



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH & CÔNG NGHỆ HÀ NỘI BỘ MÔN KINH TẾ
K I N H T Ế P H Á T T R I Ể N Hà Nội, 2020
K I N H T Ế P H Á T T R I Ể N *** M U C L Ụ C
PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ Chương
1. Tổng quan về phát triển và phát bền vững nền kinh tế
I. Phát triển kinh tế
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu và bản chất phát triển kinh tế
2. Các nước đang phát triển trong hệ thống kinh tế thế giới
3. Những lựa chọn khác nhau của các nước đang phát triển và hậu quả của quá trình phát triển
4. Các mô hình phát triển kinh tế
II. Phát triển bền vững nền kinh tế 1. Phát triển bền vững
2. Nội dung phát triển bền vững
3. Việt Nam nhập cuộc hành trình phát triển bền vững
Chương 2. Phân tích và đánh giá phát triển kinh tế
I. Tăng trưởng kinh tế 1. Khái niệm và ý nghĩa
2. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Khái niệm và ý nghĩa
2.Những cơ sở lý thuyết xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3. Các xu thế chuyển dịch cớ cấu ngành kinh tế 4. Kết luận
III. Sự tiến bộ xã hội 1. Ý nghĩa nghiên cứu
2. Các tiêu chí đánh giá phát triển con người 3. Đánh giá nghèo khổ 4. Công bằng xã hội
5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng với giảm nghèo và công bằng xã hội
PHẦN 2. VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Chương 1. Các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
I. Hàm sản xuất tổng quát 1. Khái quát chung
2. Quan điểm hiện đại về hàm sản xuất
3. Ý nghĩa phân tích hàm sản xuất
II. Cơ chế tác động và xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế
1. Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế
2. Xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng - hàm sản xuất Cobb - Douglas
Chương 2. Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế (tiếp cận theo các mô hình tăng trưởng)
I. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của D. RICARDO 1.
Những xuất phát điểm của lý thuyết 2.
Quản điểm về các yếu tố tác động đến tăng trưởng của lý thuyết tăng trưởng Ricardo 3.
Những phê phán và vận dụng lý thuyết tăng trưởng của Ricardo trong hoạch định chính sách tăngtrưởng
II. Mô hình tăng trưởng HARROD - DOMAR 1.
Những xuất phát điểm của mô hình 2.
Quan điểm của mô hình Harrod - Domar về tác động của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởngkinh tế 3.
Vận dụng quan điểm của Harrod - Domar trong hoạch định chính sách kinh tế 4.
Hạn chế của mô hình Harrod - Domar
III. Mô hình tăng trưởng SOLOW
1. Xuất phát điểm của mô hình
2. Quan điểm của mô hình Solow về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
3. Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình Solow trong hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển
4. Những nhược điểm của mô hình tăng trưởng Solow
VI. Các mô hình tăng trưởng nội sinh
1. Xuất phát điểm của các mô hình nội sinh
2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng
3. Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình tăng trưởng nội sinh
4. Hạn chế của các mô hình tăng trưởng nội sinh
Chương 3. Các mô hình kết hợp vốn và lao động trong tăng trưởng kinh tế. Chiến lược lựa chọn
công nghệ trong các nước đang phát triển
I. Các mô hình kết hợp lao động và vốn trong tăng trưởng kinh tế 1.
Mô hình cố định yếu tố công nghệ (trường phái J.Keynes) 2.
Mô hình kết hợp K và L với sự thay đổi trong yếu tố công nghệ (trường phái tăng trưởng
tăngtrưởng tân cổ điển và trường phải tăng trường nội sinh)
II. Chiến lược lựa chọn công nghệ của các nước đang phát triển
1. Cơ sở xuất phát của chiến lược
2. Nội dung chiến lược lựa chọn công nghệ của các nước đang phát triển.
PHẦN 3. QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN Chương 1. Ngoại thương với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển
I. Tổng quan về vai trò của thương mại quốc tế với tăng trưởng kinh tế thế giới
1. Bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế
2. Vai trò của thương mại quốc tế trong các nước đang phát triển
II. Thương mại quốc tế ở các nước đang phát triển
A. Các học thuyết về thương mại quốc tế
1. Lý thuyết thương mại quốc tế cổ điển
2. Lý thuyết thương mại quốc tế của Solow
3. Lý thuyết thương mại quốc tế của mô hình tăng trưởng nội sinh
B. Các chiến lược thương mại quốc tế của các nước đang phát triển
1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu
3. Chiến lược hướng ngoại
Tài liệu tham khảo:
- Sách chuyên khảo: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, GS.TS Ngô Thắng Lợi và PGS.TS Phan Thị Nhiệm.
- Giáo trình: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, Chủ biên GS.TS Ngô Thắng Lợi.
- Giáo trình: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, chủ biên: GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng.
- Kinh tế học cho thế giới thứ ba.
( Tác giả : Michael P.Todaro ).
- Kinh tế học của các nước đang phát triển.
( Tác giả : E. Wayne Nafziger ). PHẦN I
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ
“Tại sao một số quốc gia lại giàu có trong khi số khác lại nghèo? Tại sao một nền kinh tế lại
tăng trưởng nhanh và người dân của họ được hưởng một mức thu nhập tăng lên nhanh chóng, trong
khi những quốc gia khác lại tăng trưởng rất chậm hay thậm chí không tăng trưởng? Bằng cách nào
mà một số nước Đông Nam Á có thể chuyển từ trạng thái đói nghèo sang trạng thái tương đối thịnh
vượng chỉ trong vòng 30 năm, trong khi nhiều nước châu Phi vẫn còn trong tình trạng nghèo cùng
cực, với rất ít dấu hiệu của sự tăng trưởng và phát triển bền vững? Đó là một trong số những câu hỏi
quan trọng nhất trong nghiên cứu kinh tế học phát triển và thực sự đề cập những vấn đề sâu xa nhất
mà xã hội loài người đang gặp phải? (Dwight H.Perkins)
Kinh tế phát triển là kinh tế học của các nước đang phát triển. Dựa trên các nguyên lý lý thuyết
và kinh nghiệm thực chứng trong phát triển kinh tế của các nước, Kinh tế phát triển sẽ là tài liệu giúp
cho các nước đang phát triển (kể cả các địa phương trong các quốc gia đang phát triển) có cơ sở tìm
kiếm, lựa chọn cách thức, con đường đi phù hợp với bối cảnh, mục tiêu, thể chế và trình độ phát triển
của mình. Với nội dung nghiên cứu như vậy, Kinh tế phát triển đã trở thành một môn học bắt buộc
cho các sinh viên hệ cử nhân và cao học các chuyên ngành kinh tế trong các trường đại học. Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ
Mục đích: Chương này sẽ giúp bạn đọc có một quan điểm đầy đủ về phát triển kinh tế, vai trò của
mỗi bộ phận cấu thành và quá trình phát triển kinh tế; lý do xuất hiện khái niệm “phát triển bền
vững”, quá trình hoàn thiện quan niệm này về lý luận và thực tiễn trên thế giới cũng như quá trình
“nhập cuộc” phát triển bền vững của Việt Nam.
I. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu và bản chất phát triển kinh tế -
Khái niệm Kinh tế học: Là môn khoa học nghiên cứu và thực hành sự lựa chọn các
phương án phát triển kinh tế trên cơ sở sử dụng hiệu qủa các nguồn lực có hạn. -
Khái niệm Kinh tế phát triển: Là môn khoa học nghiên cứu và thực hành các vấn
đề của kinh tế học trong điều kiện của các nước đang phát triển. -
Đối tượng: Nghiên cứu cách thức (chính sách, phương pháp, giải pháp) để tăng trưởng
kinh tế và phát triển bền vững nhằm chuyển nền kinh tế từ trình độ thấp lên trình độ phát triển cao
hơn gắn với công bằng xã hội. -
Bản chất của phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của đại đa số các quốc gia trên thế giới. Khi nói về một
xã hội phát triển, chúng ta thường hình dung ra một xã hội, ở đó mọi người được ăn ngon, mặc đẹp,
có khả năng chủ động trong việc tiếp cận các loại tài sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giải
trí sang trọng, được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh. Chúng ta nghĩ tới một xã
hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công bằng cần thiết. Một yêu cầu tối thiểu của một
quốc gia phát triển là chất lượng cuộc sống vật chất của quốc gia đó phải cao và được phân phối một
cách đồng đều thay vì chỉ giới hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giàu có trong xã
hội. Cao hơn yêu cầu tối thiểu đó, một quốc gia phát triển còn đề cập các quyền và sự tự do của con
người về mặt chính trị, sự phát triển về văn hóa và trí thức, sự bền vững của gia đình,… Những phân
tích trên đây cho chúng ta đi đến một khái niệm tổng quan nhất về phát triển nền kinh tế, đó là quá
trình tăng tiến, toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Bản chất của phát
triển kinh tế cần được hiểu theo những khía cạnh khác nhau:
+ Theo nội dung, phát triển kinh tế là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện hai vấn đề
kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển về mặt kinh tế được thể hiện ở sự gia tăng tổng mức
thu nhập bình quân đầu người (sự tăng trưởng kinh tế) và biến đổi cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng
ngày càng hiện đại. Sự phát triển xã hội thể hiện khả năng mở rộng năng lực phát triển toàn diện của
con người và việc sử dụng năng lực đó để khai thác các cơ hội của cuộc sống.
+ Theo lôgic biện chứng của quá trình phát triển: Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến
đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm ý nghĩa sự gia tăng
về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế, còn có sự thay đổi về chất bao gồm quá trình thay
đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế) và sự tiến bộ xã hội.
Đến đây chúng ta có thể phác họa ra công thức phát triển kinh tế: Tăng Phát triển trưởng Tiến bộ kinh tế Chuyển dịch cơ kinh tế cấu xã hội
Công thức của phát triển kinh tế
Mỗi bộ phận trong công thức trên chính là những mục tiêu của quá trình phát triển và có vai
trò khác nhau trong quá trình thực hiện sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế là tiêu thức thể hiện quá
trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một
quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của sự phát triển. Tuy vậy, một số quốc gia có tăng trưởng
kinh tế nhanh chưa chắc đã có sự tiến bộ xã hội. Điều đó có nghĩa là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện
cần nhưng không đủ để có sự phát triển. Trình độ của cơ cấu ngành kinh tế thể hiện bản chất của sự
phát triển, là dấu hiệu để đánh giá các giai đoạn phát triển kinh tế. Để phân biệt các giai đoạn phát
triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào
dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển
trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là sự tiến bộ xã hội
cho con người, cụ thể là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tuổi thọ bình quân, tăng khả năng
tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục của quảng đại quần chúng
nhân dân,v.v.. Hoàn thiện sự tiến bộ xã hội là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển.
Phát triển với bản chất nêu trên phải là một quá trình lâu dài, diễn ra theo các nấc thang tuần
tự và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định.
2. Các nước đang phát triển trong hệ thống kinh tế thế giới
2.1. Sự phân chia hệ thống kinh tế thế giới:
Sự phân chia lần thứ nhất năm 1945: -
Thế giới thứ nhất: Một số nước CN phát triển - DCs, có nền kinh tế thị trường ở Tây Âu (Anh,
Pháp, Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha), Bắc Mỹ, Thái Bình Dương => đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
- Thế giới thứ hai: Một số nước CN phát triển ở Đông Âu theo mô hình KHH tập trung => đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa. -
Thế giới thứ ba: Một số quốc gia ở châu Á, châu Phi giành được độc lập sau chiến tranh thế
giới II => để tránh vào khối này hoặc khối kia, nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ 3 đã tìm cách liên
kết với nhau, phủ nhận việc phân chia thế giới thành Đông - Tây. Tháng 4 -1953 tại Inđônêxia đã diễn
ra hội nghị Bandung của 24 lãnh đạo của các quốc gia châu Á và châu Phi. Tại hội nghị này đã chủ
trương trung lập “ không liên kết” những người tham gia cũng khẳng định mong muốn hình thành
một nguyên tắc quốc tế mới, giành ưu tiên cho các quốc gia nghèo, giúp các quốc gia này thoát ra
khỏi tình trạng chậm phát triển.
Sự phân chia lần thứ hai năm 1992: -
Các nước phát triển (DCs):
Gồm khoảng trên 40 nước bao gồm nhóm bảy nước công nghiệp đứng đầu thế giới (G7) và các nước
phát triển khác. Đại bộ phận các nước này tham gia vào Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
G7 gồm: Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia và Canađa. Chiếm 75% tổng giá trị công nghiệp toàn thế giới.
G7 : GNP bq > 20.000 USD/người.
Nước CN phát triển khác bao gồm phần lớn các nước Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu cùng với Ôxtrâylia
và Niu Dilân. Các nước này đều có : GNP bq trên 15.000 USD/người và có tỷ trọng công nghiệp cao trong nền kinh tế. -
Các nước công nghiệp mới - NICs:
Gồm khoảng hơn 11 nước và vùng lãnh thổ Nics: Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ,
Braxin, Mêhicô, Áchentina, Ixraen, Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo, Hàn Quốc => Thu nhập bình
quân trên 6.000USD/người, nổi bật là 4 nước châu Á (bốn con rồng” tốc độ tăng trưởng bình quân 7-
8% liên tục trong 3 thập niên, có thời kỳ đạt 11-12% và mức thu nhập GNP bq > 10.000 USD/người.
Tận dụng lợi thế so sánh phát triển hoạt động ngoại thương, tranh thủ vốn và công nghệ nước ngoài.
- Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC): gồm các nước Trung Đông: Arập Xê út, Cô oét, Iran, Irắc,
Các tiểu vương quốc Arập thống nhất.
OPEC thành lập năm 1973 nhằm liên kết các nước xuất khẩu dầu mỏ. Từ năm 1973-1980 giá dầu mỏ
tăng gấp 8 lần và các quốc gia này đã thu được nguồn lợi rất lớn. Một số quốc gia trở nên giàu có
cũng muốn mau chóng phát triển công nghiệp, họ đã dùng đô la kiếm được từ dầu mỏ và khí đốt để
trang bị các nhà máy hiện đại.
GNP bq cao=> cơ cấu kinh tế phát triển không cân đối và có sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập. -
Các nước đang phát triển: Thuật ngữ “đang phát triển” được thể hiện xu thế đi lên của
hầu hết các nước thuộc Thế giới thứ ba - Các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước
nông - công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hoá.
Theo số liệu của Báo cáo phát triển thế giới năm 2010, các nước đang phát triển là các nước có thu
nhập thấp và trung bình, bao gồm khoảng 130 nước, có diện tích tự nhiên chiếm khoảng 2/3 tổng
diện tích toàn thế giới, tương ứng, tỷ lệ dân số chiếm trên 80%. Trong số các nước đang phát triển,
theo các tiêu chí của UN, có một nhóm nước nằm trong tình trạng chậm phát triển - LDCs. Các nước
LDCs là các nước có thu nhập thấp, giá trị bình quân chỉ số tổng thu nhập quốc gia trên đầu người
hằng năm trong vòng ba năm ở mức thấp, nguồn lực con người nghèo nàn (HDI ở mức thấp), nền
kinh tế dễ bị tổn thương, thể hiện sự lạc hậu trong cơ cấu ngành kinh tế với sự chi phối cao của ngành
nông nghiệp (chiếm 40-60% GDP).
Theo các phân loại trên, Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển có mức thu nhập
thuộc nhóm các nước trung bình thấp (được UN công nhận vào năm 2009, năm 2010 đạt 1.170 USD,
năm 2017 đạt 2.400 USD.) và thuộc nhóm nước có trình độ phát triển con người ở mức trung bình
(theo số liệu năm 2010 của UN, HDI của Việt Nam đạt 0,575, xếp thứ 113/169 nước tham gia xếp
hạng chính thức). Việt Nam, mặc dù trước năm 2009 thuộc nhóm nước thu nhập thấp, nhưng nhiều
năm nay không phải là một thành viên của nhóm nước LDC, bởi những thành tựu quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là những thành tựu trong giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và thực hiện
một nền nông nghiệp canh tác theo xu hướng hiện đại.
2.2. Các đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển và sự cần thiết lựa chọn con đường phát triển
Mặc dù có sự khác biệt nhất định về điều kiện lịch sử, địa lý, chính trị, xã hội, các nước đang phát
triển đều có những đặc điểm tương đồng trong phát triển kinh tế, được coi là những đặc trưng chung của các nước này.
Những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển (1) Mức sống thấp (2)
Nền kinh tế chịu sự chi phối nhiều bởi nông nghiệp- Tỷ lệ tích luỹ thấp. -
Trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp. -
Năng suất lao động thấp.
(3) Tốc độ tăng dân số cao và khả năng bảo đảm các nhu cầu xã hội cho con người thấp.
(4) Nền kinh tế phụ thuộc rất lớn bởi nước ngoài
Sự cần thiết lựa chọn con đường phát triển
Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên quan
chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ (xem hình dưới), làm cho khoảng cách
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng. Thu nhập thấp Năng suất thấp Tỷ lệ tích luỹ thấp Trình độ kỹ thuật thấp
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Thực trạng này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn.
Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau. Có những nước vẫn
tiếp tục roi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi
cận Sahara, hay một số nước Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn
khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước và vùng lãnh thổ NICs châu Á:
Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo và Hàn Quốc. Gần đây các nước Thái Lan, Malaixia và Trung Quốc
cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. Vì vậy việc lựa chọn con
đường đi hợp lý cho mỗi nước là điều tất yếu phải đặt ra trong quá trình phát triển của quốc gia mình.
3. Những lựa chọn khác nhau của các nước đang phát triển và hậu quả của quá trình phát triển.
+ Thứ nhất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phải trả giá bằng việc sử dụng quá mức nguồn
tài nguyên, môi trường sinh thái và môi trường sống của con người.
+ Thứ hai, sự tăng trưởng nhanh chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ dân cư trong xã hội ở các
nước đang phát triển.
+ Thứ ba, chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh đã dẫn đến xu hướng vi phạm các khía cạnh về
quyền con người và những yếu tố văn hóa truyền thống.
Như vậy là, sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế thế giới từ những năm
50-80 thế kỷ XX, loại người nhận thức được rằng: Chỉ riêng thước đo kinh tế không thể phản ánh
được đầy đủ quan niệm về phát triển. Do vậy, phải xem xét lại và đánh giá đúng đắn các mối quan
hệ: con người - trái đất, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - bảo vệ tài nguyên, môi trường và các
vấn đề về xây dựng thể chế, trong đó con người đóng vai trò trung tâm của sự phát triển. Tài nguyên
của trái đất không phải là vấn đề vô tận, không thể khai thác và thống trị theo ý muốn của mình; cần
thiết phải tính toán đến lợi ích chung của cộng đồng, của các thế hệ tương lai và các chi phí môi
trường cho sự phát triển... Hiểu được tất cả các yêu cầu trên chính là hiểu được điều cốt yếu của vấn
đề về “Phát triển bền vững”.
4. Các mô hình phát triển kinh tế
4.1 Mô hình phát triển nhấn mạnh vào tăng trưởng: Cơ sở lý luận:
+ Tăng thu nhập kinh tế sẽ giải quyết được các vấn đề khác trong nền kinh tế.
+ Để tăng trưởng nhanh cần đầu tư vào một số mũi nhọn kinh tế. Nhược điểm:
+ Gây cạn kiệt nguồn lực.
+ Mất cân bằng xã hội gay gắt.
4.2. Mô hình phát triển nhấn mạnh vào việc đáp ứng nhu cầu con người: Cơ sở lý luận:
+ Đáp ứng nhu cầu con người là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển.
+ Cần đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và đảm bảo công bằng xã hội. Nhược điểm:
+ Nguồn lực phân tán nên tốc độ tăng trưởng không cao.
+ Nền kinh tế mất động lực phát triển.
4.3. Mô hình phát triển toàn diện
Cơ sở lý luận: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp
nguồn lực, bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Nhược điểm: Khó thực hiện được mô hình này do khó khăn từ thực tiễn.
II. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ
1. Phát triển bền vững 1.1. Khái niệm
Phát triển bền vững chính là sự phát triển trong một thời gian dài, ổn định dựa trên 3 vấn đề :
Kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển bền vững
Kết luận về tăng trưởng và phát triển:
Tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế trong khi phát triển kinh tế
là quá trình thay đổi về lượng diễn ra đồng thời với quá trình thay đổi về chất của nền kinh tế.
1.2 Phát triển bền vững nền kinh tế
+ Theo Liên hợp quốc về phát triển bền vững:
“Là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Tại Chương trình nghị sự 21, quan niệm đầy đủ về phát triển bền vững được Liên hiệp quốc
đưa ra là: “Bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tốt tiến bộ và
công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống”.
2. Nội dung phát triển bền vững
Quan điểm nêu trên của Liên hợp quốc đã được thể hiện rõ nội dung của phát triển bền vững
hiện nay. Có thể mô tả khái quát nội dung này qua các hình dưới đây.
Nội dung phát triển bền vững được xác định bao gồm 3 trụ cột: (i)
Bền vững về kinh tế: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, lâu dài và hiệu quả. (ii)
Bền vững về mặt xã hội: Đảm bảo công bằng xã hội và phát triển con người.
(iii) Bền vững về môi trường: Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không
ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống, đảm bảo cho con người được sống trong môi trường
sạch, lành mạnh và an toàn, hài hoà trong mối liên hệ giữa con người với xã hội và tự nhiên. Mục tiêu kinh tế Phát triền bền vững
Mục Mục tiêu tiêu xã môi trường hội
Ba trụ cột của phát triển bền vững
Phát triển bền vững phải được thể hiện ở vùng phối hợp được cả ba mục tiêu kinh tế - xã hội - môi
trường (Hình bên phải). Nó mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như:
Kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa,... Mục tiêu của phát triển ngày nay phải là nâng cao điều
kiện và chất lượng cuộc sống của loài người, tạo nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các
thành viên. Để đạt được mục tiêu ấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia phải xác định được một
cách hợp lý các mục tiêu cụ thể của ba nội dung phát triển này để tạo nên ba đỉnh các tam giác phát
triển bền vững (hình bên trái), trong đó mục tiêu bền vững kinh tế là lựa chọn một tốc độ tăng trưởng
hợp lý trên cơ sở một cơ cấu kinh tế phù hợp và có hiệu quả nhất. Bền vững về xã hội tập trung vào
việc thực hiện từng bước các nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển con người. Bền vững về môi
trường bao gồm khai thác hợp lý tài nguyên; bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường; thực hiện tốt quá
trình tái sinh tai nguyên môi trường.
3. Việt Nam nhập cuộc hành trình phát triển bền vững
Thời kỳ trước đổi mới, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam là hình nhấn mạnh vào công
bằng xã hội. Kết quả là chúng ta đã tạo ra được những thành tựu nhất định về bảo đảm những yêu
cầu cơ bản về phát triển con người, quyền bình đẳng trong xã hội được coi trọng. Tuy vậy, mô hình
này đã dẫn đến sự phát triển rất kém về mặt kinh tế. Sự bình đẳng và công bằng xã hội được xây dựng
trên cơ sở mức sống thực sự thấp kém, nền kinh tế nói chung và đời sống kinh tế của quảng đại dân
chúng rất khó khăn. Bắt đầu từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, chúng ta bước vào thời kỳ cải tổ kinh
tế, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với quan điểm gắn kết đồng thời
cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong toàn tiến trình phát triển. Tuy vậy, trong những năm qua,
phát triển kinh tế Việt Nam vẫn còn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao
động còn thấp; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và
chất thải. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục còn rất bất
cập. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi
trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động.
Hệ thống chính sách và công cụ pháp luật còn chưa đồng bộ để có thể kết hợp một cách có hiệu quả
giữa ba mặt của sự phát triển bền vững là kinh tế - xã hội - môi trường. Nắm bắt được tình hình đó,
Chính phủ Việt Nam đã có những bước tiếp cận ngày càng đầy đủ đến hành trình phát triển bền vững
nền kinh tế đất nước. Cụ thể:
Ngày 12-6-1991, tại Quyết định số 187-CT, Chính phủ thông qua “Kế hoạch quốc gia về môi
trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”, một trong những kế hoạch quốc gia đầu tiên
được xây dựng theo quan điểm phát triển bền vững vừa được quốc tế chính thức công bố.
Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 36-CT/TW “Về việc tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu lên quan điểm “Bảo vệ môi
trường phải gắn liền và là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước”. Tiếp đó, Đại hội
IX của Đảng đã khảng định con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là: “Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường”. “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự
hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
Ngày 17-8-2004, trong Quyết định số 153-2004/QĐ/TTg, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)
nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm
những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngànhm địa phương, các tổ chức và cá nhân có
liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm đảm bảo phát triển bền vững đất nước
trong thế kỷ XXI. Định hướng nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những
chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện.
Định hướng không thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ để
xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.
Những nguyên tắc chính phát triển bền vững ở Việt Nam
Nguyên tắc 1: Con người là trung tâm của phát triển bền vững.
Nguyên tắc 2: Phát triển kinh tế là trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới.
Nguyên tắc 3: Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển.
Nguyên tắc 4: Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ
hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc 5: Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.
Nguyên tắc 6: Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành
và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Nguyên tắc 7: Gắn chặt việc xây dưng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, để phát triển bền vững đất nước.
Nguyên tắc 8: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với
bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Ngày 12-4-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 432/QĐ/TTg phê duyệt Chiến lược phát
triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Theo đó: (1)
Mục tiêu tổng quát là: Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. (2)
Các mục tiêu cụ thể: -
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là cân đối lớn; giữ vững an ninh lương thực, an ninh
nănglượng, an ninh tài chính. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển hài hòa giữa chiều
rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế cácbon thấp. Sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực. -
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh; nền văn hóa tiên tiến,
đậmđà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ,
đạo đức, thể lực, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. -
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. Khai thác hợp lý và
sửdụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không thể tái tạo được.
Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường,
bảo vệ phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng
có hiệu quả và biến đổi khí hậu, nhất là hiện tượng nước biển dâng. Chương 2
Phân tích và đánh giá phát triển kinh tế
(Tiếp cận từ góc độ phát triển bền vững)
Mục đích: Từ “công thức phát triển” nêu ở Chương 1, theo quan điểm phát triển bền vững,
Chương sẽ đi vào giới thiệu nội dung phân tích và đánh giá phát triển kinh tế trên khía cạnh: tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến bộ xã hội. Nội dung của mỗi khía cạnh sẽ được xem
xét thông qua các tiêu chí đánh giá và xu thế biến đổi của nó trong quá trình phát triển. Chương này
còn phân tích các cách thức lựa chọn khác nhau của các nước trong việc kết hợp hai tổ hợp trong
phát triển kinh tế: Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, và trên một mức độ nhất định đưa ra những
bình luận về làm thế nào để kết hợp tốt hơn hai tổ hợp này.
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Khái niệm và ý nghĩa
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản
ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trường được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và
phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho toàn
thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự
thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở
ngay trong khái niệm về tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc
độ tăng trưởng thu nhập.
- Phản ánh sự thay đổi tuyệt đối: ∆Y=Y1-Y0 Y
- Phản ánh tốc độ thay đổi: g = 1 - Y0 x 100 Y0
Yo: Sản lượng năm gốc.
Y1: Sản lượng năm hiện tại ∆Y:
Mức tãng trong thời gian xét. g : Tốc độ tăng.
Những chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế:
- Chỉ tiêu phản ánh quy mô, khối lượng hàng hoá dịch vụ sản xuất ra: GDP, GNP, NNP, NI, DI.
- Chỉ tiêu phản ánh mức giá trị sản xuất hàng hoá và dịch vụ bình quân đầu người : GDP bq người, GNP bq người,…
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tiến bộ và công bằng xã hội chính là mục tiêu cuối cùng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế, còn tăng trưởng là điều kiện
cần của sự phát triển. Các nước đang phát triển không thể thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh
tế nếu không có một khả năng tích luỹ vốn cao, và mục tiêu phấn đấu của xã hội không phải là cho
một sự công bằng trong đó ai cũng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa trên cơ sở của một
nền kinh tế vững chắc về vật chất. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự thay đổi các mục tiêu xã hội.
2. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế
Mặc dù là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về số lượng của nền kinh tế nhưng bản thân sự tăng
tưởng kinh tế cũng chưa đựng hai thuộc tính,hay nói cách khách, nó cũng có tính hai mặt, đó là: mặt
lượng và mặt chất. Trong quá trình phát triển, các quốc gia phải quan tâm đồng thời đến cả hai mặt
của tăng trưởng kinh tế và xu hướng vận động tích cực của nó.
2.1. Mặt lượng của tăng trưởng
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở
ngay trong khái niệm về tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và
tốc độ tăng trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới
dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập bình quân trên đầu người. Các chỉ
tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thông tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản
xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân (GNI); thu nhập quốc dân (NI);
thu nhập được quyền chi (GDI).
Tổng giá trị sản xuất (GO-Gross Output)
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc
gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo
hai cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá
trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product ) * Định nghĩa
GDP là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng do kết quả của hoạt động kinh tế trên phạm
vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
(GDP phản ánh năng lực sản xuất của nền kinh tế).
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản là sản xuất, tiêu dùng và phân phối. * Phương pháp tính
a. Phương pháp tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền kinh tế. Nó được
đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất thường trú trong nền kinh tế. Như vậy: VA=
Trong đó: VA là giá trị gia tăng của nền kinh tế, VAi là giá trị gia tăng ngành i VAi = GOi - ICi
Trong đó: GOi là tổng giá trị sản xuất, ICi là chi phí trung gian của ngành i b.
Phương pháp tiêu dùng
GDP theo phương pháp tiêu dùng là tổng giá trị các khoản chi tiêu cuối cùng về hàng hoá và dịch vụ
được tạo ra trên lãnh thổ quốc gia trong vòng 1 năm và được tính theo giá hiện hành. Công thức tính: GDP= C + I+ G + X - M -
C: Chi cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. -
I: Chi đầu tư của doanh nghiệp trong 1 năm nhằm tái sản xuất ( gồm Tb và Tk). -
G: Chi tiêu của Chính Phủ. -
X: Giá trị xuất khẩu. - M: Giá trị nhập khẩu.
c.Phương pháp thu nhập:
GDP theo phương pháp thu nhập là tổng thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu do các yếu
tố đầu vào và khả năng quản lý mang lại, bao gồm: Giá trị các khoản thu nhập của hộ gia đình, doanh nghiệp và tổ chức NN. Công thức tính: GDP= w+In+R+Dp+Te+Pr -
W : Tiền công, tiền lương. -
In : Thu nhập từ tiền cho vay. -
R : Thu nhập từ việc cho thuê đất. - Dp : Khấu hao tư bản. - Te : Thuế gián thu. -
Pr : Thu nhập của ngýời có vốn.
Ngoài ra, còn GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần sau khi đã trừ các chi phí do tiêu dùng
tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế GDPxanh = GDP thuần - Chi
phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát
(GDP- Khấu hao) về môi trường do các hoạt động kinh tế
Trong đó, hoạt động kinh tế của con người tác động đến môi trường, xét về quá trình sản xuất này
thể hiện cả đầu vào (Input) và đầu ra (Output).
Tổng thu nhập quốc dân (GNI - Gross National Income)
Là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng
SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và GNP là như nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo
cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP. * Định nghĩa
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước tạo
ra trong một thời kỳ nhất định (thường tính trong 1 năm ).
Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần đầu có tính
đến cả các khoản nhận từ nước ngoài và chuyển ra nước ngoài.
* Phương pháp tính: GNI = GDP + TNTSR
TNTSR : Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài là khoản chênh lệch giữa tổng giá trị các khoản
thu nhập do công dân một nước chuyển về từ nước ngoài và tổng giá trị các khoản thu nhập của công
dân nước ngoài chuyển ra khỏi nước đó trong 1 năm.
Tổng sản phẩm quốc gia ròng (NNP - Net National Product ) * Định nghĩa:
NNP là giá trị hàng hoá và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
* Phương pháp tính: NNP= GNI – Dp (Dp : Khấu hao tư bản).
Thu nhập quốc dân (NI - National Income ) * Định nghĩa:
NI là thu nhập quốc dân từ những yếu tố sản xuất trong nền kinh tế.
* Phương pháp tính: NI= w+In+R+Pr
Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI - National Disposable Income) * Định nghĩa:
NDI là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích luỹ thuần trong một thời kỳ nhất định.
* Phương pháp tính:
NDI = NI –Td+ Sn Td: Thuế trực thu.
Sn: Khoản chuyển giao của Chính phủ. Chú ý:
Vấn đề giá để tính trong các chỉ tiêu tăng trưởng:
1.Giá so sánh: là giá được xác định theo mặt bằng của năm gốc.
2.Giá hiện hành: là giá được xác định theo mặt bằng của năm tính toán.
3.Giá sức mua tương đương: là giá dùng để so sánh sức mua của đồng tiền các nước với cùng một rổ hàng như nhau.
Trong phân tích, đánh giá mặt lượng của tăng trưởng, một điều quan trọng hơn cả nội dung kinh
tế, phương pháp tính toán các chỉ tiêu nói trên (đã được giới thiệu trong chương trình Kinh tế phát
triển cho bậc đại học là ở chỗ, hiểu các chỉ tiêu này được sử dụng như thế nào. Cách phân tích và xu
thế vận động hợp lý của nó trong quá trình phát triển là gì. Vì vậy, cần lưu ý những điểm nhấn mạnh sau đây:
Trong số các chỉ tiêu nói trên, chỉ tiêu hay sử dụng nhất và phản ánh chính xác hơn cả là GDP
và GDP trên đầu người. GDP có ưu điểm hơn GO ở chỗ loại trừ trong tính toán phần giá trị trung
gian của hàng hoá và lại đáng tin cậy hơn các chỉ tiêu khác, vì nó phản ánh toàn bộ giá trị gia tăng
hay giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định của
một quốc gia. Vì vậy, khi đánh giá tăng trưởng kinh tế, chúng ta thường sử dụng chỉ tiêu mức và tốc
độ tăng GDP và GDP/người. Mặt khác, xét đến cùng về mục tiêu tăng trưởng, thì tốc độ tăng trưởng
dân số cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Nếu tốc độ tăng trưởng tổng thu nhập lại thấp hơn tốc độ
tăng trưởng số dân thì điều đó có nghĩa là không có sự gia tăng về mặt lượng của tăng trưởng nếu xét
theo mục tiêu cuối cùng. Vì vậy, quan điểm tăng trưởng hiện đại thường quan tâm nhiều hơn đến chi
tiêu mức và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người khi xét đến mặt lượng của quá trình này, nó
chính là dấu hiệu thể hiện kết quả rượt đuổi cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước với nhau, nhất là
giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển. Chứng ta có thể xem xét vấn đề này qua một
ví dụ cụ thể trong khối APEC. Khối APEC bao gồm 21 nước, trong đó 11 nền kinh tế có mức thu
nhập cao, còn lại là các nền kinh tế đang phát triển. Theo báo cáo kinh tế APEC (APEC economic
report), từ khi thành lập đến nay (từ năm 1990) các nền kinh tế đang phát triển của khối có tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình cao hơn so với các nước phát triển khoảng 1,3 lần, nhưng tốc độ tăng
dân số trung bình hằng năm của các nền kinh tế đang phát triển lại cao hơn các nền kinh tế phát triển
là 1,65 lần. Kết quả là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của các nước đang phát triển