



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH & CÔNG NGHỆ HÀ NỘI  BỘ MÔN KINH TẾ   
K I N H T Ế P H Á T T R I Ể N  Hà Nội, 2020 
K I N H T Ế P H Á T T R I Ể N  ***  M U C L Ụ C 
PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ Chương 
1. Tổng quan về phát triển và phát bền vững nền kinh tế 
I. Phát triển kinh tế 
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu và bản chất phát triển kinh tế 
2. Các nước đang phát triển trong hệ thống kinh tế thế giới 
3. Những lựa chọn khác nhau của các nước đang phát triển và hậu quả của quá trình phát triển 
4. Các mô hình phát triển kinh tế 
II. Phát triển bền vững nền kinh tế  1. Phát triển bền vững 
2. Nội dung phát triển bền vững 
3. Việt Nam nhập cuộc hành trình phát triển bền vững 
Chương 2. Phân tích và đánh giá phát triển kinh tế 
I. Tăng trưởng kinh tế  1. Khái niệm và ý nghĩa 
2. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế 
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế  1. Khái niệm và ý nghĩa 
2.Những cơ sở lý thuyết xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 
3. Các xu thế chuyển dịch cớ cấu ngành kinh tế  4. Kết luận 
III. Sự tiến bộ xã hội  1. Ý nghĩa nghiên cứu 
2. Các tiêu chí đánh giá phát triển con người  3. Đánh giá nghèo khổ  4. Công bằng xã hội 
5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng với giảm nghèo và công bằng xã hội 
PHẦN 2. VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 
Chương 1. Các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế 
I. Hàm sản xuất tổng quát  1. Khái quát chung 
2. Quan điểm hiện đại về hàm sản xuất 
3. Ý nghĩa phân tích hàm sản xuất 
II. Cơ chế tác động và xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế 
1. Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế 
2. Xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng - hàm sản xuất Cobb - Douglas 
Chương 2. Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế (tiếp cận theo các mô  hình tăng trưởng) 
I. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của D. RICARDO  1. 
Những xuất phát điểm của lý thuyết  2. 
Quản điểm về các yếu tố tác động đến tăng trưởng của lý thuyết tăng trưởng Ricardo  3. 
Những phê phán và vận dụng lý thuyết tăng trưởng của Ricardo trong hoạch định chính sách  tăngtrưởng 
II. Mô hình tăng trưởng HARROD - DOMAR  1. 
Những xuất phát điểm của mô hình  2. 
Quan điểm của mô hình Harrod - Domar về tác động của các yếu tố nguồn lực trong tăng  trưởngkinh tế  3. 
Vận dụng quan điểm của Harrod - Domar trong hoạch định chính sách kinh tế  4. 
Hạn chế của mô hình Harrod - Domar 
III. Mô hình tăng trưởng SOLOW 
1. Xuất phát điểm của mô hình 
2. Quan điểm của mô hình Solow về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế 
3. Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình Solow trong hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển 
4. Những nhược điểm của mô hình tăng trưởng Solow 
VI. Các mô hình tăng trưởng nội sinh 
1. Xuất phát điểm của các mô hình nội sinh 
2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng 
3. Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình tăng trưởng nội sinh 
4. Hạn chế của các mô hình tăng trưởng nội sinh 
Chương 3. Các mô hình kết hợp vốn và lao động trong tăng trưởng kinh tế. Chiến lược lựa chọn 
công nghệ trong các nước đang phát triển 
I. Các mô hình kết hợp lao động và vốn trong tăng trưởng kinh tế  1. 
Mô hình cố định yếu tố công nghệ (trường phái J.Keynes)  2. 
Mô hình kết hợp K và L với sự thay đổi trong yếu tố công nghệ (trường phái tăng trưởng 
tăngtrưởng tân cổ điển và trường phải tăng trường nội sinh) 
II. Chiến lược lựa chọn công nghệ của các nước đang phát triển 
1. Cơ sở xuất phát của chiến lược 
2. Nội dung chiến lược lựa chọn công nghệ của các nước đang phát triển. 
PHẦN 3. QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG 
PHÁT TRIỂN Chương 1. Ngoại thương với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển 
I. Tổng quan về vai trò của thương mại quốc tế với tăng trưởng kinh tế thế giới 
1. Bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế 
2. Vai trò của thương mại quốc tế trong các nước đang phát triển 
II. Thương mại quốc tế ở các nước đang phát triển 
A. Các học thuyết về thương mại quốc tế 
1. Lý thuyết thương mại quốc tế cổ điển 
2. Lý thuyết thương mại quốc tế của Solow 
3. Lý thuyết thương mại quốc tế của mô hình tăng trưởng nội sinh 
B. Các chiến lược thương mại quốc tế của các nước đang phát triển 
1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô 
2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu 
3. Chiến lược hướng ngoại 
Tài liệu tham khảo: 
- Sách chuyên khảo: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, GS.TS Ngô Thắng Lợi và PGS.TS Phan  Thị Nhiệm. 
- Giáo trình: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, Chủ biên GS.TS Ngô Thắng Lợi.  
- Giáo trình: Kinh tế phát triển. Đại học KTQD, chủ biên: GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng. 
- Kinh tế học cho thế giới thứ ba.  
 ( Tác giả : Michael P.Todaro ). 
- Kinh tế học của các nước đang phát triển.  
 ( Tác giả : E. Wayne Nafziger ).   PHẦN I 
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN  
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ 
“Tại sao một số quốc gia lại giàu có trong khi số khác lại nghèo? Tại sao một nền kinh tế lại 
tăng trưởng nhanh và người dân của họ được hưởng một mức thu nhập tăng lên nhanh chóng, trong 
khi những quốc gia khác lại tăng trưởng rất chậm hay thậm chí không tăng trưởng? Bằng cách nào 
mà một số nước Đông Nam Á có thể chuyển từ trạng thái đói nghèo sang trạng thái tương đối thịnh 
vượng chỉ trong vòng 30 năm, trong khi nhiều nước châu Phi vẫn còn trong tình trạng nghèo cùng 
cực, với rất ít dấu hiệu của sự tăng trưởng và phát triển bền vững? Đó là một trong số những câu hỏi 
quan trọng nhất trong nghiên cứu kinh tế học phát triển và thực sự đề cập những vấn đề sâu xa nhất 
mà xã hội loài người đang gặp phải?  (Dwight H.Perkins) 
Kinh tế phát triển là kinh tế học của các nước đang phát triển. Dựa trên các nguyên lý lý thuyết 
và kinh nghiệm thực chứng trong phát triển kinh tế của các nước, Kinh tế phát triển sẽ là tài liệu giúp 
cho các nước đang phát triển (kể cả các địa phương trong các quốc gia đang phát triển) có cơ sở tìm 
kiếm, lựa chọn cách thức, con đường đi phù hợp với bối cảnh, mục tiêu, thể chế và trình độ phát triển 
của mình. Với nội dung nghiên cứu như vậy, Kinh tế phát triển đã trở thành một môn học bắt buộc 
cho các sinh viên hệ cử nhân và cao học các chuyên ngành kinh tế trong các trường đại học.  Chương 1 
TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG   NỀN KINH TẾ 
Mục đích: Chương này sẽ giúp bạn đọc có một quan điểm đầy đủ về phát triển kinh tế, vai trò của 
mỗi bộ phận cấu thành và quá trình phát triển kinh tế; lý do xuất hiện khái niệm “phát triển bền 
vững”, quá trình hoàn thiện quan niệm này về lý luận và thực tiễn trên thế giới cũng như quá trình 
“nhập cuộc” phát triển bền vững của Việt Nam. 
I. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN 
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu và bản chất phát triển kinh tế  - 
Khái niệm Kinh tế học: Là môn khoa học nghiên cứu và thực hành sự lựa chọn các 
phương án phát triển kinh tế trên cơ sở sử dụng hiệu qủa các nguồn lực có hạn.  - 
Khái niệm Kinh tế phát triển: Là môn khoa học nghiên cứu và thực hành các vấn 
đề của kinh tế học trong điều kiện của các nước đang phát triển.  - 
Đối tượng: Nghiên cứu cách thức (chính sách, phương pháp, giải pháp) để tăng trưởng 
kinh tế và phát triển bền vững nhằm chuyển nền kinh tế từ trình độ thấp lên trình độ phát triển cao 
hơn gắn với công bằng xã hội.  - 
Bản chất của phát triển kinh tế: 
Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của đại đa số các quốc gia trên thế giới. Khi nói về một 
xã hội phát triển, chúng ta thường hình dung ra một xã hội, ở đó mọi người được ăn ngon, mặc đẹp, 
có khả năng chủ động trong việc tiếp cận các loại tài sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giải 
trí sang trọng, được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh. Chúng ta nghĩ tới một xã 
hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công bằng cần thiết. Một yêu cầu tối thiểu của một 
quốc gia phát triển là chất lượng cuộc sống vật chất của quốc gia đó phải cao và được phân phối một 
cách đồng đều thay vì chỉ giới hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giàu có trong xã 
hội. Cao hơn yêu cầu tối thiểu đó, một quốc gia phát triển còn đề cập các quyền và sự tự do của con 
người về mặt chính trị, sự phát triển về văn hóa và trí thức, sự bền vững của gia đình,… Những phân 
tích trên đây cho chúng ta đi đến một khái niệm tổng quan nhất về phát triển nền kinh tế, đó là quá 
trình tăng tiến, toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Bản chất của phát 
triển kinh tế cần được hiểu theo những khía cạnh khác nhau: 
+ Theo nội dung, phát triển kinh tế là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện hai vấn đề 
kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển về mặt kinh tế được thể hiện ở sự gia tăng tổng mức 
thu nhập bình quân đầu người (sự tăng trưởng kinh tế) và biến đổi cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng 
ngày càng hiện đại. Sự phát triển xã hội thể hiện khả năng mở rộng năng lực phát triển toàn diện của 
con người và việc sử dụng năng lực đó để khai thác các cơ hội của cuộc sống. 
+ Theo lôgic biện chứng của quá trình phát triển: Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến 
đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm ý nghĩa sự gia tăng 
về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế, còn có sự thay đổi về chất bao gồm quá trình thay 
đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế) và sự tiến bộ xã hội. 
Đến đây chúng ta có thể phác họa ra công thức phát triển kinh tế:  Tăng   Phát triển  trưởng  Tiến bộ   kinh tế  Chuyển dịch cơ   kinh tế  cấu  xã hội 
Công thức của phát triển kinh tế   
Mỗi bộ phận trong công thức trên chính là những mục tiêu của quá trình phát triển và có vai 
trò khác nhau trong quá trình thực hiện sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế là tiêu thức thể hiện quá 
trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một 
quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của sự phát triển. Tuy vậy, một số quốc gia có tăng trưởng 
kinh tế nhanh chưa chắc đã có sự tiến bộ xã hội. Điều đó có nghĩa là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện 
cần nhưng không đủ để có sự phát triển. Trình độ của cơ cấu ngành kinh tế thể hiện bản chất của sự 
phát triển, là dấu hiệu để đánh giá các giai đoạn phát triển kinh tế. Để phân biệt các giai đoạn phát 
triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào 
dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển 
trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là sự tiến bộ xã hội 
cho con người, cụ thể là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tuổi thọ bình quân, tăng khả năng 
tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục của quảng đại quần chúng 
nhân dân,v.v.. Hoàn thiện sự tiến bộ xã hội là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. 
Phát triển với bản chất nêu trên phải là một quá trình lâu dài, diễn ra theo các nấc thang tuần 
tự và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. 
2. Các nước đang phát triển trong hệ thống kinh tế thế giới 
2.1. Sự phân chia hệ thống kinh tế thế giới:   
 Sự phân chia lần thứ nhất năm 1945:  - 
Thế giới thứ nhất: Một số nước CN phát triển - DCs, có nền kinh tế thị trường ở Tây Âu (Anh, 
Pháp, Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha), Bắc Mỹ, Thái Bình Dương => đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. 
- Thế giới thứ hai: Một số nước CN phát triển ở Đông Âu theo mô hình KHH tập trung => đi theo 
con đường xã hội chủ nghĩa.  - 
Thế giới thứ ba: Một số quốc gia ở châu Á, châu Phi giành được độc lập sau chiến tranh thế 
giới II => để tránh vào khối này hoặc khối kia, nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ 3 đã tìm cách liên 
kết với nhau, phủ nhận việc phân chia thế giới thành Đông - Tây. Tháng 4 -1953 tại Inđônêxia đã diễn 
ra hội nghị Bandung của 24 lãnh đạo của các quốc gia châu Á và châu Phi. Tại hội nghị này đã chủ 
trương trung lập “ không liên kết” những người tham gia cũng khẳng định mong muốn hình thành 
một nguyên tắc quốc tế mới, giành ưu tiên cho các quốc gia nghèo, giúp các quốc gia này thoát ra 
khỏi tình trạng chậm phát triển.   
 Sự phân chia lần thứ hai năm 1992:  - 
Các nước phát triển (DCs): 
Gồm khoảng trên 40 nước bao gồm nhóm bảy nước công nghiệp đứng đầu thế giới (G7) và các nước 
phát triển khác. Đại bộ phận các nước này tham gia vào Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). 
G7 gồm: Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia và Canađa. Chiếm 75% tổng giá trị công nghiệp toàn  thế giới. 
G7 : GNP bq > 20.000 USD/người. 
Nước CN phát triển khác bao gồm phần lớn các nước Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu cùng với Ôxtrâylia 
và Niu Dilân. Các nước này đều có : GNP bq trên 15.000 USD/người và có tỷ trọng công nghiệp cao  trong nền kinh tế.  - 
Các nước công nghiệp mới - NICs: 
Gồm khoảng hơn 11 nước và vùng lãnh thổ Nics: Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, 
Braxin, Mêhicô, Áchentina, Ixraen, Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo, Hàn Quốc => Thu nhập bình 
quân trên 6.000USD/người, nổi bật là 4 nước châu Á (bốn con rồng” tốc độ tăng trưởng bình quân 7-
8% liên tục trong 3 thập niên, có thời kỳ đạt 11-12% và mức thu nhập GNP bq > 10.000 USD/người. 
Tận dụng lợi thế so sánh phát triển hoạt động ngoại thương, tranh thủ vốn và công nghệ nước ngoài. 
- Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC): gồm các nước Trung Đông: Arập Xê út, Cô oét, Iran, Irắc, 
Các tiểu vương quốc Arập thống nhất.  
OPEC thành lập năm 1973 nhằm liên kết các nước xuất khẩu dầu mỏ. Từ năm 1973-1980 giá dầu mỏ 
tăng gấp 8 lần và các quốc gia này đã thu được nguồn lợi rất lớn. Một số quốc gia trở nên giàu có 
cũng muốn mau chóng phát triển công nghiệp, họ đã dùng đô la kiếm được từ dầu mỏ và khí đốt để 
trang bị các nhà máy hiện đại. 
GNP bq cao=> cơ cấu kinh tế phát triển không cân đối và có sự bất bình đẳng lớn trong phân phối  thu nhập.  - 
Các nước đang phát triển: Thuật ngữ “đang phát triển” được thể hiện xu thế đi lên của 
hầu hết các nước thuộc Thế giới thứ ba - Các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước 
nông - công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hoá. 
 Theo số liệu của Báo cáo phát triển thế giới năm 2010, các nước đang phát triển là các nước có thu 
nhập thấp và trung bình, bao gồm khoảng 130 nước, có diện tích tự nhiên chiếm khoảng 2/3 tổng 
diện tích toàn thế giới, tương ứng, tỷ lệ dân số chiếm trên 80%. Trong số các nước đang phát triển, 
theo các tiêu chí của UN, có một nhóm nước nằm trong tình trạng chậm phát triển - LDCs. Các nước 
LDCs là các nước có thu nhập thấp, giá trị bình quân chỉ số tổng thu nhập quốc gia trên đầu người 
hằng năm trong vòng ba năm ở mức thấp, nguồn lực con người nghèo nàn (HDI ở mức thấp), nền 
kinh tế dễ bị tổn thương, thể hiện sự lạc hậu trong cơ cấu ngành kinh tế với sự chi phối cao của ngành 
nông nghiệp (chiếm 40-60% GDP). 
Theo các phân loại trên, Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển có mức thu nhập 
thuộc nhóm các nước trung bình thấp (được UN công nhận vào năm 2009, năm 2010 đạt 1.170 USD, 
năm 2017 đạt 2.400 USD.) và thuộc nhóm nước có trình độ phát triển con người ở mức trung bình 
(theo số liệu năm 2010 của UN, HDI của Việt Nam đạt 0,575, xếp thứ 113/169 nước tham gia xếp 
hạng chính thức). Việt Nam, mặc dù trước năm 2009 thuộc nhóm nước thu nhập thấp, nhưng nhiều 
năm nay không phải là một thành viên của nhóm nước LDC, bởi những thành tựu quan trọng trong 
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là những thành tựu trong giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và thực hiện 
một nền nông nghiệp canh tác theo xu hướng hiện đại. 
2.2. Các đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển và sự cần thiết lựa chọn con đường phát  triển 
 Mặc dù có sự khác biệt nhất định về điều kiện lịch sử, địa lý, chính trị, xã hội, các nước đang phát 
triển đều có những đặc điểm tương đồng trong phát triển kinh tế, được coi là những đặc trưng chung  của các nước này.   
 Những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển  (1)  Mức sống thấp  (2) 
Nền kinh tế chịu sự chi phối nhiều bởi nông nghiệp- Tỷ lệ tích luỹ  thấp.  - 
Trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp.  - 
Năng suất lao động thấp. 
(3) Tốc độ tăng dân số cao và khả năng bảo đảm các nhu cầu xã hội cho con người thấp. 
(4) Nền kinh tế phụ thuộc rất lớn bởi nước ngoài   
 Sự cần thiết lựa chọn con đường phát triển 
Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên quan 
chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ (xem hình dưới), làm cho khoảng cách 
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng.  Thu nhập thấp  Năng suất thấp  Tỷ lệ tích luỹ thấp  Trình độ   kỹ thuật thấp   
 Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ 
Thực trạng này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn. 
Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau. Có những nước vẫn 
tiếp tục roi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi 
cận Sahara, hay một số nước Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn 
khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước và vùng lãnh thổ NICs châu Á: 
Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo và Hàn Quốc. Gần đây các nước Thái Lan, Malaixia và Trung Quốc 
cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. Vì vậy việc lựa chọn con 
đường đi hợp lý cho mỗi nước là điều tất yếu phải đặt ra trong quá trình phát triển của quốc gia mình. 
3. Những lựa chọn khác nhau của các nước đang phát triển và hậu quả của quá trình phát triển. 
+ Thứ nhất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phải trả giá bằng việc sử dụng quá mức nguồn 
tài nguyên, môi trường sinh thái và môi trường sống của con người. 
+ Thứ hai, sự tăng trưởng nhanh chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ dân cư trong xã hội ở các 
nước đang phát triển. 
+ Thứ ba, chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh đã dẫn đến xu hướng vi phạm các khía cạnh về 
quyền con người và những yếu tố văn hóa truyền thống. 
Như vậy là, sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế thế giới từ những năm 
50-80 thế kỷ XX, loại người nhận thức được rằng: Chỉ riêng thước đo kinh tế không thể phản ánh 
được đầy đủ quan niệm về phát triển. Do vậy, phải xem xét lại và đánh giá đúng đắn các mối quan 
hệ: con người - trái đất, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - bảo vệ tài nguyên, môi trường và các 
vấn đề về xây dựng thể chế, trong đó con người đóng vai trò trung tâm của sự phát triển. Tài nguyên 
của trái đất không phải là vấn đề vô tận, không thể khai thác và thống trị theo ý muốn của mình; cần 
thiết phải tính toán đến lợi ích chung của cộng đồng, của các thế hệ tương lai và các chi phí môi 
trường cho sự phát triển... Hiểu được tất cả các yêu cầu trên chính là hiểu được điều cốt yếu của vấn 
đề về “Phát triển bền vững”. 
4. Các mô hình phát triển kinh tế 
4.1 Mô hình phát triển nhấn mạnh vào tăng trưởng:  Cơ sở lý luận: 
+ Tăng thu nhập kinh tế sẽ giải quyết được các vấn đề khác trong nền kinh tế. 
+ Để tăng trưởng nhanh cần đầu tư vào một số mũi nhọn kinh tế.  Nhược điểm: 
+ Gây cạn kiệt nguồn lực. 
+ Mất cân bằng xã hội gay gắt. 
4.2. Mô hình phát triển nhấn mạnh vào việc đáp ứng nhu cầu con người:  Cơ sở lý luận:  
+ Đáp ứng nhu cầu con người là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. 
+ Cần đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và đảm bảo công bằng xã hội.  Nhược điểm: 
+ Nguồn lực phân tán nên tốc độ tăng trưởng không cao. 
+ Nền kinh tế mất động lực phát triển. 
4.3. Mô hình phát triển toàn diện 
Cơ sở lý luận: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp 
nguồn lực, bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 
Nhược điểm: Khó thực hiện được mô hình này do khó khăn từ thực tiễn. 
II. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ 
1. Phát triển bền vững 1.1.  Khái niệm 
 Phát triển bền vững chính là sự phát triển trong một thời gian dài, ổn định dựa trên 3 vấn đề : 
Kinh tế, xã hội, môi trường.      Phát triển  bền vững 
Kết luận về tăng trưởng và phát triển: 
 Tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế trong khi phát triển kinh tế 
là quá trình thay đổi về lượng diễn ra đồng thời với quá trình thay đổi về chất của nền kinh tế. 
1.2 Phát triển bền vững nền kinh tế 
+ Theo Liên hợp quốc về phát triển bền vững: 
“Là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp 
ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. 
Tại Chương trình nghị sự 21, quan niệm đầy đủ về phát triển bền vững được Liên hiệp quốc 
đưa ra là: “Bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tốt tiến bộ và 
công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi  trường sống”. 
2. Nội dung phát triển bền vững 
Quan điểm nêu trên của Liên hợp quốc đã được thể hiện rõ nội dung của phát triển bền vững 
hiện nay. Có thể mô tả khái quát nội dung này qua các hình dưới đây. 
Nội dung phát triển bền vững được xác định bao gồm 3 trụ cột:  (i) 
Bền vững về kinh tế: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, lâu dài và hiệu quả.  (ii) 
Bền vững về mặt xã hội: Đảm bảo công bằng xã hội và phát triển con người. 
(iii) Bền vững về môi trường: Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không 
ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống, đảm bảo cho con người được sống trong môi trường 
sạch, lành mạnh và an toàn, hài hoà trong mối liên hệ giữa con người với xã hội và tự nhiên.  Mục tiêu  kinh tế  Phát triền   bền vững   
Mục Mục tiêu tiêu xã  môi trường hội 
Ba trụ cột của phát triển bền vững 
Phát triển bền vững phải được thể hiện ở vùng phối hợp được cả ba mục tiêu kinh tế - xã hội - môi 
trường (Hình bên phải). Nó mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như: 
Kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa,... Mục tiêu của phát triển ngày nay phải là nâng cao điều 
kiện và chất lượng cuộc sống của loài người, tạo nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các 
thành viên. Để đạt được mục tiêu ấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia phải xác định được một 
cách hợp lý các mục tiêu cụ thể của ba nội dung phát triển này để tạo nên ba đỉnh các tam giác phát 
triển bền vững (hình bên trái), trong đó mục tiêu bền vững kinh tế là lựa chọn một tốc độ tăng trưởng 
hợp lý trên cơ sở một cơ cấu kinh tế phù hợp và có hiệu quả nhất. Bền vững về xã hội tập trung vào 
việc thực hiện từng bước các nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển con người. Bền vững về môi 
trường bao gồm khai thác hợp lý tài nguyên; bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường; thực hiện tốt quá 
trình tái sinh tai nguyên môi trường. 
3. Việt Nam nhập cuộc hành trình phát triển bền vững 
Thời kỳ trước đổi mới, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam là hình nhấn mạnh vào công 
bằng xã hội. Kết quả là chúng ta đã tạo ra được những thành tựu nhất định về bảo đảm những yêu 
cầu cơ bản về phát triển con người, quyền bình đẳng trong xã hội được coi trọng. Tuy vậy, mô hình 
này đã dẫn đến sự phát triển rất kém về mặt kinh tế. Sự bình đẳng và công bằng xã hội được xây dựng 
trên cơ sở mức sống thực sự thấp kém, nền kinh tế nói chung và đời sống kinh tế của quảng đại dân 
chúng rất khó khăn. Bắt đầu từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, chúng ta bước vào thời kỳ cải tổ kinh 
tế, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với quan điểm gắn kết đồng thời 
cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong toàn tiến trình phát triển. Tuy vậy, trong những năm qua, 
phát triển kinh tế Việt Nam vẫn còn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao 
động còn thấp; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và 
chất thải. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục còn rất bất 
cập. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi 
trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động. 
Hệ thống chính sách và công cụ pháp luật còn chưa đồng bộ để có thể kết hợp một cách có hiệu quả 
giữa ba mặt của sự phát triển bền vững là kinh tế - xã hội - môi trường. Nắm bắt được tình hình đó, 
Chính phủ Việt Nam đã có những bước tiếp cận ngày càng đầy đủ đến hành trình phát triển bền vững 
nền kinh tế đất nước. Cụ thể: 
Ngày 12-6-1991, tại Quyết định số 187-CT, Chính phủ thông qua “Kế hoạch quốc gia về môi 
trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”, một trong những kế hoạch quốc gia đầu tiên 
được xây dựng theo quan điểm phát triển bền vững vừa được quốc tế chính thức công bố. 
Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 36-CT/TW “Về việc tăng cường công tác bảo 
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu lên quan điểm “Bảo vệ môi 
trường phải gắn liền và là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước”. Tiếp đó, Đại hội 
IX của Đảng đã khảng định con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là: “Phát triển nhanh, 
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ 
môi trường”. “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự 
hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. 
Ngày 17-8-2004, trong Quyết định số 153-2004/QĐ/TTg, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) 
nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển 
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. 
Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm 
những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngànhm địa phương, các tổ chức và cá nhân có 
liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm đảm bảo phát triển bền vững đất nước 
trong thế kỷ XXI. Định hướng nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những 
chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện. 
Định hướng không thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ để 
xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết 
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ 
môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước. 
Những nguyên tắc chính phát triển bền vững ở Việt Nam 
Nguyên tắc 1: Con người là trung tâm của phát triển bền vững. 
Nguyên tắc 2: Phát triển kinh tế là trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới. 
Nguyên tắc 3: Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách rời của quá  trình phát triển. 
Nguyên tắc 4: Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ 
hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. 
Nguyên tắc 5: Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, 
thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. 
Nguyên tắc 6: Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành 
và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người  dân. 
Nguyên tắc 7: Gắn chặt việc xây dưng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế 
quốc tế, để phát triển bền vững đất nước. 
Nguyên tắc 8: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với 
bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.   
Ngày 12-4-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 432/QĐ/TTg phê duyệt Chiến lược phát 
triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Theo đó:  (1) 
Mục tiêu tổng quát là: Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, 
bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ 
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.  (2) 
Các mục tiêu cụ thể:  - 
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là cân đối lớn; giữ vững an ninh lương thực, an ninh 
nănglượng, an ninh tài chính. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển hài hòa giữa chiều 
rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế cácbon thấp. Sử dụng tiết 
kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực.  - 
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh; nền văn hóa tiên tiến, 
đậmđà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, 
đạo đức, thể lực, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào 
tạo, khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn định chính trị - xã 
hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.  - 
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. Khai thác hợp lý và 
sửdụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không thể tái tạo được. 
Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, 
bảo vệ phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng 
có hiệu quả và biến đổi khí hậu, nhất là hiện tượng nước biển dâng.    Chương 2 
Phân tích và đánh giá phát triển kinh tế 
(Tiếp cận từ góc độ phát triển bền vững) 
Mục đích: Từ “công thức phát triển” nêu ở Chương 1, theo quan điểm phát triển bền vững, 
Chương sẽ đi vào giới thiệu nội dung phân tích và đánh giá phát triển kinh tế trên khía cạnh: tăng 
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến bộ xã hội. Nội dung của mỗi khía cạnh sẽ được xem 
xét thông qua các tiêu chí đánh giá và xu thế biến đổi của nó trong quá trình phát triển. Chương này 
còn phân tích các cách thức lựa chọn khác nhau của các nước trong việc kết hợp hai tổ hợp trong 
phát triển kinh tế: Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, và trên một mức độ nhất định đưa ra những 
bình luận về làm thế nào để kết hợp tốt hơn hai tổ hợp này. 
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 
1. Khái niệm và ý nghĩa 
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất 
định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản 
ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trường được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và 
phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện 
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho toàn 
thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự 
thay đổi về lượng của nền kinh tế. 
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở 
ngay trong khái niệm về tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc 
độ tăng trưởng thu nhập. 
- Phản ánh sự thay đổi tuyệt đối: ∆Y=Y1-Y0  Y 
- Phản ánh tốc độ thay đổi: g =  1 - Y0 x 100  Y0 
Yo: Sản lượng năm gốc. 
Y1: Sản lượng năm hiện tại ∆Y: 
Mức tãng trong thời gian xét.  g : Tốc độ tăng. 
Những chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế: 
- Chỉ tiêu phản ánh quy mô, khối lượng hàng hoá dịch vụ sản xuất ra: GDP, GNP, NNP, NI, DI. 
- Chỉ tiêu phản ánh mức giá trị sản xuất hàng hoá và dịch vụ bình quân đầu người : GDP bq  người, GNP bq người,… 
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tiến bộ và công bằng xã hội chính là mục tiêu cuối cùng, 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế, còn tăng trưởng là điều kiện 
cần của sự phát triển. Các nước đang phát triển không thể thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh 
tế nếu không có một khả năng tích luỹ vốn cao, và mục tiêu phấn đấu của xã hội không phải là cho 
một sự công bằng trong đó ai cũng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa trên cơ sở của một 
nền kinh tế vững chắc về vật chất. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự thay đổi các mục tiêu xã hội. 
2. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế 
Mặc dù là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về số lượng của nền kinh tế nhưng bản thân sự tăng 
tưởng kinh tế cũng chưa đựng hai thuộc tính,hay nói cách khách, nó cũng có tính hai mặt, đó là: mặt 
lượng và mặt chất. Trong quá trình phát triển, các quốc gia phải quan tâm đồng thời đến cả hai mặt 
của tăng trưởng kinh tế và xu hướng vận động tích cực của nó. 
2.1. Mặt lượng của tăng trưởng 
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở 
ngay trong khái niệm về tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và 
tốc độ tăng trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới 
dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập bình quân trên đầu người. Các chỉ 
tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thông tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản 
xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân (GNI); thu nhập quốc dân (NI); 
thu nhập được quyền chi (GDI).   
 Tổng giá trị sản xuất (GO-Gross Output) 
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc 
gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo 
hai cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ 
nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá 
trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).   
 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product )  * Định nghĩa 
GDP là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng do kết quả của hoạt động kinh tế trên phạm 
vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. 
(GDP phản ánh năng lực sản xuất của nền kinh tế). 
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản là sản xuất, tiêu dùng và phân phối.   * Phương pháp tính 
a. Phương pháp tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền kinh tế. Nó được 
đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất thường trú trong nền kinh tế. Như vậy:  VA=   
Trong đó: VA là giá trị gia tăng của nền kinh tế, VAi là giá trị gia tăng ngành i  VAi = GOi - ICi 
Trong đó: GOi là tổng giá trị sản xuất, ICi là chi phí trung gian của ngành i b. 
Phương pháp tiêu dùng  
GDP theo phương pháp tiêu dùng là tổng giá trị các khoản chi tiêu cuối cùng về hàng hoá và dịch vụ 
được tạo ra trên lãnh thổ quốc gia trong vòng 1 năm và được tính theo giá hiện hành.  Công thức tính:   GDP= C + I+ G + X - M  - 
C: Chi cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình.  - 
I: Chi đầu tư của doanh nghiệp trong 1 năm nhằm tái sản xuất ( gồm Tb và Tk).  - 
G: Chi tiêu của Chính Phủ.  - 
X: Giá trị xuất khẩu. - M: Giá trị nhập khẩu. 
c.Phương pháp thu nhập: 
GDP theo phương pháp thu nhập là tổng thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu do các yếu 
tố đầu vào và khả năng quản lý mang lại, bao gồm: Giá trị các khoản thu nhập của hộ gia đình, doanh  nghiệp và tổ chức NN.  Công thức tính:   GDP= w+In+R+Dp+Te+Pr  - 
W : Tiền công, tiền lương.  - 
In : Thu nhập từ tiền cho vay.  - 
R : Thu nhập từ việc cho thuê đất.  -  Dp : Khấu hao tư bản.  -  Te : Thuế gián thu.  - 
Pr : Thu nhập của ngýời có vốn. 
Ngoài ra, còn GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần sau khi đã trừ các chi phí do tiêu dùng 
tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế GDPxanh = GDP thuần - Chi 
phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát 
 (GDP- Khấu hao) về môi trường do các hoạt động kinh tế 
Trong đó, hoạt động kinh tế của con người tác động đến môi trường, xét về quá trình sản xuất này 
thể hiện cả đầu vào (Input) và đầu ra (Output).   
 Tổng thu nhập quốc dân (GNI - Gross National Income) 
Là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng 
SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và GNP là như nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo 
cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.  * Định nghĩa 
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước tạo 
ra trong một thời kỳ nhất định (thường tính trong 1 năm ). 
Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần đầu có tính 
đến cả các khoản nhận từ nước ngoài và chuyển ra nước ngoài. 
* Phương pháp tính:  GNI = GDP + TNTSR 
TNTSR : Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài là khoản chênh lệch giữa tổng giá trị các khoản 
thu nhập do công dân một nước chuyển về từ nước ngoài và tổng giá trị các khoản thu nhập của công 
dân nước ngoài chuyển ra khỏi nước đó trong 1 năm. 
 Tổng sản phẩm quốc gia ròng (NNP - Net National Product ) *  Định nghĩa: 
NNP là giá trị hàng hoá và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. 
* Phương pháp tính:  NNP= GNI – Dp  (Dp : Khấu hao tư bản). 
 Thu nhập quốc dân (NI - National Income ) *  Định nghĩa: 
NI là thu nhập quốc dân từ những yếu tố sản xuất trong nền kinh tế. 
* Phương pháp tính:  NI= w+In+R+Pr 
 Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI - National Disposable Income) *  Định nghĩa: 
NDI là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích luỹ thuần trong một thời kỳ  nhất định. 
* Phương pháp tính: 
NDI = NI –Td+ Sn Td: Thuế  trực thu. 
Sn: Khoản chuyển giao của Chính phủ.  Chú ý: 
Vấn đề giá để tính trong các chỉ tiêu tăng trưởng: 
1.Giá so sánh: là giá được xác định theo mặt bằng của năm gốc. 
2.Giá hiện hành: là giá được xác định theo mặt bằng của năm tính toán. 
3.Giá sức mua tương đương: là giá dùng để so sánh sức mua của đồng tiền các nước với cùng một rổ  hàng như nhau. 
Trong phân tích, đánh giá mặt lượng của tăng trưởng, một điều quan trọng hơn cả nội dung kinh 
tế, phương pháp tính toán các chỉ tiêu nói trên (đã được giới thiệu trong chương trình Kinh tế phát 
triển cho bậc đại học là ở chỗ, hiểu các chỉ tiêu này được sử dụng như thế nào. Cách phân tích và xu 
thế vận động hợp lý của nó trong quá trình phát triển là gì. Vì vậy, cần lưu ý những điểm nhấn mạnh  sau đây: 
Trong số các chỉ tiêu nói trên, chỉ tiêu hay sử dụng nhất và phản ánh chính xác hơn cả là GDP 
và GDP trên đầu người. GDP có ưu điểm hơn GO ở chỗ loại trừ trong tính toán phần giá trị trung 
gian của hàng hoá và lại đáng tin cậy hơn các chỉ tiêu khác, vì nó phản ánh toàn bộ giá trị gia tăng 
hay giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định của 
một quốc gia. Vì vậy, khi đánh giá tăng trưởng kinh tế, chúng ta thường sử dụng chỉ tiêu mức và tốc 
độ tăng GDP và GDP/người. Mặt khác, xét đến cùng về mục tiêu tăng trưởng, thì tốc độ tăng trưởng 
dân số cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Nếu tốc độ tăng trưởng tổng thu nhập lại thấp hơn tốc độ 
tăng trưởng số dân thì điều đó có nghĩa là không có sự gia tăng về mặt lượng của tăng trưởng nếu xét 
theo mục tiêu cuối cùng. Vì vậy, quan điểm tăng trưởng hiện đại thường quan tâm nhiều hơn đến chi 
tiêu mức và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người khi xét đến mặt lượng của quá trình này, nó 
chính là dấu hiệu thể hiện kết quả rượt đuổi cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước với nhau, nhất là 
giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển. Chứng ta có thể xem xét vấn đề này qua một 
ví dụ cụ thể trong khối APEC. Khối APEC bao gồm 21 nước, trong đó 11 nền kinh tế có mức thu 
nhập cao, còn lại là các nền kinh tế đang phát triển. Theo báo cáo kinh tế APEC (APEC economic 
report), từ khi thành lập đến nay (từ năm 1990) các nền kinh tế đang phát triển của khối có tốc độ 
tăng trưởng GDP trung bình cao hơn so với các nước phát triển khoảng 1,3 lần, nhưng tốc độ tăng 
dân số trung bình hằng năm của các nền kinh tế đang phát triển lại cao hơn các nền kinh tế phát triển 
là 1,65 lần. Kết quả là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của các nước đang phát triển