng đẩy mạnh quan
hệ hợp tác quốc tế. Ngày nay, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phân công lao
động, không chỉ trong phạm vi từng quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới, nền kinh tế thế
giới được xem như một chỉnh thể; trong đó, nền kinh tế của mỗi quốc gia như các bộ phận
cấu thành quan hệ khăng khít với nhau, phụ thuộc lẫn nhau do đó phải hợp tác với
nhau để cùng tồn tại phát triển.
1.2.2. Đặc điểm của tài chính quốc tế
Các quan h Tài chính quốc tế một bộ phận trong tổng thể các quan hệ tài chính,
vậy cũng mang các đặc điểm chung của các quan hệ tài chính là:
Các quan hệ nảy sinh trong phân phối của cải hội ới hình thức giá trị -
phân phối các nguồn tài chính.
Gắn liền với việc tạo lập sử dụng c quỹ tiền tệ.
Các quan hệ tài chính nảy sinh trong c phân phối lần đầu phân phối lại.
Ngoài ra, Tài chính quốc tế còn những đặc điểm riêng phụ thuộc o các vấn đề
sau:
1.2.2.1. Sự chi phối của các yếu tố chính trị trong lĩnh vực Tài chính quốc tế
Trong phạm vi quốc gia, Tài chính quốc tế một bộ phận trong tổng thể c hoạt
động tài chính của quốc gia. Do đó, các hoạt động i chính quốc tế phải gắn liền
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế chính trị hội của Nhà nước.
Trên bình diện quốc tế, hoạt động i chính quốc tế của các ch th của một quốc
gia được tiến hành trong quan hệ với các chủ thể của một quốc gia khác hoặc các tổ chức
quốc tế; do đó, cũng chịu sự ng buộc bởi chính sách của các quốc gia khác, bởi các
thông lệ mang tính quốc tế hoặc qui định của các tổ chức chủ thể đó quan hệ.
Do vậy, trong hoạt động Tài chính quốc tế các chủ thể của một quốc gia không
những cần nắm vững c chính sách kinh tế, pháp luật của quốc gia còn phải thông
hiểu chính sách, pháp luật của các quốc gia các tổ chức quốc tế khác quan hệ.
1.2.2.2. Phạm vi, môi trường hoạt động của các nguồn tài chính trong lĩnh vực Tài
chính quốc tế
Diễn ra trên phạm vi rộng lớn, giữa các quốc gia, rất nhiều chủ thể tham gia,
nhiều đồng tiền của các quốc gia khác nhau, bị chi phối trực tiếp bởi nhiều nhân tố như;
Tình hình chính trị, Luật pháp, trình độ phát triển kinh tế, chính sách i khóa của c
quốc gia. Do vậy, Tài chính quốc tế những đặc điểm sau:
- Rủi ro chính trị: Rủi ro y rất đa dạng, bao gồm những sự thay đổi ngoài dự
kiến c quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch, về chế độ quản ngoại hối hoặc một
chính ch trưng thu hay tịch biên các tài sản trong nước do người nước ngoài nắm giữ
Loại rủi ro này bắt nguồn từ những biến động về chính trị hội của các quốc gia như
sự thay đổi thể chế, những cuộc cải cách…từ đó Chính phủ các nước th thay đổi các
chính sách quản kinh tế của quốc gia mình; hoặc chiến tranh, xung đột sắc tộc…
các chủ thể nước ngoài phải gánh chịu rủi ro bất khả kháng.
- Rủi ro tỷ giá hối đoái: Do tác động của nhiều nhân tố khác nhau tỷ giá hối đoái
luôn có sự biến động ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia các quan
hệ Tài chính quốc tế trong các lĩnh vực ngoại thương, đầu , tín dụng, thanh toán, cán cân
thanh toán…. dụ: Đối với một quốc gia, tỷ giá hối đoái tăng cao (đồng bản tệ giảm giá)
tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái
thấp (đồng bản tệ tăng giá) lại tác dụng khuyến khích nhập khẩu, nhưng lại hạn chế xuất
nhập khẩu. Trong lĩnh vực i chính quốc tế, các vấnn đề về cơ chế xác lập tỷ giá giữa các
đồng tiền, những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá sự tác động tr lại của tỷ giá đến cán cân
xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, đến tình hình tài chính của các tổ chức ngoại
thương, các nhà đầu tư, các ngân hàng…là vấn đề rất được quan tâm nghiên cứu.
1.2.2.3. Xu hướng phát triển của toàn cầu hóa đối với lĩnh vực Tài chính quốc tế
Hiện nay, nền kinh tế thế giới hiện nay đã mang tính toàn cầu hóa thống nhất
cao độ. Điều đó đã đang nhân tố ảnh hưởng tính chất quyết định cho sự phát triển
Tài chính quốc tế. Do vây: Tài chính quốc tế bao gồm thêm những đặc điểm sau:
- Sự ra đời của các Công ty đa quốc gia (MNC/ MNE) với phạm vi qui ngày
càng mở rộng của các tổ chức kinh tế, tài chính - tín dụng trong nước, khu vực quốc tế
đã tạo điều kiện cho s tăng ờng hợp tác quốc tế về chính sách tài chính - tiền tệ của
các quốc gia với nhau. Mặt khác, với sự phát triển mạnh m của các Công ty đa quốc gia
(MNC/ MNE) vừa tạo ra nhu cầu, vừa yếu tố quan trọng thúc đẩy các quan hệ Tài
chính quốc tế phát triển.
- Sự hình thành hoạt động - Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của thị trường
vốn quốc tế đã tạo ra hội cho các nhà đầu tư, các Chính phủ, các tổ chức Tài chính
quốc tế huy động vốn và đầu vốn dưới nhiều hình thức khác nhau, trên nhiều ớc
khác nhau, bằng nhiều đồng tiền khác nhau làm cho c quan hệ Tài chính quốc tế vốn đã
đa dạng, phức tạp càng đa dạng, phức tạp hơn.
- Sự hình thành hoạt động với phạm vi qui ngày ng mở rộng của các tổ
chức kinh tế, tài chính tín dụng khu vực quốc tế đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho
sự tăng ờng hợp tác về tài chính tiền tệ của c nước thành viên.
Xu hướng phát triển mạnh mẽ của Tài chính quốc tế cả về bề rộng cả về chiều
sâu đó đòi hỏi các chủ thể tham gia vào quan hệ Tài chính quốc tế phải quan tâm am
hiểu nhiều vấn đề tài chính nội địa ít quan tâm như: Những hình thức đi vay cho
vay vốn trên thị trường vốn quốc tế; Tính toán cơ hội đầu c biện pháp quản sử
dụng vốn trong đầu quốc tế. Nghiên cứu các công cụ tài chính phát sinh để phòng
ngừa, hạn chế các rủi ro hối đoái hiệu quả; Nắm vững chức năng chế hoạt động của
các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế để được hiệu ích cao nhất trong quan h với
các tổ chức này.
1.3 Vai trò của tài chính quốc tế
1.3.1. Tài chính quốc tế công cụ để phân phối lại các nguồn lực tài chính, công
nghệ, kỹ thuật lao động trên phạm vi toàn thế giới
Bằng việc m rộng các quan h i chính quốc tế thông qua các hình thức thương
mại quốc tế, tín dụng quốc tế, viện trợ phát triển, đầu quốc tế tham gia vào các thị
trường tài chính quốc tế..., các quốc gia thể tận dụng tiềm lực i chính của nước ngoài
các tổ chức quốc tế cùng với công nghệ, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản
tiên tiến.
1.3.2. Tài chính quốc tế là công cụ quan trọng khai thác c nguồn lực ngoài nước
phục vụ cho sự phát triển kinh tế hội trong nước
Thông qua các hoạt động Tài chính quốc tế, các nguồn tài chính, công nghệ, kỹ
thuật, lao động…được phân phối lại trên phạm vi thế giới. Mỗi quốc gia phải n nhắc để
thể khai thác sử dụng nguồn lực của các quốc gia khác sử dụng nguồn lực của mình
để tham gia hợp tác quốc tế một ch hiệu quả. Đặc biệt, đối với các quốc gia nghèo
chậm phát triển thì vấn đề tranh thủ nguồn vốn ngoài càng cần phải coi trọng. Bằng
việc mở rộng quan hệ i chính quốc tế thông qua c hình thức: vay nợ quốc tế, viện trợ
quốc tế, đầu quốc tế, tham gia vào thị trường vốn quốc tế…các quốc gia thể tận
dụng tốt nguồn lực tài chính nước ngoài các tổ chức quốc tế; cùng với công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
1.3.3. Tài chính quốc tế cầu nối tài chính giữa các quốc gia, tạo điều kiện để các
quốc gia được bình đẳng, hoà nhập o nền kinh tế toàn cầu
Việc mở rộng các hình thức tín dụng quốc tế, đầu quốc tế, tham gia các thị
trường vốn, th trường tiền tệ, thị trường hối đoái quốc tế, mở rộng thương mại dịch vụ
quốc tế… vừa góp phần phát triển kinh tế trong nước vừa thúc đẩy hoàn thiện chính ch
thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế theo các yêu cầu của các tổ chức quốc tế khu
vực. Đối với các tổ chức kinh tế tài chính khu vực quốc tế, nguyên tắc quan trọng
hàng đầu đối xử bình đẳng với mọi đối tác thành viên
1.3.4. Tài chính quốc tế thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế thế giới
Tài chính quốc tế vừa yếu tố tiền đề, vừa yếu tố tác động thúc đẩy các
quốc gia nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thế giới. Theo qui chế tối huệ quốc và qui chế
đãi ngộ quốc gia của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nguyên tắc quan trọng ng
đầu đối xử bình đẳng giữa c thành viên với nhau. Điều đó đòi hỏi h thống pháp
phải được điều chỉnh theo thông lệ quốc tế phải tương đối ổn định. Đây một ng
việc khó khăn, phức tạp, đặc biệt đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
1.3.5. Tài chính quốc tế thúc đẩy sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính của c
quốc gia
Do sự dịch chuyển của các dòng vốn giữa c quốc gia ngày càng dễ dàng
mạnh mẽ, nên chu chuyển vốn quốc tế ngày càng nhanh hơn, tạo điều kiện cho c công
ty đa quốc gia, các tổ chức tài chính quốc tế, các định chế tài chính trung gian khai thác
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, từ đó th hạn chế những rủi ro trong các mối quan
hệ Tài chính quốc tế đầu quốc tế ngày càng phát triển.
Sự mở rộng phát triển của i chính quốc tế cho phép các nguồn i chính
khả năng lưu chuyển dễ dàng, thuận lợi mạnh mẽ giữa các quốc gia đã tạo điều kiện
cho các chủ thể mỗi quốc gia hội giải quyết những khó khăn tạm thời về nguồn
tài chính nâng cao hiệu quả của c nguồn lực tài chính được đưa vào sử dụng c trên
vị trí nhà đầu hay người cần vốn.
1.4 Nội dung của tài chính quốc tế
Nội dung của i chính quốc tế (các quan hệ Tài chính quốc tế) thể phân loại
theo các tiêu chí sau đây:
1.4.1. Theo các quan h tiền tệ, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Các quan hệ thanh toán quốc tế: Ch thể tham gia thanh toán trong các quan hệ
thanh toán quốc tế các ngân hàng thương mại, các tổ chức, nhân, Chính phủ các
nước…đối với các lĩnh vực về thương mại quốc tế, hợp tác quốc tế về văn hóa xã hội,
hợp tác lao động quốc tế, du lịch quốc tế…các hoạt động hợp tác quốc tế về chính trị,
ngoại giao…. vậy các quan hệ thanh toán quốc tế bao gồm các hình thức thanh toán cụ
thể sau:
- Thanh toán về thương mại quốc tế
- Thanh toán hợp tác quốc tế về văn hóa hội, hợp tác lao động quốc tế, du lịch
quốc tế…
- Thanh toán đối vi các hot đng hợp c quốc tế về chính tr, ngoại giao
- Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Chủ thể nhận viện trợ thể Chính phủ, tổ
chức kinh tế hội hoặc địa phương. Chủ thể cho viện trợ Chính phủ, các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ. Viện trợ không hoàn lại hình thức đầu quốc tế
gián tiếp. Gồm các hình thức
- Viện tr song phương:
- Viện tr đa phương (Nguồn tài chính do các nước đóng p: loại qu chung.
Hoặc của một số nước viện trợ: quĩ ủy thác)
- Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (N.G.O)
- Tín dụng quốc tế: một hình thức của đầu quốc tế gián tiếp. Chủ thể
nguồn tài chính đầu ới dạng cho vay vốn thu lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay
đã được hai bên thỏa thuận trong các Hiệp định hay khế ước vay vốn.
Chủ thể tham gia thể tất cả các ch thể kinh tế hội của mỗi quốc gia
các tổ chức quốc tế, chủ yếu là các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế. Tín dụng Nhà
nước quốc tế hình thức trong đó Nhà nước một bên của quan hệ tín dụng.
- Đầu chứng khoán quốc tế: một hình thức đầu quốc tế gián tiếp. Các chủ
thể nguồn i chính đầu ới nh thức mua chứng khoán trên thị trường tiền tệ, thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu quốc tế để hưởng lợi tức nhưng không tham gia
điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Các chủ thể tham gia thể mọi chủ thể
kinh tế hội
- Đầu quốc tế trực tiếp (FDI): hình thức đầu ch đầu một nước
bỏ toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư vào một quốc gia khác để nắm một phần hay
toàn b một doanh nghiệp quốc gia đó. rất nhiều các hình thức đầu trực tiếp khác
nhau. Chủ thể tham gia thể mọi tổ chức kinh tế, nhân công dân của các quốc gia.
1.4.2. Theo các quĩ tiền tệ, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- c quĩ tiền tệ trực thuộc c chủ thể của từng quốc gia: các quĩ tài chính của
các nhân, các tổ chức kinh tế, Chính phủ các nước tham gia o c hoạt động kinh tế
quốc tế.
- Các quĩ tiền tệ thuộc các ch thể khu vực: các quĩ tài chính của các tổ chức
kinh tế tài chính khu vực như ADB, AfDB…
- Các quĩ tiền tệ thuộc các tổ chức quốc tế toàn cầu: các quĩ tài chính của các
tổ chức quốc tế toàn cầu như Liên hợp quốc , ngân hàng thế giới, ngân hàng thanh toán
quốc tế….
- c quĩ tài chính của các Công ty xuyên quốc gia (MNC/ MNE).
1.4.3. Theo các chủ thể tham gia hoạt động Tài chính quốc tế, nội dung của Tài chính
quốc tế bao gồm
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các tổ chức kinh tế: Các tổ chức kinh tế của
một quốc gia tham gia hoạt động Tài chính quốc tế dưới hình thức đầu quốc tế (cả trực
tiếp gián tiếp) thương mại quốc tế.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các ngân hàng thương mại: Các ngân hành
thương mại tham gia hoạt động Tài chính quốc tế với các nghiệp vụ chủ yếu:
- Tín dụng quốc tế.
- Đầu tư quốc tế (trực tiếp gián tiếp)
- Các hoạt động i chính quốc tế khác như: dịch v thanh toán, chuyển tiền, ủy
thác, vấn, bảo lãnh…
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các Công ty kinh doanh bảo hiểm:
- Thu phí Bảo hiểm, chi bồi thường, chi đề phòng tổn thất đối với các nghiệp vụ
Bảo hiểm quốc tế: Bảo hiểm hàng hải quốc tế, Bảo hiểm hàng không quốc tế, tái Bảo
hiểm quốc tế…
- Đầu tài chính quốc tế trực tiếp gián tiếp và các nghiệp vụ khác
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các Công ty chứng khoán:
- Môi giới chứng khoán quốc tế.
- Mua bán chứng khoán (đầu chứng khoán) trên thị trường tài chính quốc tế.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán quốc tế.
- vấn đầu chứng khoán quốc tế c nghiệp vụ khác.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế:
Các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế các hình thức tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế do các nước cùng quan tâm lập ra trên sở các hiệp định được kết trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ tín dụng. Tiêu biểu IMF, WB, ADB, IBS… Chức năng chủ
yếu của các tổ chức này phối hợp hoạt động của các ớc thành viên trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ tín dụng. Đồng thời, các tổ chức này cũng sử dụng các nguồn vốn chung
để tài trợ cho các nước thành viên, chủ yếu dưới hình thức cho vay.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của Nhà nước:
- Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Trong hoạt động này, Nhà ớc thể người
nhận hoặc người cấp viện trợ không hoàn lại với các Nhà nước khác hoặc các tổ chức
quốc tế.
- Tín dụng Nhà ớc quốc tế (Vay ODA, phát hành trái phiếu quốc tế, vay thương
mại quốc tế hoặc cho vay bằng vốn ngân sáh Nhà nước (NSNN).
- Thu thuế quan đối với hàng a xuất nhp khẩu qua biên giới nước ch nhà.
1.4.4. Theo góc độ kinh tế vĩ mô, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Tỷ giá hối đoái các vấn đề v các chế độ tỷ giá, chế xác định tỷ giá các
nhân tố quyết định tỷ giá, chính sách tỷ giá của Chính phủ các nước.
- Tỷ giá hối đoái: T giá( Tỷ giá hối đoái) giá cả của một đồng tiền được biểu
thị thông qua một đồng tiền khác.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đồng tiền riêng của mình.
Thương mại, đầu các quan hệ tài chính quốc tế... đòi hỏi các quốc gia phải thanh
toán với nhau. Thanh toán giữa c quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác
nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được trao đổi với theo một tỷ lệ
nhất định, tỷ lệ này được gọi tỷ giá.
- Chế độ tỷ giá: Chế độ tỷ giá hối đoái, bao gồm những quy tắc xác định
phương thức mua bán ngoại hối đối với các thể nhân pháp nhân người cư trú
không trú.
- Những quốc gia độc lập bao giờ cũng thiết lập một khung pháp nh cho các
giao dịch tài chính quốc tế của riêng mình.
- Cán n thanh toán quốc tế với các vấn đề về thuyết, chính sách, các nhân tố
ảnh hưởng, nội dung vai trò của cán cân thanh toán quốc tế.
- Cán cân thanh toán quốc tế (BOP) : một bản o cáo thống tổng hợp hệ
thống, ghi chép lại tất cả các giao dịch kinh tế giữa người trú người không trú
trong một thời kỳ nhất định, thường 1 năm.
- Các chỉ tiêu phản ánh n cân thanh toán quốc tế cho biết bao nhiêu hàng hoá
dịch vụ một quốc gia đã xuất khẩu nhập khẩu quốc gia y hiện đang con
nợ hay chủ nợ đối với phần thế giới còn lại. Ngoài ra, Cán cân thanh toán quốc tế n
cho biết dự trữ ngoại hối của NHTW đã tăng lên hay giảm xuống trong kỳ báo cáo như
thế nào.
- Hệ thống tiền tệ quốc tế các thị trường tiền tệ quốc gia chủ yếu.
Trước đây, h thống tiền tệ thế giới chủ yếu được hình thành tự phát trên sở chế
độ bản vị vàng, nghĩa các quốc gia đều chấp nhận vàng làm công c trung gian
trong trao đổi thanh toán quốc tế. Trong thế k XX đã chứng kiến sự xuất hiện, tồn tạii
suy vong của một số hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó :
- Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929)
- Chế độ bản v dollar Mỹ (1944-1971)
- Chế độ Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991)
- Hệ thống tiền tệ của Châu Âu
- Hệ thống tiền tệ toàn cầu
- Nợ nước ngoài.
Cùng với việc huy động nguồn vốn trong nước, việc vay nợ nước ngoài một
phương thức, một biện pháp quan trọng của tín dụng Nhà ớc đặc biệt đối với các nước
đang phát triển các nước nghèo.
Các hình thức vay nợ nước ngoài bao gồm;
- Vay nợ nước ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Vay n nước ngoài ới hình thức phát hành trái phiếu quốc tế
- Vay thương mại ớc ngoài
1.4.5. Theo góc độ góc độ thị trường, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
Đứng trên góc độ thị trường, vấn đề quản trị tài chính vi đối với Tài chính
quốc tế bao gồm những nội dung cụ thể sau:
- Đánh giá quả trị rủi ra quốc tế: nhiều loại rủi ro khác nhau, lạm phát có
thể gây ra nh trạng giảm giá tài sản hiện tại. Trước khi phân tích những công cụ và một
số kỹ thuật đơn giản được dùng trong quản trị rủi ra quốc tế, điều cần thiết đây phải
biết các nội dung thường được sử dụng tuân theo trong quá trình quản này.
Các nội dung trong quản tr rủi ra quốc tế:
- Quản trị các rủi ro trong giao dịch: Các rủi ro trong giao dịch thường liên quan
đến các khoản phải thu, phải trả bằng đơn vị tiền nước ngoài. Để hạn chế rủi ro loại này,
thường sử dụng nghiệp vụ tự bảo hiểm kỳ hạn, hoặc thông qua thị trường tiền tệ, tín
dụng, nghiệp vụ chọn phương thức thanh toán, nghiệp vụ khấu trừ tổn thất, nghiệp vụ
điều chỉnh giá.
- Quản trị rủi ro tài chính trong chuyển đổi: Do tỷ giá biến động kể c lạm phát,
việc chuyển các giá trị tài sản i chính của công ty con theo hình thức song phương, đa
phương... những thời điểm khác nhau thể khác nhau, gây ra loại rủi ro chuyển đổi.
- Quản trị rủi ro trong đầu tư: bao hàm các loại quản tr giá i sản hiện tại, giá cổ
phiếu, trái phiếu, lãi suất, tỷ giá, giá tr vốn cổ phần... Trong đó, quản trị rủi ro về tỷ giá
quan trọng nhất, bởi tác động đến tất cả các loại còn lại.
- c thị trường tài chính cụ thể:
- Thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối thường được biết đến với thuật ngữ
FOREX Market (thị trường Forex) hay FX Market hay Spot FX Market, thị trường
giao dịch các loại ngoại tệ đây th trường tài chính lớn nhất thế giới, với s ợng
tiền giao dịch mỗi ngày đã lên đến hơn 3.000 tỷ USD (2008).
- Thị trường đồng tiền Châu Âu: thị trường đồng tiền Châu Âu được biết đến với
tên gọi "Thị trường dollar Châu Âu", ra đời nhằm đáp ng sự gia tăng của các hoạt động
kinh doanh quốc tế. Thị trường dollar châu Âu ra đời khi các doanh nghiệp M gửi
các khoản dollar Mỹ tại các ngân hàng châu Âu. Các ngân hàng này chấp nhận chúng bởi
sau đó họ thể cho vay bằng USD đối với các khách hàng châu Âu.
- Thị trường tín dụng Châu Âu (Eurocredit Market)): Những khoản tín dụng châu
Âu hoặc khoản vay tín dụng châu Âu (Eurocredit) được cung cấp đến nơi người ta gọi
thị trường tín dụng châu Âu (Eucrocredit Market). Các khoản vay này thể được định
danh bằng đồng USD hoặc các đồng tiền mạnh khác và thường thời gian trên 5
m.
- Thị trường trái phiếu châu Âu (Eurobond Market): Là thị trường mua bán trái
phiếu do người không trú (công ty, ngân hàng, chính ph các tổ chức quốc tế) phát
hành nằm ngoài nước phát hành đồng tiền được ghi trên trái phiếu.
- Thị trường chứng khoán quốc tế: Các MNC thể thu hút nhà đầu tư nước ngoài
bằng cách phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán quốc tế. Các c phiếu mới được
phát hành được thả nổi trên thị trường Mỹ các thị trường khác bởi c MNC lớn của
Mỹ. Việc phát hành này tương đối dễ ng, hơn nữa phát hành cổ phiếu xuyên quan các
quốc gia nhằm để quảng thương hiệu của các MNC.
- Hoạt động đầu quốc tế (đầu trực tiếp đầu gián tiếp).
- Đầu trực tiếp quốc tế hình thức ch đầu nước ngoài đầu toàn bộ hay
một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm giành quyền điều hành trực tiếp điều hành
đối tượng họ bỏ vốn. Trong những năm gần đây, nh thức này chiếm vị trí ch yếu
trong đầu quốc tế. Bản chất của đầu trực tiếp nước ngoài (FDI): Là sự di chuyển
một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợinhuận cao
hơn. Đó chính là nh thức xuất khẩu bản để thu lợi nhuận cao. Do đi kèm với đầu
vốn đèâu công ngh tri thức kinh doanh n hình thức này thúc đẩy mạnh m quá
trình CNH HĐH nước nhận đầu tư. c ớc công nghiệp phát triển các TNCs
đóng vai trờ chủ yếu trong sự vận động của dòng vốn FDI trên thế giới. T những năm
90, FDI đi vào các quốc gia đang phát triển, đặc biệt các quốc gia Châu Á tăng đáng
kể.
- Đầu quốc tế gián tiếp của các tổ chức kinh tế hình thức chủ đầu nước
ngoài góp một phần vốn dưới hình thức đầu chứng khoán hoặc cho vay để thu lợi
nhuận không trực tiếp tham gia điều nh đối ợng mà họ bỏ vốn bao gồm:
- Đầu chứng khoán
- Tín dụng quốc tế
- Đầu quốc tế gián tiếp của c tổ chức kinh tế thông qua đầu chng khoán
- Đầu bằng cổ phiếu
- Tài chính của các Công ty đa quốc gia xuyên quốc gia.
Tài chính quốc tế tạo ra môi trường hoạt động rất cần thiết cho các Công ty đa
quốc gia xuyên quốc gia (MNC) trong nhiều năm qua. các Công ty đa quốc gia
xuyên quốc gia những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của tài chính quốc tế.
Tài chính quốc tế của các Công ty đa quốc gia xuyên quốc gia bao gồm toàn bộ các
hoạt động Tài chính quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, xuất nhập khẩu... Đồng
thời để tài trợ cho quá trình này, Công ty đa quốc gia xuyên quốc gia (MNC) tiến hành
các giao dịch ngoại hối trên thị trường ngoại hối, huy động vốn để đầu tài trợ quốc
tế trên các thị trường đồng tiền Châu Âu, tín dụng trái phiếu Châu Âu, thị trường
chứng khoán quốc tế, quản trị tiền mặt quốc tế bằng việc phân phối chuyển tiền tài trợ
trong nội bộ công ty (dựa MNC mẹ, các công ty con với nhau).
với cách tiếp cận nào thì đều nhằm chỉ ra c nội dung chủ yếu của hoạt động
Tài chính quốc tế để tổ chức hoạt động quản tốt các hoạt động đó nhằm mở rộng
nâng cao hiệu quả của hoạt động Tài chính quốc tế.
CHƯƠNG 2: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÁN N THANH TOÁN QUỐC TẾ
(7 TIẾT)
2.1 Hệ thống tiền tệ quốc tế
2.1.1. Sự nh thành phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế
Như chúng ta đã biết, điều kiện để xuất hiện tồn tại Tài chính quốc tế là phải
các quan hệ kinh tế và vai trò của chức năng tiền tệ thế giới của tiền. Tuy nhiên, để
thúc đẩy thương mại quốc tế cần sự hợp tác giữa một số quốc gia nhằm tạo ra những
chế độ tiền tệ được các quốc gia chấp nhận trong u thông thanh toán. Từ đó xuất
hiện hệ thống tiền tệ quốc tế.
Kể t thời cổ cho đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên sở “Bản vị
hàng hoá”, trong đó, kim loại hàng hoá (ch yếu vàng bạc) được đúc thành những
khối với chức năng làm phương tiện trao đổi lưu thông trong nền kinh tế. Trong thời kỳ
đầu, tiền kim loại được đúc chủ yếu dạng tuỳ ý hoặc thành những thỏi hay những chiếc
vòng, về sau những phát kiến đã tiêu chuẩn hoá tiền tệ về trọng lượng của các đồng xu
được quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền đúc (tiền xu) đã tạo điều kiện cho quốc gia giao
dịch giúp những nhà buôn tiết kiệm được thời gian trong việc nhận dạng, định lượng
đánh giá chất lượng kim loại.
Trong lịch sử, vàng bạc luôn hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn
các kim loại khác, bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất những
một đồng tiền hàng hoá (commodity money) cần có, như: sự khan hiếm, tính bền,
thể chuyển trở, dễ phân chia, đồng chất, chất lượng được duy trì lâu bền. Sự chấp nhận
vàng bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế các kim loại này được thừa
nhận rộng rãi giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp trang sức.
Hơn nữa, giá tr của vàng bạc được ổn định tương đối so với các hàng hoá khác; ngoài
ra, chất lượng của chúng thể được kiểm tra một cách chính c được các chuyên gia
(thợ vàng) chứng nhận). Chính vậy trong một thời gian gian dài, hầu hết các nước đều
lấy vàng bạc bản vị hàng hoá kim loại hoạt động trên s giá trị đầy đủ của các
đồng xu (full - bodied conins), tức giá trị tiền tệ của chúng cũng chính giá trị kim loại
của đồng xu.
Năm 1880, bản vị vàng từ một số ít quốc gia đã phát triển thành H thống tiền tệ
quốc tế với hầu hết c ớc áp dụng. Khi bùng nổ chiến tranh Thế giới Th nhất 1914,
bản v vàng bị b i; trong n 30 năm từ 1880 đến 1914 hệ thống bản v vàng quốc
tế đã thống trị hầu khắp các nước, đã liên kết chặt ch c quốc gia lớn với nhau
cũng như giữa các nước thống trị c nước thuộc địa trong suốt thời gian này.
Những đặc diểm bản trong hoạt động của chế độ bản vị vàng th tả
thông qua 3 quy tắc căn bản sau đây:
Thứ nhất, dưới chế độ bản vị ng, quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền của
mình với vàng; hay nói cách khác, Chính phủ ấn định cố định giá vàng tính bằng tiền
quốc gia, đồng thời sẵn sàng không hạn chế mua bán vàng tại mức giá đã quy định.
Thứ hai, ới chế độ bản v vàng, xuất khẩu nhập khẩu ng giữa các quốc gia
được tự do hoạt động. Do ng được chu chuyển tự do giữa các quốc gia, cho nên t giá
trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so với bản vị vàng.
Thứ ba, dưới chế độ bản vị vàng, ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một
lượng vàng dự tr trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự tr cho
phép ngân hàng trung ương uyển chuyển việc chuyển đổi tiền ra vàng không gặp
bất cứ một trở ngại o, hay nói cách khác, tiền do ngân hàng trung ương phát nh được
“bảo đảm bằng 100%” tiền được chuyển đổi t do không hạn chế ra vàng.
Quy tắc bảo đảm bằng vàng buộc ngân hàng trung ương khi mở rộng cung ứng
tiền cho nền kinh tế phải tuân thủ k luật “chỉ phát hành tiền khi luồng vàng từ công
chúng chảy vào ngân hàng trung ương. Như vậy, hình chung chế độ bản vị vàng đã
hạn chế sự năng động của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền trong u thông. Do vậy
sự phát triển của hệ thống tiền t quốc tế đã hình thành những hình thức mới theo những
giai đoạn phát triển cụ thể của các nước, đặc biệt t sau chiến tranh thế giới lần 1.
2.1.2. Khái niệm về hệ thống tiền tệ quốc tế
2.1.2.1. Khái niệm
Hệ thống tiền tệ quốc tế hệ thống các đồng tiền chế độ tổ chức lưu thông tiền
tệ được thể hiện bằng những thỏa ước những qui định của một số quốc gia, hiệu
lực trong một phạm vi không gian thời gian nhất định. Như vậy: Khi đề cập đến hệ
thống tiền tệ quốc tế phải gắn liền với 2 vấn đề:
Thứ nhất, hệ thống tiền tệ quốc tế bao gồm hệ thống các đồng tiền của một số
quốc gia đã quan hệ gắn hoặc phụ thuộc lẫn nhau, với ý định cạnh tranh hoặc
chống lại sự xâm nhập kinh tế tài chính của các khối kinh tế khác. Đồng thời, thúc đẩy
quan hệ giao thương về kinh tế hội giữa các ớc trong khối.
Thứ hai, chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ của một số quốc gia đã có quan hệ gắn
hoặc phụ thuộc lẫn nhau được thể hiện bằng những thỏa ước với mục đích, thường :
Tạo sự liên kết kinh tế giữa một số nước đã quan hệ gắn hoặc phụ thuộc
lẫn nhau, với ý định cạnh tranh hoặc chống lại sự xâm nhập kinh tế tài chính của các
khối kinh tế khác. Đồng thời, thúc đẩy quan hệ giao thương về kinh tế hội giữa c
nước trong khối.
Thiết lập một liên minh chính trị chặt chẽ hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước,
dưới sự chỉ huy hoặc thao túng của một quốc gia mạnh.
Củng cố vai trò vị t kinh tế tiền tệ của một quốc gia nào đó trong khu vực,
buộc các nước kém lợi thế lớn phải ph thuộc về tiền tiền sau đó phụ thuộc kinh tế vào
quốc gia này.
2.1.2.2. Nội dung của hệ thống tiền tệ quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế bao gồm hai nội dung bản sau:
Đơn vị tiền tệ chung:
Đơn vị tiền tệ chung: đơn vị thanh toán, đo ờng dự trữ giá trị của một
cộng đồng kinh tế. Thông thường các ớc sử dụng một đồng tiền mạnh của một quốc
gia nào đó trong khối làm đồng tiền chung. dụ: Như GBP (bảng Anh), USD (Đôla
Mỹ)… đã từng đồng tiền quốc tế một thời gian. Sau này do sự phát triển và hội nhập
kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành phát triển hoàn toàn trên s tự
nguyện, do vậy không đồng tiền của một quốc gia nào được chọn “đơn vị tiền tệ
chung”, các liên minh tự định ra đồng tiền chung của khối. Đồng tiền của khối tên
gọi riêng, tỷ giá xác định với các đồng tiền thành viên các đồng tiền ngoài khối.
dụ: Cộng đồng kinh tế Châu Âu gồm 25 thành viên, đã kết hiệp ước Maastricht 1992,
xác lập đồng tiền chung gọi Euro. Đồng tiền y đã thực sự đi vào cuộc sống kinh tế
hội của 11 nước EU vào ngày 1/1/1999. Tỷ giá được xác lập giữa USD/EURO ngay
ngày ra đời 1 EURO = 1,16675 USD.
Chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ: Thông thường chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ
quốc tế bao gồm những nội dung đặc trưng sau:
Qui định tỷ giá giữa đồng tiền chung với các đồng tiền thành viên của khối;
thể theo tỷ giá cố định, cũng thể theo tỷ giá linh hoạt.
Qui định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt lưu thông các
loại giấy tờ giá trị khác ghi bằng đồng tiền chung.
Qui định về dự trữ ngoại hối: ấn định t trọng giá trị của đồng tiền chung trong
tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên, ng như của ngân hàng thuộc khối.
Tiền tệ quốc tế hệ thống tiền tệ quốc tế sản phẩm của các liên minh kinh tế,
do vậy sự tồn tại phát triển của các liên minh kinh tế quyết định s tồn tại phát triển
của tiền tệ quốc tế hệ thống tiền tệ quốc tế. Trên thực tế, các liên minh kinh tế thường
không đứng vững được trong một thời gian dài do những nguyên nhân khác nhau. Khi
liên minh tan vỡ thì các sản phẩm được hình thành theo các thỏa ước cũng bị tiêu vong.
một hiện tượng kinh tế, việc một h thống tiền tệ này tan vỡ một hệ thống tiền tệ
khác xuất hiện một sự kiện thường xuyên trong đời sống kinh tế của hội loài người
trình độ sản xuất trao đổi hàng hóa đã phát triển cao.
2.1.2.3. Các hệ thống tiền tệ quốc tế chủ yếu
Trước đây, hệ thống tiền tệ thế giới chủ yếu được hình thành tự phát trên sở chế
độ bản vị vàng, nghĩa các quốc gia đều chấp nhận vàng làm công cụ trung gian
trong trao đổi thanh toán quốc tế. c hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành phát
triển chỉ trong một giai đoạn nhất định. Trong thế kỷ XX đã chứng kiến sự xuất hiện, tồn
tại và suy vong của một số hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là:
- Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929) tồn tại được 7 m.
- Chế độ bản vị USD (1944-1971) tồn tại được 27 m.
- p chuyển nhượng của SEV (1964-1991) tồn tại được 27 m…
1.
Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929)
Sau Đại chiến thế giới I (1914-1918) các quốc gia Châu Âu bị kiệt quệ về kinh
tế. ớc Anh ng trong nh trạng này, tuy nhiên London vẫn giữ được vị thế mạnh về
kinh tế tài chính so với các nước trong khu vực nhờ hệ thống thuộc đị rộng lớn
thị trường tài chính London rất phát triển của mình. Lợi dụng vị tế đó, Anh đã thiết lập
hệ thống tiền tệ quốc tế, lấy chính đồng bảng Anh làm đồng tiền chủ chốt. Được nhiều
nước ủng hộ được Hoa Kỳ hậu thuẫn, hệ thống tiền t quốc tế với bảng Anh đồng
tiền chủ chốt đã ra đời.
Tuy nhiên, trong thời kỳ này nhiều quốc gia vẫn muốn quay trở lại chế đ bản v
vàng. Nhưng do khối ợng hàng hóa, dịch vụ lưu thông rất lớn ngày càng gia tăng,
khối lượng vàng dự trữ lại có hạn, nên các ngân hàng không thể đổi giấy bạc ngân ng ra
vàng cho mọi đối tượng nhu cầu. Do đó ngân ng Anh qui định, c đối tượng muốn
đổi giấy bạc ra ng phải 1.700 bảng Anh đ đổi lấy 400 ounce (1 ounce = 31,135 gr)
tức 12,4414 kg vàng. Vì vậy, chế độ tiền tệ quốc tế này còn được gọi chế độ bản vị vàng
thoi, hay chế độ bản vị vàng hối đoái.
Hệ thống tiền tệ dựa trên bảng Anh được hình thành nhằm phục v cho ý đồ kinh
tế chính trị của nước Anh. Khi kinh tế nước Anh suy thoái, hệ thống thuộc địa của
Anh bị thu hẹp mạnh mẽ do phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nhát cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn của thế gới (1929-1933) đến gần thì vị trí của GBP không còn
nữa. H thống tiền tệ dựa trên bảng Anh sụp đổ. Bảng Anh mất vị trí đồng tiền quốc tế
tế, chỉ còn đồng tiền quốc gia. Nhưng do vị thế tài chính của nước Anh trên thị
trường quốc tế còn rất lớn, cho nên hiện nay bảng Anh vẫn đồng tiền khả năng
thanh toán mạnh trên thế giới.
2.
Chế độ bản vị dollar Mỹ (1944-1971)
Khi Đại chiến thế giới II (1939-1945) gần kết thúc, Hoa Kỳ không những ít bị
thiệt hại trong chiến tranh mà còn thu lợi từ cuộc chiến tranh này vươn n chiếm v trí
hàng đầu thế giới về kinh tế tài chính. Tháng 7/1944 Hoa Kỳ triệu tập Hội nghị tài
chính tiền tệ họp Bretton Woods (Mỹ). Một trong những nội dung của hội nghị này
bàn ch khôi phục lại chế độ bản vị vàng hối đoái lấy USD làm phương tiện thanh
toán dự trữ quốc tế. Chế độ bản vị đôla Mỹ ra đời sau hội nghị này. Ngân hàng Hoa
Kỳ camkết đổi 35 USD/1 ounce vàng (1 USD = 0,888671gr vàng). Cũng như chế độ bản
vị GBP, chế độ bản vị USD phụ thuộc vào vị trí kinh tế tài chính của Hoa Kỳ. Cuối
thập k 60 của thế kỷ XX, kinh tế Hoa Kỳ đi vào suy thoái, không còn vị thế như những
năm 50. Lạm phát mức cao, lượng vàng đảm bảo cho USD từ 2,72 lần năm 1950 giảm
xuống còn 2,38 lần (1952); 1,84 lần (1954); 0,92 lần (1960); 0,5 lần (1966). Đến 1967
Chính phủ Mỹ điều chỉnh 1 ounce vàng = 38 USD. Đầu năm 1971, Hoa Kỳ từ bỏ cam kết
đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng. Đến tháng 8/1971 Hoa Kỳ đơn phương từ chối nghĩa vụ
thực hiện Hiệp ước Bretton Wood tuyen bố phá giá USD trong quan hệ ngoại thương
7,89%. Đến thời điểm này, chế độ bản vị USD đã chấm dứt.
Hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên USD không tồn tại nữa, nhưng do tiềm lực kinh
tế của Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới, do đó USD vẫn được ưa chuộng. Hiện nay, USD
vẫn đồng tiền khả ng thanh toán mạnh nhất. đồng tiền chuyển đổi hoàn
toàn, đồng tiền chuẩn để tính thu nhập quốc n, thu nhập tính theo đầu người, tính giá
trị dự trữ ngoại hối, kim ngạch xuất khẩu…của nhiều quốc gia cũng như của toàn thế
giới.
3.
Chế độ Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991)
Các nước hội ch nghĩa thành viên khối Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),
đã hiệp định thanh toán nhiều bên bằng Rúp chuyển nhượng ngày 20/10/1963. Đồng
thời thành lập ngân ng Hợp tác kinh tế quốc tế (MBES) để theo dõi thực hiện quá
trình thanh toán. Hiệp định này hiệu lực từ ngày 1/1/1964.
Như vậy, từ đầu năm 1964, Rúp chuyển nhượng (RCN) đồng tiền tập thể của 10
nước XHCN thuộc khối SEV là: Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari, Rumani, Mông Cổ,
CHDC Đức, Bungari, Cuba Việt Nam với tỷ giá 1 RCN = 1,5 USD. Tuy nhiên, RCN
chỉ tồn tại ới hình thức ghi sổ trên tài khoản của các nước thành viên SEV được sử
dụng để thanh toán trừ.
Khi hệ thống hội chủ nghĩa tan rã, khối Hội đồng tương trợ kinh tế không còn
nữa thì p chuyển nhượng cũng chấm dứt vai trò lịch sử của vào ngày 31/12/1991,
sau 27 năm tồn tại.
4.
Hệ thống tiền tệ của Châu Âu
Euro đồng tiền chung của Liên Minh Châu Âu (EU). Đồng tiền này được hình
thành trên sở thỏa ước Maastriccht được kết giữa các nguyên thủ các nước thành
viên EU vào năm 1992.
Từ ngày 1/1/1999, 11/15 nước của EU đã sử dụng Euro trong c giao dịch
chuyển khoản song song với bản t của các nước. Lúc này ECU, đơn vị thanh toán của
EU đã bị bãi bỏ.
Từ ngày 01/01/2002, 12 nước trong EU đã lưu thông Euro tiền mặt xóa bỏ các
đồng tiền bản tệ riêng biệt của các nước với 65 tỷ EUR tiền giấy 35 tỷ EUR tiền kim
loại. Euro đồng tiền chung của hệ thống tiền tệ khu vực. Hiện tại của 12 ớc (EU-
12) với số dân hơn 300 triệu người. Khi ra đời 1 Euro = 1,16675 USD. Sau một thời gian
dài xuống giá so với USD, trong thời gian dần đây Euro đã lên giá rất mạnh, thậm chí
vượt qua cả giá qui định ban đầu so với USD đang trở thành một đồng tiền mạnh trên
thế giới.
5.
Hệ thống tiền tệ toàn cầu
Trên thực tế không có hệ thống tiền tệ toàn cầu, chỉ một chế thanh toán
tín dụng do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thiết lập cho các nước thành viên. chế y
gọi quyền rút vốn đặc biệ”t, viết tắt theo thuật ngữ tiếng Anh là SDR (Special
Drawing Rights).

Preview text:

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (4 TIẾT)
1.1 Sự hình thành và phát triển của tài chính quốc tế
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Tài chính quốc tế (TCQT) đã ra đời
và phát triển từ hình thức đơn giản đến những hình thức phức tạp, đa dạng gắn liền với
những điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia và của đời sống
quốc tế trên cả khía cạnh kinh tế và khía cạnh chính trị.
Những hình thức sơ khai của quan hệ Tài chính quốc tế như việc trao đổi, buôn
bán hàng hóa giữa các quốc gia, cống nộp vàng bạc, châu báu giữa nước này với nước
khác đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ gắn liền với Nhà nước chủ nô. Cùng với sự
phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã ra đời để điều
chỉnh các quan hệ buôn bán giữa các quốc gia và tín dụng quốc tế đã xuất hiện do có các
quan hệ vay nợ giữa các nước. Vào cuối thời kỳ phong kiến, tín dụng quốc tế đã có bước
phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một trong những đòn bẩy mạnh mẽ nhất của tích lũy nguyên thủy Tư bản.
Với sự xuất hiện của Chủ nghĩa tư bản, những hình thức cổ truyền của quan hệ Tài
chính quốc tế như thuế xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế vẫ tiếp tục tồn tại và ngày càng
phát triển đa dạng thích ứng với những bước phát triển mới của các quan hệ kinh tế quốc
tế và thái độ chính trị của các Nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa
– tiền tệ, kinh tế thị trường, những diễn biến phức tạp của cục diện chính trị thế giới, cũng
như cách tiếp cận của Chính phủ các nước trong quan hệ quốc tế, bên cạnh những hình
thức cổ truyền, đã xuất hiện những hình thức mới của quan hệ Tài chính quốc tế như đầu
tư quốc tế trực tiếp, đầu tư quốc tế gián tiếp với các loại hình hoạt động đa dạng, viện trợ
quốc tế không hoàn lại, hợp tác quốc tế về tài chính – tiền tệ thông qua việc thiết lập các
tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế…
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, Việt Nam đã có các quan hệ kinh tế –
tài chính quốc tế với các quốc gia láng giềng trong khu vực và với một số quốc gia khác
như Lào, Trung Quốc, Nhật Bản, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Pháp, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha…Tuy nhiên, những quan hệ đó không mang tính thường xuyên, tích cực và
chủ động. Sau khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phòng (1955), Việt Nam đã có các
quan hệ kinh tế tài chính với các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) và các tổ chức kinh tế
Xã hội chủ nghĩa như Hội đồng tương trợ kinh tế, ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế,
ngân hàng đầu tư quốc tế…).
Sau khi hoàn toàn thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã chủ động mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia Tư bản chủ nghĩa (TBCN), dân tộc chủ
nghĩa, các tổ chức quốc tế trong và ngoài Liên hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ…,
đặc biệt là với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Chính việc mở rộng và đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế quốc tế theo xu hướng hội nhập, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã làm
cho các quan hệ Tài chính quốc tế của Việt Nam phát triển đa dạng, phong phú và phức
tạp hơn. Từ chỗ các quan hệ tài chính quốc tế chủ yếu là nhận viện trợ không hoàn lại,
vay vốn quốc tế với lãi suất ưu đãi…chuyển dần sang các quan hệ Tài chính quốc tế độc
lập, bình đẳng nảy sinh trong lĩnh vực hợp tác sản xuất – kinh doanh, thương mại, đầu
tư…mà Việt Nam là một bên tham gia; từ chỗ chủ yếu là quan hệ với các nước Xã hội
chủ nghĩa tới chỗ quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở quan điểm đối
tác kinh tế cùng có lợi.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia ngày càng sâu rộng, với
việc là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam đã mở
rộng các quan hệ Tài chính quốc tế phải phù hợp với điều kiện cụ thể và đảm bảo thực hiện
các nguyên tắc của Nhà nước Việt Nam để có thể vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế,
vừa củng cố chế độ chính trị và giữ gìn các giá trị truyền thống của quốc gia. Vì lẽ đó,
trong quá trình thực hiện các quan hệ Tài chính quốc tế cần quán triệt các nguyên tắc cơ
bản là: Tự nguyện, Bình đẳng, Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau và đôi bên cùng có
lợi. Các nguyên tắc này không những chỉ quán triệt trong việc hoạch định chính sách hội
nhập kinh tế – tài chính quốc tế, trong xây dựng chiến lược, sách lược, cơ sở pháp lý cho
các hoạt động Tài chính quốc tế, mà còn rất cần được quán triệt trong từng hoạt động Tài
chính quốc tế cụ thể nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế – chính trị và chủ quyền quốc gia.
1.2. Khái niệm, đặc điểm tài chính quốc tế
1.2.1. Khái niệm tài chính quốc tế

Tài chính quốc tế là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hoạt động rất phức tạp với các
hình thức, các chủ thể đa dạng, liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau trên phạm vi khu
vực hoặc toàn cầu. Tài chính quốc tế chính là sự di chuyển giữa các dòng tiền vốn giữa các
quốc gia; trong phạm vi quốc gia và được biểu hiện bằng các hình thức hoạt động thu - chi
bằng tiền, các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ ngoại tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội của
mỗi nước. Trong đó, các hoạt động thu - chi bằng tiền, tạo lập và sử dụng quỹ ngoại tệ
chính là kết quả tất yếu của các quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau của các chủ
thể bên trong và ngoài quốc gia.
Hiện nay, có các quan điểm chủ yếu về về Tài chính quốc tế như sau:
Quan điểm thứ nhất, theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia.org) thì "Tài chính
quốc tế (International Finance) là một chuyên ngành hẹp thuộc chuyên ngành Kinh tế
quốc tế. Tài chính quốc tế chuyên nghiên cứu về tỷ giá hối đoái, đầu tư quốc tế, các định
chế tài chính quốc tế" (như các tổ chức tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia. .)
Quan điểm thứ hai, xét trên góc độ quốc gia: Tài chính quốc tế bao gồm hoạt động
tài chính đối nội và đối ngoại, hoạt động tài chính thuần tuý giữa các quốc gia với nhau.
Hoạt động tài chính thuần tuý lại bao gồm hoạt động tài chính của các công ty đa quốc
gia (MNC - Multinational Corporation hoặc MNE - Multinational Enterprises) và các tổ
chức tài chính quốc tế (IFO - International Financial Organizations). Thực vậy: Đứng trên
góc độ từng quốc gia để nhìn nhận thì hoạt động tài chính gồm có: Hoạt động tài chính
đối nội (nội địa), hoạt động tài chính đối ngoại và hoạt động tài chính thuần túy giữa các
quốc gia. Hoạt động tài chính thuần túy giữa các quốc gia (hay còn gọi là hoạt động tài
chính quốc tế thuần túy) lại bao gồm hoạt động tài chính của các Công ty đa quốc gia và
hoạt động tài chính của các tổ chức quốc tế. Theo cách nhìn nhận này, thì hoạt động tài
chính quốc tế được quan niệm bao gồm hoạt động tài chính đối ngoại và hoạt động tài
chính quốc tế thuần túy. Quan niệm này thường được sử dụng ở các quốc gia đang phát
triển, mức độ hội nhập còn hạn chế.
Quan điểm thứ ba, xét trên góc độ toàn cầu: Quan điểm này cho rằng, hoạt động
tài chính bao gồm: hoạt động tài chính đối nội và hoạt động tài chính đối ngoại, do đó,
Tài chính quốc tế chỉ bao gồm các hoạt động tài chính thuần tuý tức là hoạt động tài
chính của các công ty đa quốc gia (MNC) và các tổ chức tài chính quốc tế (IFO), chỉ
những hoạt động tài chính mang phạm vi toàn cầu mới là Tài chính quốc tế. Quan điểm
này thường được sử dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển, mức độ mở cửa hội nhập
cao. Đứng trên góc độ toàn cầu để nhìn nhận thì hoạt động Tài chính quốc tế được quan
niệm chỉ bao gồm các hoạt động Tài chính quốc tế thuần túy, bởi vì hoạt động tài chính
của mỗi quốc gia đã bao gồm hoạt động tài chính đối nội và hoạt động tài chính đối ngoại;
chỉ những hoạt động tài chính chung trên phạm vi toàn cầu mới là Tài chính quốc tế.
Quan niệm này thường được sử dụng ở các quốc gia phát triển, mức độ mở cửa hội nhập cao.
Để làm rõ hơn về Tài chính quốc tế nhằm giúp người đọc có một cách nhìn tổng
quan nhất về hệ thống tài chính quốc tế hiện nay, dựa trên việc kết hợp phạm vi hoạt
động của các hoạt động tài chính quốc tế theo ba quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm
về Tài chính quốc tế như sau:
Tài chính quốc tế là hoạt động tài chính diễn ra giữa các quốc gia. Đó là sự di
chuyển của các dòng tiền vốn giữa các quốc gia, gắn liền với các quan hệ quốc tế giữa
các chủ thể trong nước và ngoài nước, nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể đó khi

thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế. Tài chính quốc tế chuyên nghiên cứu về tỷ giá hối
đoái, các hình thức thanh toán và đầu tư quốc tế, các thể chế, các tổ chức, các tập đoàn tài chính quốc tế".

Đứng trên giác độ một quốc gia, Tài chính quốc tế được hiểu là sự vận động của
các luồng tiền tệ giữa các quốc gia. Có nghĩa là các hoạt động tài chính diễn ra giữa một
bên là các chủ thể của các quốc gia khác hoặc các tổ chức tài chính quốc tế. Trong mỗi
một quốc gia, hoạt động tài chính quốc tế là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động
tài chính của quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế và các chính sách của quốc
gia đó trong quan hệ với cộng đồng quốc tế.
Lịch sử phát triển của mọi quốc gia độc lập đều khẳng định một xu thế tất yếu là để
tồn tại và phát triển, mỗi quốc gia cần phải mở cửa tiến hành và ngày càng đẩy mạnh quan
hệ hợp tác quốc tế. Ngày nay, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phân công lao
động, không chỉ trong phạm vi từng quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới, nền kinh tế thế
giới được xem như một chỉnh thể; trong đó, nền kinh tế của mỗi quốc gia như các bộ phận
cấu thành có quan hệ khăng khít với nhau, phụ thuộc lẫn nhau và do đó phải hợp tác với
nhau để cùng tồn tại và phát triển.
1.2.2. Đặc điểm của tài chính quốc tế
Các quan hệ Tài chính quốc tế là một bộ phận trong tổng thể các quan hệ tài chính,
vì vậy nó cũng mang các đặc điểm chung của các quan hệ tài chính là:
• Các quan hệ nảy sinh trong phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị -
phân phối các nguồn tài chính.
• Gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
• Các quan hệ tài chính nảy sinh trong cả phân phối lần đầu và phân phối lại.
Ngoài ra, Tài chính quốc tế còn có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào các vấn đề sau:
1.2.2.1. Sự chi phối của các yếu tố chính trị trong lĩnh vực Tài chính quốc tế
Trong phạm vi quốc gia, Tài chính quốc tế là một bộ phận trong tổng thể các hoạt
động tài chính của quốc gia. Do đó, các hoạt động Tài chính quốc tế phải gắn liền và
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – chính trị – xã hội của Nhà nước.
Trên bình diện quốc tế, hoạt động Tài chính quốc tế của các chủ thể của một quốc
gia được tiến hành trong quan hệ với các chủ thể của một quốc gia khác hoặc các tổ chức
quốc tế; do đó, nó cũng chịu sự ràng buộc bởi chính sách của các quốc gia khác, bởi các
thông lệ mang tính quốc tế hoặc qui định của các tổ chức mà chủ thể đó có quan hệ.
Do vậy, trong hoạt động Tài chính quốc tế các chủ thể của một quốc gia không
những cần nắm vững các chính sách kinh tế, pháp luật của quốc gia mà còn phải thông
hiểu chính sách, pháp luật của các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác có quan hệ.
1.2.2.2. Phạm vi, môi trường hoạt động của các nguồn tài chính trong lĩnh vực Tài chính quốc tế
Diễn ra trên phạm vi rộng lớn, giữa các quốc gia, có rất nhiều chủ thể tham gia,
nhiều đồng tiền của các quốc gia khác nhau, bị chi phối trực tiếp bởi nhiều nhân tố như;
Tình hình chính trị, Luật pháp, trình độ phát triển kinh tế, chính sách tài khóa của các
quốc gia. Do vậy, Tài chính quốc tế có những đặc điểm sau:
- Rủi ro chính trị: Rủi ro này rất đa dạng, bao gồm những sự thay đổi ngoài dự
kiến các quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch, về chế độ quản lý ngoại hối hoặc là một
chính sách trưng thu hay tịch biên các tài sản trong nước do người nước ngoài nắm giữ…
Loại rủi ro này bắt nguồn từ những biến động về chính trị – xã hội của các quốc gia như
sự thay đổi thể chế, những cuộc cải cách…từ đó Chính phủ các nước có thể thay đổi các
chính sách quản lý kinh tế của quốc gia mình; hoặc chiến tranh, xung đột sắc tộc… và
các chủ thể nước ngoài phải gánh chịu rủi ro bất khả kháng.
- Rủi ro tỷ giá hối đoái: Do tác động của nhiều nhân tố khác nhau mà tỷ giá hối đoái
luôn có sự biến động và có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia các quan
hệ Tài chính quốc tế trong các lĩnh vực ngoại thương, đầu tư, tín dụng, thanh toán, cán cân
thanh toán….Ví dụ: Đối với một quốc gia, tỷ giá hối đoái tăng cao (đồng bản tệ giảm giá)
có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái
thấp (đồng bản tệ tăng giá) lại có tác dụng khuyến khích nhập khẩu, nhưng lại hạn chế xuất
nhập khẩu. Trong lĩnh vực Tài chính quốc tế, các vấnn đề về cơ chế xác lập tỷ giá giữa các
đồng tiền, những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá và sự tác động trở lại của tỷ giá đến cán cân
xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, đến tình hình tài chính của các tổ chức ngoại
thương, các nhà đầu tư, các ngân hàng…là vấn đề rất được quan tâm nghiên cứu.
1.2.2.3. Xu hướng phát triển của toàn cầu hóa đối với lĩnh vực Tài chính quốc tế
Hiện nay, nền kinh tế thế giới hiện nay đã mang tính toàn cầu hóa và thống nhất
cao độ. Điều đó đã và đang là nhân tố ảnh hưởng có tính chất quyết định cho sự phát triển
Tài chính quốc tế. Do vây: Tài chính quốc tế bao gồm thêm những đặc điểm sau:
- Sự ra đời của các Công ty đa quốc gia (MNC/ MNE) với phạm vi và qui mô ngày
càng mở rộng của các tổ chức kinh tế, tài chính - tín dụng trong nước, khu vực và quốc tế
đã tạo điều kiện cho sự tăng cường hợp tác quốc tế về chính sách tài chính - tiền tệ của
các quốc gia với nhau. Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty đa quốc gia
(MNC/ MNE) vừa tạo ra nhu cầu, vừa là yếu tố quan trọng thúc đẩy các quan hệ Tài
chính quốc tế phát triển.
- Sự hình thành và hoạt động - Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của thị trường
vốn quốc tế đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư, các Chính phủ, các tổ chức Tài chính
quốc tế huy động vốn và đầu tư vốn dưới nhiều hình thức khác nhau, trên nhiều nước
khác nhau, bằng nhiều đồng tiền khác nhau làm cho các quan hệ Tài chính quốc tế vốn đã
đa dạng, phức tạp càng đa dạng, phức tạp hơn.
- Sự hình thành và hoạt động với phạm vi và qui mô ngày càng mở rộng của các tổ
chức kinh tế, tài chính – tín dụng khu vực và quốc tế đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho
sự tăng cường hợp tác về tài chính – tiền tệ của các nước thành viên.
Xu hướng phát triển mạnh mẽ của Tài chính quốc tế cả về bề rộng và cả về chiều
sâu đó đòi hỏi các chủ thể tham gia vào quan hệ Tài chính quốc tế phải quan tâm và am
hiểu nhiều vấn đề mà tài chính nội địa ít quan tâm như: Những hình thức đi vay và cho
vay vốn trên thị trường vốn quốc tế; Tính toán cơ hội đầu tư và các biện pháp quản lý sử
dụng vốn trong đầu tư quốc tế. Nghiên cứu các công cụ tài chính phát sinh để phòng
ngừa, hạn chế các rủi ro hối đoái có hiệu quả; Nắm vững chức năng cơ chế hoạt động của
các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế để có được hiệu ích cao nhất trong quan hệ với các tổ chức này.
1.3 Vai trò của tài chính quốc tế
1.3.1. Tài chính quốc tế là công cụ để phân phối lại các nguồn lực tài chính, công
nghệ, kỹ thuật và lao động trên phạm vi toàn thế giới

Bằng việc mở rộng các quan hệ Tài chính quốc tế thông qua các hình thức thương
mại quốc tế, tín dụng quốc tế, viện trợ phát triển, đầu tư quốc tế và tham gia vào các thị
trường tài chính quốc tế. ., các quốc gia có thể tận dụng tiềm lực tài chính của nước ngoài
và các tổ chức quốc tế cùng với nó là công nghệ, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
1.3.2. Tài chính quốc tế là công cụ quan trọng khai thác các nguồn lực ngoài nước
phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong nước

Thông qua các hoạt động Tài chính quốc tế, các nguồn tài chính, công nghệ, kỹ
thuật, lao động…được phân phối lại trên phạm vi thế giới. Mỗi quốc gia phải cân nhắc để
có thể khai thác sử dụng nguồn lực của các quốc gia khác và sử dụng nguồn lực của mình
để tham gia hợp tác quốc tế một cách có hiệu quả. Đặc biệt, đối với các quốc gia nghèo
và chậm phát triển thì vấn đề tranh thủ nguồn vốn ngoài càng cần phải coi trọng. Bằng
việc mở rộng quan hệ tài chính quốc tế thông qua các hình thức: vay nợ quốc tế, viện trợ
quốc tế, đầu tư quốc tế, tham gia vào thị trường vốn quốc tế…các quốc gia có thể tận
dụng tốt nguồn lực tài chính nước ngoài và các tổ chức quốc tế; cùng với nó là công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
1.3.3. Tài chính quốc tế là cầu nối tài chính giữa các quốc gia, tạo điều kiện để các
quốc gia được bình đẳng, hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu

Việc mở rộng các hình thức tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế, tham gia các thị
trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái quốc tế, mở rộng thương mại và dịch vụ
quốc tế… vừa góp phần phát triển kinh tế trong nước vừa thúc đẩy hoàn thiện chính sách
và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế theo các yêu cầu của các tổ chức quốc tế và khu
vực. Đối với các tổ chức kinh tế – tài chính khu vực và quốc tế, nguyên tắc quan trọng
hàng đầu là đối xử bình đẳng với mọi đối tác thành viên
1.3.4. Tài chính quốc tế thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế thế giới

Tài chính quốc tế vừa là yếu tố tiền đề, vừa là yếu tố có tác động thúc đẩy các
quốc gia nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thế giới. Theo qui chế tối huệ quốc và qui chế
đãi ngộ quốc gia của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nguyên tắc quan trọng hàng
đầu là đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau. Điều đó đòi hỏi hệ thống pháp lý
phải được điều chỉnh theo thông lệ quốc tế và phải tương đối ổn định. Đây là một công
việc khó khăn, phức tạp, đặc biệt đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
1.3.5. Tài chính quốc tế thúc đẩy sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính của các quốc gia
Do sự dịch chuyển của các dòng vốn giữa các quốc gia ngày càng dễ dàng và
mạnh mẽ, nên chu chuyển vốn quốc tế ngày càng nhanh hơn, tạo điều kiện cho các công
ty đa quốc gia, các tổ chức tài chính quốc tế, các định chế tài chính trung gian khai thác
và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, từ đó có thể hạn chế những rủi ro trong các mối quan
hệ Tài chính quốc tế và đầu tư quốc tế ngày càng phát triển.
Sự mở rộng và phát triển của Tài chính quốc tế cho phép các nguồn tài chính có
khả năng lưu chuyển dễ dàng, thuận lợi và mạnh mẽ giữa các quốc gia đã tạo điều kiện
cho các chủ thể ở mỗi quốc gia có cơ hội giải quyết những khó khăn tạm thời về nguồn
tài chính và nâng cao hiệu quả của các nguồn lực tài chính được đưa vào sử dụng cả trên
vị trí nhà đầu tư hay người cần vốn.
1.4 Nội dung của tài chính quốc tế
Nội dung của Tài chính quốc tế (các quan hệ Tài chính quốc tế) có thể phân loại
theo các tiêu chí sau đây:
1.4.1. Theo các quan hệ tiền tệ, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Các quan hệ thanh toán quốc tế: Chủ thể tham gia thanh toán trong các quan hệ
thanh toán quốc tế là các ngân hàng thương mại, các tổ chức, cá nhân, Chính phủ ở các
nước…đối với các lĩnh vực về thương mại quốc tế, hợp tác quốc tế về văn hóa – xã hội,
hợp tác lao động quốc tế, du lịch quốc tế…các hoạt động hợp tác quốc tế về chính trị,
ngoại giao…. Vì vậy các quan hệ thanh toán quốc tế bao gồm các hình thức thanh toán cụ thể sau:
- Thanh toán về thương mại quốc tế
- Thanh toán hợp tác quốc tế về văn hóa – xã hội, hợp tác lao động quốc tế, du lịch quốc tế…
- Thanh toán đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về chính trị, ngoại giao…
- Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Chủ thể nhận viện trợ có thể là Chính phủ, tổ
chức kinh tế – xã hội hoặc địa phương. Chủ thể cho viện trợ là Chính phủ, các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ. Viện trợ không hoàn lại là hình thức đầu tư quốc tế
gián tiếp. Gồm các hình thức - Viện trợ song phương:
- Viện trợ đa phương (Nguồn tài chính do các nước đóng góp: loại quỹ chung.
Hoặc của một số nước viện trợ: quĩ ủy thác)
- Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (N.G.O)
- Tín dụng quốc tế: Là một hình thức của đầu tư quốc tế gián tiếp. Chủ thể có
nguồn tài chính đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay
đã được hai bên thỏa thuận trong các Hiệp định hay khế ước vay vốn.
Chủ thể tham gia có thể là tất cả các chủ thể kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và
các tổ chức quốc tế, chủ yếu là các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế. Tín dụng Nhà
nước quốc tế là hình thức mà trong đó Nhà nước là một bên của quan hệ tín dụng.
- Đầu tư chứng khoán quốc tế: Là một hình thức đầu tư quốc tế gián tiếp. Các chủ
thể có nguồn tài chính đầu tư dưới hình thức mua chứng khoán trên thị trường tiền tệ, thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu quốc tế để hưởng lợi tức nhưng không tham gia
điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Các chủ thể tham gia có thể là mọi chủ thể kinh tế – xã hội…
- Đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI): Là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư ở một nước
bỏ toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư vào một quốc gia khác để nắm một phần hay
toàn bộ một doanh nghiệp ở quốc gia đó. Có rất nhiều các hình thức đầu tư trực tiếp khác
nhau. Chủ thể tham gia có thể là mọi tổ chức kinh tế, cá nhân công dân của các quốc gia.
1.4.2. Theo các quĩ tiền tệ, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Các quĩ tiền tệ trực thuộc các chủ thể của từng quốc gia: Là các quĩ tài chính của
các cá nhân, các tổ chức kinh tế, Chính phủ các nước tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.
- Các quĩ tiền tệ thuộc các chủ thể khu vực: Là các quĩ tài chính của các tổ chức
kinh tế – tài chính khu vực như ADB, AfDB…
- Các quĩ tiền tệ thuộc các tổ chức quốc tế toàn cầu: Là các quĩ tài chính của các
tổ chức quốc tế toàn cầu như Liên hợp quốc , ngân hàng thế giới, ngân hàng thanh toán quốc tế….
- Các quĩ tài chính của các Công ty xuyên quốc gia (MNC/ MNE).
1.4.3. Theo các chủ thể tham gia hoạt động Tài chính quốc tế, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các tổ chức kinh tế: Các tổ chức kinh tế của
một quốc gia tham gia hoạt động Tài chính quốc tế dưới hình thức đầu tư quốc tế (cả trực
tiếp và gián tiếp) và thương mại quốc tế.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các ngân hàng thương mại: Các ngân hành
thương mại tham gia hoạt động Tài chính quốc tế với các nghiệp vụ chủ yếu: - Tín dụng quốc tế.
- Đầu tư quốc tế (trực tiếp và gián tiếp)
- Các hoạt động tài chính quốc tế khác như: dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, ủy
thác, tư vấn, bảo lãnh…
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các Công ty kinh doanh bảo hiểm:
- Thu phí Bảo hiểm, chi bồi thường, chi đề phòng tổn thất đối với các nghiệp vụ
Bảo hiểm quốc tế: Bảo hiểm hàng hải quốc tế, Bảo hiểm hàng không quốc tế, tái Bảo hiểm quốc tế…
- Đầu tư tài chính quốc tế trực tiếp và gián tiếp và các nghiệp vụ khác…
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các Công ty chứng khoán:
- Môi giới chứng khoán quốc tế.
- Mua và bán chứng khoán (đầu tư chứng khoán) trên thị trường tài chính quốc tế.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán quốc tế.
- Tư vấn đầu tư chứng khoán quốc tế và các nghiệp vụ khác.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế:
Các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế là các hình thức tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế do các nước cùng quan tâm lập ra trên cơ sở các hiệp định được ký kết trong lĩnh
vực tài chính – tiền tệ – tín dụng. Tiêu biểu là IMF, WB, ADB, IBS… Chức năng chủ
yếu của các tổ chức này là phối hợp hoạt động của các nước thành viên trong lĩnh vực tài
chính – tiền tệ – tín dụng. Đồng thời, các tổ chức này cũng sử dụng các nguồn vốn chung
để tài trợ cho các nước thành viên, chủ yếu là dưới hình thức cho vay.
- Hoạt động Tài chính quốc tế của Nhà nước:
- Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Trong hoạt động này, Nhà nước có thể là người
nhận hoặc người cấp viện trợ không hoàn lại với các Nhà nước khác hoặc các tổ chức quốc tế.
- Tín dụng Nhà nước quốc tế (Vay ODA, phát hành trái phiếu quốc tế, vay thương
mại quốc tế hoặc cho vay bằng vốn ngân sáh Nhà nước (NSNN).
- Thu thuế quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới nước chủ nhà.
1.4.4. Theo góc độ kinh tế vĩ mô, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
- Tỷ giá hối đoái và các vấn đề về các chế độ tỷ giá, cơ chế xác định tỷ giá và các
nhân tố quyết định tỷ giá, chính sách tỷ giá của Chính phủ các nước.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá( Tỷ giá hối đoái) là giá cả của một đồng tiền được biểu
thị thông qua một đồng tiền khác.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình.
Thương mại, đầu tư và các quan hệ tài chính quốc tế. . đòi hỏi các quốc gia phải thanh
toán với nhau. Thanh toán giữa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác
nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được trao đổi với theo một tỷ lệ
nhất định, tỷ lệ này được gọi là tỷ giá.
- Chế độ tỷ giá: Chế độ tỷ giá hối đoái, nó bao gồm những quy tắc xác định
phương thức mua bán ngoại hối đối với các thể nhân và pháp nhân là người cư trú và không cư trú.
- Những quốc gia độc lập bao giờ cũng thiết lập một khung pháp lý dành cho các
giao dịch tài chính quốc tế của riêng mình.
- Cán cân thanh toán quốc tế với các vấn đề về lý thuyết, chính sách, các nhân tố
ảnh hưởng, nội dung và vai trò của cán cân thanh toán quốc tế.
- Cán cân thanh toán quốc tế (BOP) là: một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ
thống, ghi chép lại tất cả các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú
trong một thời kỳ nhất định, thường là 1 năm.
- Các chỉ tiêu phản ánh Cán cân thanh toán quốc tế cho biết có bao nhiêu hàng hoá
và dịch vụ mà một quốc gia đã xuất khẩu và nhập khẩu và quốc gia này hiện đang là con
nợ hay chủ nợ đối với phần thế giới còn lại. Ngoài ra, Cán cân thanh toán quốc tế còn
cho biết dự trữ ngoại hối của NHTW đã tăng lên hay giảm xuống trong kỳ báo cáo là như thế nào.
- Hệ thống tiền tệ quốc tế và các thị trường tiền tệ quốc gia chủ yếu.
Trước đây, hệ thống tiền tệ thế giới chủ yếu được hình thành tự phát trên cơ sở chế
độ bản vị vàng, có nghĩa là các quốc gia đều chấp nhận vàng làm công cụ trung gian
trong trao đổi thanh toán quốc tế. Trong thế kỷ XX đã chứng kiến sự xuất hiện, tồn tạii và
suy vong của một số hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là:
- Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929)
- Chế độ bản vị dollar Mỹ (1944-1971)
- Chế độ Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991)
- Hệ thống tiền tệ của Châu Âu
- Hệ thống tiền tệ toàn cầu - Nợ nước ngoài.
Cùng với việc huy động nguồn vốn trong nước, việc vay nợ nước ngoài là một
phương thức, một biện pháp quan trọng của tín dụng Nhà nước đặc biệt đối với các nước
đang phát triển và các nước nghèo.
Các hình thức vay nợ nước ngoài bao gồm;
- Vay nợ nước ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Vay nợ nước ngoài dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tế
- Vay thương mại nước ngoài
1.4.5. Theo góc độ góc độ thị trường, nội dung của Tài chính quốc tế bao gồm
Đứng trên góc độ thị trường, vấn đề quản trị tài chính vi mô đối với Tài chính
quốc tế bao gồm những nội dung cụ thể sau:
- Đánh giá và quả trị rủi ra quốc tế: Có nhiều loại rủi ro khác nhau, lạm phát có
thể gây ra tình trạng giảm giá tài sản hiện tại. Trước khi phân tích những công cụ và một
số kỹ thuật đơn giản được dùng trong quản trị rủi ra quốc tế, điều cần thiết ở đây là phải
biết các nội dung thường được sử dụng và tuân theo trong quá trình quản lý này.
Các nội dung trong quản trị rủi ra quốc tế:
- Quản trị các rủi ro trong giao dịch: Các rủi ro trong giao dịch thường liên quan
đến các khoản phải thu, phải trả bằng đơn vị tiền nước ngoài. Để hạn chế rủi ro loại này,
thường sử dụng nghiệp vụ tự bảo hiểm kỳ hạn, hoặc thông qua thị trường tiền tệ, tín
dụng, nghiệp vụ chọn phương thức thanh toán, nghiệp vụ khấu trừ tổn thất, nghiệp vụ điều chỉnh giá.
- Quản trị rủi ro tài chính trong chuyển đổi: Do tỷ giá biến động và kể cả lạm phát,
việc chuyển các giá trị tài sản tài chính của công ty con theo hình thức song phương, đa
phương. . ở những thời điểm khác nhau có thể khác nhau, gây ra loại rủi ro chuyển đổi.
- Quản trị rủi ro trong đầu tư: bao hàm các loại quản trị giá tài sản hiện tại, giá cổ
phiếu, trái phiếu, lãi suất, tỷ giá, giá trị vốn cổ phần. . Trong đó, quản trị rủi ro về tỷ giá
là quan trọng nhất, bởi nó tác động đến tất cả các loại còn lại.
- Các thị trường tài chính cụ thể:
- Thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối thường được biết đến với thuật ngữ
FOREX Market (thị trường Forex) hay là FX Market hay Spot FX Market, là thị trường
giao dịch các loại ngoại tệ và đây là thị trường tài chính lớn nhất thế giới, với số lượng
tiền giao dịch mỗi ngày đã lên đến hơn 3.000 tỷ USD (2008).
- Thị trường đồng tiền Châu Âu: thị trường đồng tiền Châu Âu được biết đến với
tên gọi "Thị trường dollar Châu Âu", ra đời nhằm đáp ứng sự gia tăng của các hoạt động
kinh doanh quốc tế. Thị trường dollar châu Âu ra đời khi các doanh nghiệp Mỹ ký gửi
các khoản dollar Mỹ tại các ngân hàng châu Âu. Các ngân hàng này chấp nhận chúng bởi
vì sau đó họ có thể cho vay bằng USD đối với các khách hàng châu Âu.
- Thị trường tín dụng Châu Âu (Eurocredit Market)): Những khoản tín dụng châu
Âu hoặc khoản vay tín dụng châu Âu (Eurocredit) được cung cấp đến nơi mà người ta gọi
là thị trường tín dụng châu Âu (Eucrocredit Market). Các khoản vay này có thể được định
danh bằng đồng USD hoặc các đồng tiền mạnh khác và thường có thời gian là trên 5 năm.
- Thị trường trái phiếu châu Âu (Eurobond Market): Là thị trường mua bán trái
phiếu do người không cư trú (công ty, ngân hàng, chính phủ và các tổ chức quốc tế) phát
hành nằm ngoài nước phát hành đồng tiền được ghi trên trái phiếu.
- Thị trường chứng khoán quốc tế: Các MNC có thể thu hút nhà đầu tư nước ngoài
bằng cách phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán quốc tế. Các cổ phiếu mới được
phát hành được thả nổi trên thị trường Mỹ và các thị trường khác bởi các MNC lớn của
Mỹ. Việc phát hành này tương đối dễ dàng, hơn nữa phát hành cổ phiếu xuyên quan các
quốc gia nhằm để quảng bá thương hiệu của các MNC.
- Hoạt động đầu tư quốc tế (đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp).
- Đầu tư trực tiếp quốc tế là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay
một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm giành quyền điều hành và trực tiếp điều hành
đối tượng mà họ bỏ vốn. Trong những năm gần đây, hình thức này chiếm vị trí chủ yếu
trong đầu tư quốc tế. Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là sự di chuyển
một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợinhuận cao
hơn. Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao. Do đi kèm với đầu tư
vốn là đèâu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình CNH – HĐH ở nước nhận đầu tư. Các nước công nghiệp phát triển và các TNCs
đóng vai trờ chủ yếu trong sự vận động của dòng vốn FDI trên thế giới. Từ những năm
90, FDI đi vào các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia Châu Á tăng đáng kể.
- Đầu tư quốc tế gián tiếp của các tổ chức kinh tế là hình thức chủ đầu tư nước
ngoài góp một phần vốn dưới hình thức đầu tư chứng khoán hoặc cho vay để thu lợi
nhuận và không trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn và bao gồm: - Đầu tư chứng khoán
- Tín dụng quốc tế
- Đầu tư quốc tế gián tiếp của các tổ chức kinh tế thông qua đầu tư chứng khoán
- Đầu tư bằng cổ phiếu
- Tài chính của các Công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia.
Tài chính quốc tế tạo ra môi trường hoạt động rất cần thiết cho các Công ty đa
quốc gia và xuyên quốc gia (MNC) trong nhiều năm qua. Và các Công ty đa quốc gia và
xuyên quốc gia là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của tài chính quốc tế.
Tài chính quốc tế của các Công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia bao gồm toàn bộ các
hoạt động Tài chính quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, xuất nhập khẩu. . Đồng
thời để tài trợ cho quá trình này, Công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia (MNC) tiến hành
các giao dịch ngoại hối trên thị trường ngoại hối, huy động vốn để đầu tư và tài trợ quốc
tế trên các thị trường đồng tiền Châu Âu, tín dụng và trái phiếu Châu Âu, thị trường
chứng khoán quốc tế, quản trị tiền mặt quốc tế bằng việc phân phối chuyển tiền và tài trợ
trong nội bộ công ty (dựa MNC mẹ, các công ty con với nhau).
Dù với cách tiếp cận nào thì đều nhằm chỉ ra các nội dung chủ yếu của hoạt động
Tài chính quốc tế để tổ chức hoạt động và quản lý tốt các hoạt động đó nhằm mở rộng và
nâng cao hiệu quả của hoạt động Tài chính quốc tế.
CHƯƠNG 2: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ (7 TIẾT)
2.1 Hệ thống tiền tệ quốc tế
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế

Như chúng ta đã biết, điều kiện để xuất hiện và tồn tại Tài chính quốc tế là phải có
các quan hệ kinh tế và có vai trò của chức năng tiền tệ thế giới của tiền. Tuy nhiên, để
thúc đẩy thương mại quốc tế cần có sự hợp tác giữa một số quốc gia nhằm tạo ra những
chế độ tiền tệ được các quốc gia chấp nhận trong lưu thông và thanh toán. Từ đó xuất
hiện hệ thống tiền tệ quốc tế.
Kể từ thời cổ cho đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở “Bản vị
hàng hoá”, trong đó, kim loại là hàng hoá (chủ yếu là vàng và bạc) được đúc thành những
khối với chức năng làm phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế. Trong thời kỳ
đầu, tiền kim loại được đúc chủ yếu ở dạng tuỳ ý hoặc thành những thỏi hay những chiếc
vòng, về sau những phát kiến đã tiêu chuẩn hoá tiền tệ về trọng lượng của các đồng xu
được quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền đúc (tiền xu) đã tạo điều kiện cho quốc gia giao
dịch và giúp những nhà buôn tiết kiệm được thời gian trong việc nhận dạng, định lượng và
đánh giá chất lượng kim loại.
Trong lịch sử, vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn
các kim loại khác, bởi vì những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất những gì
mà một đồng tiền hàng hoá (commodity money) cần có, như: sự khan hiếm, tính bền, có
thể chuyển trở, dễ phân chia, đồng chất, và chất lượng được duy trì lâu bền. Sự chấp nhận
vàng và bạc như là tiền còn được củng cố từ một thực tế là các kim loại này được thừa
nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp và trang sức.
Hơn nữa, giá trị của vàng và bạc được ổn định tương đối so với các hàng hoá khác; ngoài
ra, chất lượng của chúng có thể được kiểm tra một cách chính các và được các chuyên gia
(thợ vàng) chứng nhận). Chính vì vậy trong một thời gian gian dài, hầu hết các nước đều
lấy vàng và bạc là bản vị hàng hoá kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của các
đồng xu (full - bodied conins), tức giá trị tiền tệ của chúng cũng chính là giá trị kim loại của đồng xu.
Năm 1880, bản vị vàng từ một số ít quốc gia đã phát triển thành Hệ thống tiền tệ
quốc tế với hầu hết các nước áp dụng. Khi bùng nổ chiến tranh Thế giới Thứ nhất 1914,
bản vị vàng bị bỏ rơi; và trong hơn 30 năm từ 1880 đến 1914 hệ thống bản vị vàng quốc
tế đã thống trị ở hầu khắp các nước, nó đã liên kết chặt chẽ các quốc gia lớn với nhau
cũng như giữa các nước thống trị và các nước thuộc địa trong suốt thời gian này.
Những đặc diểm cơ bản trong hoạt động của chế độ bản vị vàng có thể mô tả
thông qua 3 quy tắc căn bản sau đây:
Thứ nhất, dưới chế độ bản vị vàng, quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền của
mình với vàng; hay nói cách khác, Chính phủ ấn định cố định giá vàng tính bằng tiền
quốc gia, đồng thời sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá đã quy định.
Thứ hai, dưới chế độ bản vị vàng, xuất khẩu và nhập khẩu vàng giữa các quốc gia
được tự do hoạt động. Do vàng được chu chuyển tự do giữa các quốc gia, cho nên tỷ giá
trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so với bản vị vàng.
Thứ ba, dưới chế độ bản vị vàng, ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một
lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự trữ cho
phép ngân hàng trung ương lý uyển chuyển việc chuyển đổi tiền ra vàng mà không gặp
bất cứ một trở ngại nào, hay nói cách khác, tiền do ngân hàng trung ương phát hành được
“bảo đảm bằng 100%” và tiền được chuyển đổi tự do không hạn chế ra vàng.
Quy tắc bảo đảm bằng vàng buộc ngân hàng trung ương khi mở rộng cung ứng
tiền cho nền kinh tế phải tuân thủ kỷ luật “chỉ phát hành tiền khi có luồng vàng từ công
chúng chảy vào ngân hàng trung ương. Như vậy, vô hình chung chế độ bản vị vàng đã
hạn chế sự năng động của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Do vậy
sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế đã hình thành những hình thức mới theo những
giai đoạn phát triển cụ thể của các nước, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới lần 1.
2.1.2. Khái niệm về hệ thống tiền tệ quốc tế 2.1.2.1. Khái niệm
Hệ thống tiền tệ quốc tế là hệ thống các đồng tiền và chế độ tổ chức lưu thông tiền
tệ được thể hiện bằng những thỏa ước và những qui định của một số quốc gia, có hiệu
lực trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định.
Như vậy: Khi đề cập đến hệ
thống tiền tệ quốc tế phải gắn liền với 2 vấn đề:
Thứ nhất, hệ thống tiền tệ quốc tế bao gồm hệ thống các đồng tiền của một số
quốc gia đã có quan hệ gắn bó hoặc phụ thuộc lẫn nhau, với ý định cạnh tranh hoặc
chống lại sự xâm nhập kinh tế – tài chính của các khối kinh tế khác. Đồng thời, thúc đẩy
quan hệ giao thương về kinh tế – xã hội giữa các nước trong khối.
Thứ hai, chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ của một số quốc gia đã có quan hệ gắn
bó hoặc phụ thuộc lẫn nhau được thể hiện bằng những thỏa ước với mục đích, thường là:
• Tạo sự liên kết kinh tế giữa một số nước đã có quan hệ gắn bó hoặc phụ thuộc
lẫn nhau, với ý định cạnh tranh hoặc chống lại sự xâm nhập kinh tế – tài chính của các
khối kinh tế khác. Đồng thời, thúc đẩy quan hệ giao thương về kinh tế – xã hội giữa các nước trong khối.
• Thiết lập một liên minh chính trị chặt chẽ hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước,
dưới sự chỉ huy hoặc thao túng của một quốc gia mạnh.
• Củng cố vai trò và vị trí kinh tế – tiền tệ của một quốc gia nào đó trong khu vực,
buộc các nước kém lợi thế lớn phải phụ thuộc về tiền tiền sau đó là phụ thuộc kinh tế vào quốc gia này.
2.1.2.2. Nội dung của hệ thống tiền tệ quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế bao gồm hai nội dung cơ bản sau:
Đơn vị tiền tệ chung:
Đơn vị tiền tệ chung: Là đơn vị thanh toán, đo lường và dự trữ giá trị của một
cộng đồng kinh tế. Thông thường các nước sử dụng một đồng tiền mạnh của một quốc
gia nào đó trong khối làm đồng tiền chung. Ví dụ: Như GBP (bảng Anh), USD (Đôla
Mỹ)… đã từng là đồng tiền quốc tế một thời gian. Sau này do sự phát triển và hội nhập
kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành và phát triển hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện, do vậy không có đồng tiền của một quốc gia nào được chọn là “đơn vị tiền tệ
chung”, mà các liên minh tự định ra đồng tiền chung của khối. Đồng tiền của khối có tên
gọi riêng, có tỷ giá xác định với các đồng tiền thành viên và các đồng tiền ngoài khối. Ví
dụ: Cộng đồng kinh tế Châu Âu gồm 25 thành viên, đã ký kết hiệp ước Maastricht – 1992,
xác lập đồng tiền chung gọi là Euro. Đồng tiền này đã thực sự đi vào cuộc sống kinh tế –
xã hội của 11 nước EU vào ngày 1/1/1999. Tỷ giá được xác lập giữa USD/EURO ngay
ngày ra đời là 1 EURO = 1,16675 USD.
Chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ: Thông thường chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ
quốc tế bao gồm những nội dung đặc trưng sau:
• Qui định tỷ giá giữa đồng tiền chung với các đồng tiền thành viên của khối; có
thể theo tỷ giá cố định, cũng có thể theo tỷ giá linh hoạt.
• Qui định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và lưu thông các
loại giấy tờ có giá trị khác ghi bằng đồng tiền chung.
• Qui định về dự trữ ngoại hối: ấn định tỷ trọng giá trị của đồng tiền chung trong
tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên, cũng như của ngân hàng thuộc khối.
Tiền tệ quốc tế và hệ thống tiền tệ quốc tế là sản phẩm của các liên minh kinh tế,
do vậy sự tồn tại và phát triển của các liên minh kinh tế quyết định sự tồn tại và phát triển
của tiền tệ quốc tế và hệ thống tiền tệ quốc tế. Trên thực tế, các liên minh kinh tế thường
không đứng vững được trong một thời gian dài do những nguyên nhân khác nhau. Khi
liên minh tan vỡ thì các sản phẩm được hình thành theo các thỏa ước cũng bị tiêu vong.
Là một hiện tượng kinh tế, việc một hệ thống tiền tệ này tan vỡ và một hệ thống tiền tệ
khác xuất hiện là một sự kiện thường xuyên trong đời sống kinh tế của xã hội loài người
có trình độ sản xuất và trao đổi hàng hóa đã phát triển cao.
2.1.2.3. Các hệ thống tiền tệ quốc tế chủ yếu
Trước đây, hệ thống tiền tệ thế giới chủ yếu được hình thành tự phát trên cơ sở chế
độ bản vị vàng, có nghĩa là các quốc gia đều chấp nhận vàng làm công cụ trung gian
trong trao đổi thanh toán quốc tế. Các hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành và phát
triển chỉ trong một giai đoạn nhất định. Trong thế kỷ XX đã chứng kiến sự xuất hiện, tồn
tại và suy vong của một số hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là:
- Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929) tồn tại được 7 năm.
- Chế độ bản vị USD (1944-1971) tồn tại được 27 năm.
- Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991) tồn tại được 27 năm…
1. Chế độ bản vị bảng Anh (1922-1929)
Sau Đại chiến thế giới I (1914-1918) các quốc gia ở Châu Âu bị kiệt quệ về kinh
tế. Nước Anh cũng ở trong tình trạng này, tuy nhiên London vẫn giữ được vị thế mạnh về
kinh tế và tài chính so với các nước trong khu vực nhờ có hệ thống thuộc đị rộng lớn và
thị trường tài chính London rất phát triển của mình. Lợi dụng vị tế đó, Anh đã thiết lập
hệ thống tiền tệ quốc tế, lấy chính đồng bảng Anh làm đồng tiền chủ chốt. Được nhiều
nước ủng hộ và được Hoa Kỳ hậu thuẫn, hệ thống tiền tệ quốc tế với bảng Anh là đồng
tiền chủ chốt đã ra đời.
Tuy nhiên, trong thời kỳ này nhiều quốc gia vẫn muốn quay trở lại chế độ bản vị
vàng. Nhưng do khối lượng hàng hóa, dịch vụ lưu thông rất lớn và ngày càng gia tăng, mà
khối lượng vàng dự trữ lại có hạn, nên các ngân hàng không thể đổi giấy bạc ngân hàng ra
vàng cho mọi đối tượng có nhu cầu. Do đó ngân hàng Anh qui định, các đối tượng muốn
đổi giấy bạc ra vàng phải có 1.700 bảng Anh để đổi lấy 400 ounce (1 ounce = 31,135 gr)
tức 12,4414 kg vàng. Vì vậy, chế độ tiền tệ quốc tế này còn được gọi là chế độ bản vị vàng
thoi, hay chế độ bản vị vàng hối đoái.
Hệ thống tiền tệ dựa trên bảng Anh được hình thành nhằm phục vụ cho ý đồ kinh
tế và chính trị của nước Anh. Khi kinh tế nước Anh suy thoái, hệ thống thuộc địa của
Anh bị thu hẹp mạnh mẽ do phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và nhát là cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn của thế gới (1929-1933) đến gần thì vị trí của GBP không còn
nữa. Hệ thống tiền tệ dựa trên bảng Anh sụp đổ. Bảng Anh mất vị trí là đồng tiền quốc tế
tế, nó chỉ còn là đồng tiền quốc gia. Nhưng do vị thế tài chính của nước Anh trên thị
trường quốc tế còn rất lớn, cho nên hiện nay bảng Anh vẫn là đồng tiền có khả năng
thanh toán mạnh trên thế giới.
2.Chế độ bản vị dollar Mỹ (1944-1971)
Khi Đại chiến thế giới II (1939-1945) gần kết thúc, Hoa Kỳ không những ít bị
thiệt hại trong chiến tranh mà còn thu lợi từ cuộc chiến tranh này và vươn lên chiếm vị trí
hàng đầu thế giới về kinh tế – tài chính. Tháng 7/1944 Hoa Kỳ triệu tập Hội nghị tài
chính – tiền tệ họp ở Bretton Woods (Mỹ). Một trong những nội dung của hội nghị này là
bàn cách khôi phục lại chế độ bản vị vàng hối đoái và lấy USD làm phương tiện thanh
toán và dự trữ quốc tế. Chế độ bản vị đôla Mỹ ra đời sau hội nghị này. Ngân hàng Hoa
Kỳ camkết đổi 35 USD/1 ounce vàng (1 USD = 0,888671gr vàng). Cũng như chế độ bản
vị GBP, chế độ bản vị USD phụ thuộc vào vị trí kinh tế – tài chính của Hoa Kỳ. Cuối
thập kỷ 60 của thế kỷ XX, kinh tế Hoa Kỳ đi vào suy thoái, không còn vị thế như những
năm 50. Lạm phát ở mức cao, lượng vàng đảm bảo cho USD từ 2,72 lần năm 1950 giảm
xuống còn 2,38 lần (1952); 1,84 lần (1954); 0,92 lần (1960); 0,5 lần (1966). Đến 1967
Chính phủ Mỹ điều chỉnh 1 ounce vàng = 38 USD. Đầu năm 1971, Hoa Kỳ từ bỏ cam kết
đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng. Đến tháng 8/1971 Hoa Kỳ đơn phương từ chối nghĩa vụ
thực hiện Hiệp ước Bretton Wood và tuyen bố phá giá USD trong quan hệ ngoại thương
7,89%. Đến thời điểm này, chế độ bản vị USD đã chấm dứt.
Hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên USD không tồn tại nữa, nhưng do tiềm lực kinh
tế của Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới, do đó USD vẫn được ưa chuộng. Hiện nay, USD
vẫn là đồng tiền có khả năng thanh toán mạnh nhất. Nó là đồng tiền chuyển đổi hoàn
toàn, là đồng tiền chuẩn để tính thu nhập quốc dân, thu nhập tính theo đầu người, tính giá
trị dự trữ ngoại hối, kim ngạch xuất khẩu…của nhiều quốc gia cũng như của toàn thế giới.
3. Chế độ Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991)
Các nước Xã hội chủ nghĩa là thành viên khối Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),
đã ký hiệp định thanh toán nhiều bên bằng Rúp chuyển nhượng ngày 20/10/1963. Đồng
thời thành lập ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc tế (MBES) để theo dõi và thực hiện quá
trình thanh toán. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 1/1/1964.
Như vậy, từ đầu năm 1964, Rúp chuyển nhượng (RCN) là đồng tiền tập thể của 10
nước XHCN thuộc khối SEV là: Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari, Rumani, Mông Cổ,
CHDC Đức, Bungari, Cuba và Việt Nam với tỷ giá 1 RCN = 1,5 USD. Tuy nhiên, RCN
chỉ tồn tại dưới hình thức ghi sổ trên tài khoản của các nước thành viên SEV và được sử
dụng để thanh toán bù trừ.
Khi hệ thống Xã hội chủ nghĩa tan rã, khối Hội đồng tương trợ kinh tế không còn
nữa thì Rúp chuyển nhượng cũng chấm dứt vai trò lịch sử của nó vào ngày 31/12/1991, sau 27 năm tồn tại.
4. Hệ thống tiền tệ của Châu Âu
Euro là đồng tiền chung của Liên Minh Châu Âu (EU). Đồng tiền này được hình
thành trên cơ sở thỏa ước Maastriccht được ký kết giữa các nguyên thủ các nước thành viên EU vào năm 1992.
Từ ngày 1/1/1999, 11/15 nước của EU đã sử dụng Euro trong các giao dịch
chuyển khoản song song với bản tệ của các nước. Lúc này ECU, đơn vị thanh toán cũ của EU đã bị bãi bỏ.
Từ ngày 01/01/2002, 12 nước trong EU đã lưu thông Euro tiền mặt và xóa bỏ các
đồng tiền bản tệ riêng biệt của các nước với 65 tỷ EUR tiền giấy và 35 tỷ EUR tiền kim
loại. Euro là đồng tiền chung của hệ thống tiền tệ khu vực. Hiện tại là của 12 nước (EU-
12) với số dân hơn 300 triệu người. Khi ra đời 1 Euro = 1,16675 USD. Sau một thời gian
dài xuống giá so với USD, trong thời gian dần đây Euro đã lên giá rất mạnh, thậm chí
vượt qua cả giá qui định ban đầu so với USD và đang trở thành một đồng tiền mạnh trên thế giới.
5. Hệ thống tiền tệ toàn cầu
Trên thực tế không có hệ thống tiền tệ toàn cầu, mà chỉ có một cơ chế thanh toán
và tín dụng do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thiết lập cho các nước thành viên. Cơ chế này
gọi là “quyền rút vốn đặc biệ”t, viết tắt theo thuật ngữ tiếng Anh là SDR (Special Drawing Rights).