














Preview text:
Chủ đề 4: Tại sao nói kinh tế học phát triển là khoa học về sự lựa chọn cách 
thức, con đường để phát triển kinh tế, để đưa nền kinh tế từ trạng thái kém 
phát triển lên trạng thái phát triển?  
Giới thiệu và phân tích các con đường lựa chọn phát triển kinh tế của các nước 
đang phát triển? Liên hệ thực tiễn với việt nam hiện nay? Bài thuyết trình 
CHÀO THẦY VÀ CÁC BẠN ĐẾN VỚI BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA NHÓM EM 
Em xin tự giới thiệu em tên là Hoàng Hữu Đạt 
Thanh viên nhóm 4, lớp QK26.05 Thành viên nhóm em gồm........  ...... 
Đến với bài thuyết trình hôm nay em xin được phép trình bày về chủ đề...... Nội 
dung của bài thuyết trình bao gồm 4 phần 
1) Giải thích Tại sao nói kinh tế học phát triển là khoa học về sự lựa 
chọn cách thức, con đường để phát triển kinh tế, để đưa nền kinh tế 
từ trạng thái kém phát triển lên trạng thái phát triển? 
2) Giới thiệu và phân tích các con đường lựa chọn phát triển kinh tế 
của các nước đang phát triển 
3) Liên hệ thực tiễn với việt nam hiện nay  4) Tổng kết 
Để giải thích Tại sao nói kinh tế học phát triển là khoa học về sự lựa chọn cách thức, 
con đường để phát triển kinh tế, để đưa nền kinh tế từ trạng thái kém phát triển lên 
trạng thái phát triển? Ta cần phải hiểu khái niệm kinh tế học phát triển là gì, nó có 
những nội dung như thế nào đầu tiên chúng ta cùng đến với sự xuất hiện của thế giới  thứ 3. 
 Sự xuất hiện của thế giới thứ 3 
+ thế giới thứ nhất: là các nước có nền kinh tế phát triển- đi theo con đường tư bản 
chủ nghĩa những nước chủ yếu nằm ở Bắc Mỹ và Tây Âu 
+ thế giới thứ hai: là các nước có nền kinh tế tương đối phát triển- đi theo con 
đường xã hội chủ nghĩa đều tập trung ở Đông Âu 
+ thế giới thứ ba: dưới kía cạnh kinh tế dược coi là các nước đang phát triển 
….Khái niệm “ đang phát triển” bắt đầu xuất hiện từ năm 1960, khi đó các nước 
thuộc thế giới thứ 3 đều đứng trước sự cấp bách về giải quyết các vấn đề phát triển     
kinh tế, khái niệm này còn được dùng để phân biệt với các nước giàu phía Bắc, được 
gọi là các nước phát triển.  Tiếp đến ta nói đến 
Đặc trưng của các nước đang phát triển  1. Mức sống thấp 
2. Nền kinh tế chịu sự chi phối nhiều bởi nông nghiệp 
3. Tốc độ tang dân số cao và khả năng bảo đảm các nhu cầu xã hội cho con  người thấp 
4. Nền kinh tế phụ thuộc lớn bởi nước ngoài 
5. Vấn đề dân tộc và tôn giáo  6. Lịch sử phát triển 
7. Cơ cấu chính trị và nhóm hưởng lợi 
Những đặc trưng trên chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên 
quan chặt chẽ với nhau tạo ra vòng luẩn quẩn nghèo khổ 
Ta có thể khái quát nguyên nhân của sự nghèo đói qua “vòng luẩn quẩn của nghèo  khổ”   
Nói qua về sơ đồ: “ khi thu nhập thấp dẫn đến tích lũy thấp, tích lũy thấp lại dẫn đến 
trình độ kỹ thuật không có cơ hội để phát triển dẫn đến năng xuất thấp nó lại khiến 
thu nhập thấp và tiêu dùng giảm đi. 
Lại một vòng lặp đi lặp lại cứ như thế nó tạo lên vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ  này.     
Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp phá vỡ 
vòng luẩn quẩn của nghèo đói. 
Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau. 
• Có những nước vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triển thụt 
lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi cận Sahara, hay một số nước  Nam Á. 
• Có những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đưa đất nước ra khỏi vòng 
luẩn quẩn, nhưng rồi lại rơi vào những cuộc khủng hoảng với những vòng 
luẩn quẩn mới như Philippines. 
• Bên cạnh đó có những nước đã tạo được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn 
khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước NICs châu 
Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc. 
• Gần đây các nước Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự 
đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. 
 Vì vậy việc lựa chọn con đường đi hợp lý cho mỗi nước là điều tất yếu 
phải đặt ra trong quá trình phát triển của quốc gia mình. 
Cũng bởi thế kinh tế học phát triển là sự cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của 
các nưóc đang phát triển.  Từ đó ta thấy 
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế phát triển: là các nước đang phát triển 
Nội dung nghiên cứu Kinh tế học phát triển 
Không chỉ nghiên cứu kinh tế học truyền thống mà còn nghiên cứu 2 khía cạnh là về  kinh tế và xã hội: 
Về mặt kinh tế: chuyển từ một nền kinh tế tang trưởng thấp sang một nền kinh tế 
tang trưởng cao sử dụng hiệu quả các nguồn lực 
Về mặt xã hội: chuyển từ một xã hội nghèo đói, bất bình đẳng, con người phát triển 
ở trình độ thấp, sang xã hội có các tiêu chí phát triển cao hơn 
=> Mục tiêu, tôn chỉ của Kinh tế phát triển là cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn 
thực hiện quá trình phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm thấp kém, giúp các nước 
đang phát triển có thể vận dụng vào hoàn cảnh, đặc điểm riêng của mình trong từng 
giai đoạn nhất định, tìm kiếm được con đường phát triển hợp lý, cải thiện tình trạng 
chưa tiến bộ của từng quốc gia.     
5. Phương pháp nghiên cứu: 
(1) Phương pháp nghiên cứu thực chứng và chuẩn tắc của Kinh tế học 
(2) Phương pháp phân tích so sánh: 
(3) Phương pháp định lượng 
(4) Phương pháp phân tích các mô hình lý thuyết và thực tiễn 
Tất cả các phương pháp đề cập trên đây đã tạo nên những luận chiều và phong phú, 
giúp cho các nước đang phát triển tìm kiếm đi hợp lý nhất cho mình trong quá trình 
phát triển và thực hiện mục tiêu rượt đuổi các nước phát triển. 
Tóm lại, Kinh tế phát triển là một môn trong hệ thống các môn kinh tế học, nó 
nghiên cứu nguyên lý phát triển kinh tế trong các điều kiện kém phát triển, đó là quá 
trình chuyển một nền kinh tế từ tình trạng trì trệ, lạc hậu, tăng trưởng thấp, tỷ lệ 
nghèo đói và mất công bằng xã hội cao sang một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng 
nhanh, có hiệu quả và với các tiêu chí xã hội ngày càng được cải thiện. Mỗi nước sẽ 
tìm ra được những con đường đi hợp lí nhất để chuyển một kinh tế từ giai đoạn phát 
triển thấp lên các giai đoạn phát triển cao hơn.  I. 
Giới thiệu và phân tích các con đường lựa chọn phát triển kinh tế của các 
nước đang phát triển? Liên hệ thực tiễn với việt nam hiện nay? 
Như ở phần trước chúng ta đã thấy được chính những đặc trưng của các nước 
đang phát triển đã tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ vậy để phá vỡ nó các 
nhà nghiên cứu đã tạo ra 3 mô hình tương ứng với 3 con đường phát triển kih tế  như sau: 
- Nêu các con đường phát triển Có 3 con đường 
• Con đường thứ nhất : Mô hình nhận mạnh công bằng xã hội trước và tăng  trưởng kinh tế sau. 
• Con đường thứ hai: Mô hình tăng trưởng kinh tế trước, công bằng xã hội  sau. 
• Con đường thứ ba: Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải 
quyết đồng thời ( phát triển toàn diện) 
Vậy các con đường có nguồn gốc và nội dung như thế nào, em xin phép nói về  con đường đầu tiên:       
- Phân tích 3 con đường 
1. Mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau . 
Mô hình được sử dụng trong lịch sử phát triển của các nước thuộc hệ thống xã 
hội chủ nghĩa trước đây (gọi là thế giới thứ 2) ,như:Liên Xô cũ, các nước XHCN 
Đông Âu, Cu Ba ,Trung Quốc, Việt nam,v.v… 
Ý tưởng chung của mô hình này là coi các chính sách tạo sự công bằng xã hội là 
điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế còn ở 
tình trạng rất thấp và xem nó như điều kiện, điểm mấu chốt để thực hiện tăng 
trưởng và phát triển kinh tế.  • Ưu điểm: 
• Tình trạng bất bình đẳng được giải quyết nhanh chóng ngay từ giai 
đoạn đầu của quá trình phát triển 
• Sau khi thiết lập hệ thống sở hữu toàn dân về tài sản, sự phân phối thu 
nhập công bằng tạo nên sự khởi sắc về tăng trưởng kinh tế ổn định.  • Nhược điểm 
• Một nền kinh tế được đảm bảo bằng chế độ sở hữu nhà nước và sản 
xuất không vì mục tiêu lợi nhuận về lâu dài đã kìm hãm động lực nâng 
cao hiệu quả và tăng trưởng kinh tế 
• Đã không khuyến khích việc huy động triệt để các yếu tố nguồn lực 
khác trong dân cư và các đơn vị kinh tế vào hoạt động kinh tế tạo ra của  cải 
• Về lâu dài hình thức phân phối công bằng trên cơ sở xã hội không có 
động lực phát triển đã trở thành một cơ chế phân phối lao động theo 
kiểu cào bằng đối với người lao động 
• Hậu quả xấu tất yếu nảy sinh, tăng trưởng và hiệu quả kinh tế có xu 
hướng giảm đi, những tệ nạn quan liêu, bao cấp xuất hiện ngày càng  nhiều. 
Chứng minh cho nhược điểm của con đường thứ nhất của Liên Xô và  các nước Đông Âu 
Bảng một số chỉ tiêu kinh tế của liên xô và một số nước đông âu  Nước  Tốc độ  1985 Tốc độ  198 Tốc độ  Tốc độ  1985  tăng tăng 5  tăng NS  198 tăng GDP(%)  NSLĐ(%   vốn(%)  5  TFP(%) 1960.  ) 1960.  1960. 1960.  Liên Xô  5,8.  3,6  4,6.  2,3  3,6.  -3,7 2,4.  0,8  Tiệp Khắc 4,8.  2,6  4,1.  2,6  1,3.  -2,1 3,4.  0,5  Ba Lan  4,6.  3,3  3,6.  1,8  2,0.  -1,4 3,2.  0,8      Hungari  4,6.  2,9  3,6.  2,6  1,0.  -2,1 2,9.  1,2  LX và  5,5.  3,0  4,8.  2,5  1,0.  -2,1 3,5.  0,9  Đông Âu 
Đây là bảng so sánh các chỉ tiêu kinh tế của Liên Xô và một số nước Đông Âu của  năm 1960 và năm 1985 
Khi nhìn vào bảng chỉ tiêu kinh tế ta thấy rằng các nước sau khi áp dụng mô hình đầu 
tiên thì tăng trưởng kinh tế đều giảm mạnh, thậm chí có chỉ tiêu tăng trưởng âm: nêu  ví dụ Liên Xô 
2. Mô hình tăng trưởng kinh tế trước, công bằng xã hội sau . 
Mô hình này khởi nguồn áp dụng ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và phương Tây, các 
nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tiếp theo đó là sự lựa chọn của 
phần lớn các nước khu vực Nam Mỹ như Braxin, Mexico,…Khu vực Đông Nam 
Á có một số nước như Hồng Kông, hay cả Malaysia, Philipines cũng đi theo mô  hình này. 
Theo cách lựa chọn này, chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy 
nhanh tốc độ tăng trưởng, ví dụ như thực hiện quá trình từ nhân hóa ở mức cao, 
phân phối thu nhập được tiến hành dựa theo quy mô tài sản sản xuất mà mỗi 
người huy động được vào quá trình sản xuất và dịch vụ. 
Chỉ khi nền kinh tế đã đạt được một mức độ khởi sắc đáng kể, thu nhập bình quân 
đầu người cao, lúc đó sự bất bình đẳng mới có xu hướng giảm dần cùng với quá 
trình tăng trưởng kinh tế do chính phủ bắt đầu quan tâm đến các chính sách phân 
phối lại thu nhập làm cho kết quả của tăng trưởng được “thẩm thấu” một cách  rộng rãi hơn.   Ưu điểm:   
- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh 
- Thu nhập bình quân đầu người tăng   Nhược điểm:   
- Quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội 
ngày càng gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường     
không được quan tâm, vô số giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống của dân tộc 
và đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá hủy 
- Việc chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh chớp mắt đã dẫn đến sự cạn kiệt 
nhanh chóng của nguồn tài nguyên quốc gia, 
- Hủy hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không bảo đảm 
và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những bất bình đẳng ấy 
trở nên là một rào cản cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những  giai đoạn gần đây. 
Chỉ số bất bình đẳng cùng một số nước Nam Mỹ và Đông Á (năm 2007)     
Hệ số Gini là hệ số đo lường khoảng cách giàu nghèo, phản ánh mức độ bất bình  đẳng 
Hệ số này nhận giá trị từ 0 đến 1, càng gần 1 càng bất bình đẳng và được tính theo 
thu nhập hay chi tiêu. Trong thực tế theo số liệu của WB thì Gini thay đổi trong 
khoảng từ 0.2 đến 0.6, với các nước có mức thu nhập thấp là 0.3-0.5, thu nhập cao là 
0.2-0.4 và thu nhập trung bình là 0.4-0.6. 
Có thể nói 2 mô hình trên đều là 2 mô hình có nhiều khuyết điểm, bởi vậy rất nhiều 
nước chọn kết hợp song song giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội     
3. Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời  ( phát triển toàn diện) 
 Một nét đặc trưng của mô hình này là trong quá trình phát triển, mục tiêu tăng 
trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội. Quá trình tăng trưởng nhanh 
và công bằng xã hội lớn hơn là những mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. 
-Nội dung chính của mô hình này được thể hiện rất rõ nét qua những chính sách 
can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự phát triển 
đồng bộ của cả ba yếu tố này. 
• Một là, chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh, thông qua việc lựa 
chọn các mô hình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Ví  dụ : 
Mô hình mà Hàn Quốc và Đài Loan sử dụng khá thành công là mô hình công 
nghiệp hoá hướng ngoại nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh vai trò 
của khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong những lĩnh vực  cần thiết. 
• Hai là, chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm 
bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất bình đẳng.  Ví dụ: 
 Kể cả Đức và các nước Bắc Âu, đến Hàn Quốc và Đài Loan đều bắt đầu quá 
trình thực hiện tăng trưởng nhanh bằng phát triển mạnh nông nghiệp, sau đó sự 
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn 
lực của đất nước và theo hướng phù hợp với sự phát triển của khoa học công 
nghệ. Sự lựa chọn này vừa đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định vừa không có 
nguy cơ gây bất bình đẳng trong quá trình phát triển. 
• Ba là, chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xoá đói giảm nghèo 
và công bằng xã. hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách về phân phối 
lại thu nhập chính sách trợ cấp xã hội, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đường 
sàn gia thông cho các vùng khó khăn v.v… Tất cả đều nhằm mục tiêu tạọ điều 
kiện sống có giá trị ngang nhau ở tất cả các thành phần lãnh thổ trong cả nước. 
Các nước lựa chọn mô hình nhấn mạnh đồng thời phân phối lại với tăng trưởng 
kinh tế thường đạt được những thành tựu đáng nói kể cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội      Tên nước  GDP/người  Hệ số GINI  Thu nhập của 20% dân  ( S-PPP )  số nghèo nhất (%)  Đan Mạch  35 570  0.27  10.3  Phần Lan  31 170  0.25  9.6  Thụy Điển  37 080  0.25  9.1  Na Uy  40 420  0.27  9.6  Đức  29 290  0.28  8.5  Hàn Quốc  21 850  0.29  9.7  Đài Loan  23 210  0.24  9.8    • Nhận xét bảng : 
Nếu so sánh các số liệu từ hai bảng số trên chúng ta có thể thấy được khá rõ rệt 
sự khác biệt trong kết quả về công bằng xã hội giữa hai mô hình lựa chọn khác nhau 
về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong số các nước 
trở thành NÍC vào thập niên 1980 là Đài Loan. Hàn Quốc, Braxin, Mexico, Achentina 
đều có sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào thập niên 1960, 1970 thì nước Hàn Quốc, Đài 
Loan không những đạt được các chỉ số công bằng xã hội cao hơn nhiều sơ với các 
nước còn lại, thậm chí ngang với các nước công nghiệp phát triển, mà mức thu nhập 
bình quân đầu người phản ánh sự tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn hẳn các nước này. 
Điều đó trên một mức độ nhất định phản ánh ưu điểm của mô hình mà họ đã lựa chọn. 
4. Bên cạnh con đường lựa chọn phát triển kinh tế vủa các nước đang phát 
triển thì luôn có hạn chế. 
Các nước đang phát triển thường đối mặt với nhiều hạn chế khi chọn con đường phát 
triển kinh tế. Dưới đây là một số hạn chế thường gặp: 
• Nghèo đói và không bình đẳng thu nhập: Một số người dân trong các nước 
đang phát triển vẫn sống trong điều kiện nghèo đói và thiếu chế độ phân phát 
thu nhập công bằng. Sự không bình đẳng thu nhập có thể gây ra xung đột và 
làm gia tăng sự bất ổn xã hội. 
• Hạn chế hạ tầng: Thiếu hạ tầng cơ sở, như đường cao tốc, cơ sở điện, nước 
sạch và hệ thống giao thông, có thể làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế  của một quốc gia.     
• Sự thiếu hụt về giáo dục và sức khỏe: Hệ thống giáo dục và sức khỏe yếu kém 
có thể cản trở sự phát triển bền vững, do đó, nâng cao chất lượng giáo dục và 
chăm sóc sức khỏe là quan trọng. 
• Sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu: Các nước đang phát triển thường dễ bị 
ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, gây ra các hiện tượng như hạn hán, lũ lụt và 
tăng nhiệt đới, gây thiệt hại cho nền kinh tế và đời sống dân số. 
• Nợ nước ngoại: Nhiều nước đang phát triển phải vay nợ từ các tổ chức quốc tế 
hoặc các quốc gia khác để phát triển kinh tế. Việc nợ nước ngoại có thể gây áp 
lực tài chính và gắn kết họ với các đối tác quốc tế. 
• Sự không ổn định chính trị: Sự bất ổn chính trị và xung đột có thể ngăn chặn 
sự phát triển kinh tế bền vững bằng cách làm giảm sự ổn định và tạo ra môi 
trường không thuận lợi cho đầu tư. 
• Vấn đề môi trường: Sự phát triển không bền vững có thể gây hại cho môi 
trường, và sự thiếu hiểu biết hoặc quản lý môi trường kém có thể có tác động  tiêu cực lâu dài. 
• Thị trường quốc tế: Các nước đang phát triển thường phải đối mặt với sự cạnh 
tranh trên thị trường quốc tế, và họ có thể gặp khó khăn trong việc thâm nhập 
vào các thị trường này. 
• Điều kiện tự nhiên: Một số nước đang phát triển có điều kiện tự nhiên không 
thuận lợi, ví dụ như đất đai nghèo, đói nước, hoặc bị thiên tai thường xuyên 
tấn công, điều này có thể làm hạn chế tiềm năng phát triển kinh tế của họ.  Biện pháp : 
• Đầu tư vào hạ tầng cơ sở: Xây dựng và cải thiện hạ tầng giao thông, năng 
lượng, nước sạch, viễn thông và hệ thống giao thông công cộng để tạo điều 
kiện thuận lợi cho kinh doanh, đầu tư và phát triển bền vững. 
• Chăm sóc giáo dục và sức khỏe: Đầu tư vào hệ thống giáo dục chất lượng cao 
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm việc đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng và 
chi phí phải chăng cho tất cả các tầng lớp xã hội. 
• Khuyến khích đầu tư và kinh doanh: Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi 
bằng cách giảm quy định thất thường, cải thiện quy trình đăng ký kinh doanh, 
bảo vệ quyền sở hữu và giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. 
• Phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo và phát triển lực lượng lao động có kỹ 
năng để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và công nghiệp.     
• Quản lý tài chính cẩn thận: Theo dõi và quản lý tài chính quốc gia một cách 
cẩn thận để tránh nợ nước ngoại không cần thiết và tăng cường khả năng quản  lý tài chính bền vững. 
• Khám phá và khai thác tài nguyên tự nhiên một cách bền vững: Sử dụng và 
quản lý tài nguyên tự nhiên (như dầu mỏ, than đá, vàng) một cách bền vững 
để đảm bảo lợi ích dài hạn và giảm tác động đến môi trường. 
• Phát triển công nghiệp và cơ cấu kinh tế đa dạng: Khuyến khích sự đa dạng 
hóa trong cơ cấu kinh tế để giảm rủi ro và tạo nhiều nguồn thu nhập khác  nhau. 
• Bảo vệ môi trường: Thiết lập và thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường 
để giảm thiểu tác động tiêu cực và thúc đẩy phát triển bền vững. 
• Xây dựng hệ thống an ninh và ổn định chính trị: Tạo ra môi trường ổn định để 
thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. 
• Hợp tác quốc tế: Tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế thông qua việc xây 
dựng các liên minh, ký kết các hiệp định thương mại và phát triển hợp tác  quốc tế.  II.  Liên hệ  
Sơ lược quá trình lựa chọn con đường phát triển kinh tế những năm qua 
1. Trước thời kỳ đổi mới kinh tế ( năm 1986) 
 Việt Nam đã lựa chọn con đường nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng 
trưởng kinh tế sau (mô hinh thứ nhất) giống như các nước thuộc hệ thống XHCN  trước đây. 
Với sự lựa chọn này, chúng ta đã dành được nhiều thành tựu về tiến bộ, công bằng 
xã hội, các chỉ số về giáo dục, y tế, công bằng xã hội của Việt Nam thưởng đạt được 
cao hơn so với các nước có cùng mức thu nhập. 
Tuy nhiên, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng rất chậm, mức thu nhập bình quân đầu 
người ở mức rất thấp (năm 1976 đạt 140 USD, năm 1985: 193 USD), thuộc 1 trong 
20 nước có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới. 
2. Thời kỳ đổi mới (từ 1986 trở đi) 
 Việt Nam đã hướng theo mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa có sự điều tiết của nhà nước và dành được nhiều thành tựu về tăng trưởng  kinh tế     
Việc thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 
19912000 đã giúp chúng ta thoát khỏi cửa ải thứ nhất là thoát ra khỏi cuộc khủng 
hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ nhanh. 
Tuy đã dành được những thành tựu nhất định trong nhiều lĩnh vực từ thập niên 90 
của thế kỷ thứ 20, tuy vậy, bước vào thời kỳ chiến lược 2001-2010, chúng ta vẫn 
bị đánh giá là có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, thu nhập bình quân đầu người năm 
2000 mới chỉ đạt khoảng 400 USD, nếu so sánh với sự phát triển vượt trội của 
các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình quân trên đầu 
người của Việt Nam ngày càng xa so với họ. 
Vì vậy, yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đã trở thành bức xúc, hàng đầu để thực 
hiện mục tiêu phát triển lúc bấy giờ. Thực hiện tăng trưởng nhanh mới có thể 
kéo nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo, kém phát triển, và chống tụt hậu 
xa hơn, thu hẹp dẫn khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh. 
Hơn thế nữa, thế kỷ 21, tình hình về kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi, mở cửa, 
hội nhập quốc tế và khu vực ngày cảng rộng rãi đã cho phép chúng ta có thể sử 
dụng được những lợi thế của các nước đi sau để khắc phục những rào cản thực 
hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua như sự thiếu vốn, thiếu 
công nghệ, thiếu ho động tay nghề và thiểu thị trưởng tiêu thụ cũng như cung cấp  sản phẩm. 
Mặt khác, con đường mà Việt Nam lựa chọn trong thời kỳ đối mới kinh tế là phát 
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khía cạnh "xã hội chủ 
nghĩa” đặt yêu cầu tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực 
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Quan tâm đến tiến bộ và công bằng xã 
hội chính là mặt văn hóa của của sự phát triển mà chúng ta theo đuổi phù hợp với 
định hướng xã hội chủ nghĩa và nó chính là một phần của mô hình phát triển đất  nước. 
3. Hiện nay con đường Việt Nam lựa chọn là phát triển toàn diện 
Những luận cứ nói trên cho thấy mô hình phát triển kinh tế Việt Nam lựa chọn hiện 
nay là mô hình phát triển toàn diện. Nội dung chính hình này là thực hiện việc kết 
hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến  trình phát triển. 
Sự lựa chọn con đường phát triển toàn diện đã thể hiện khá rõ trước hết trong quan 
điểm phát triển đặt t trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 20012010: 
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến 
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt được sự đầy đủ về vật chất,     
sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận 
của xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. 
Tiếp theo, nhiều chiến lược và các văn kiện khác đã cụ thể hóa, hoàn thiện và bộ 
sung cho nội dung của mô hình phát triển toàn diện mà chúng ta lựa chọn. Chiến 
lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS) được Chính phủ phê 
duyệt tháng 5 năm 2002, đã nhấn mạnh việc xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để 
bảo đảm công bằng xã hội và tăng trưởng vững, và ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, 
bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ người nghèo vươn lên. CPRGS đã đưa 
ra cụ thể mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện sự kết hợp hai nội dung 
kinh tế và xã hội trong quá trình phát triển đất nước. 
Một văn kiện mang tính cụ thể hóa và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế - xã 
hội giai đoạn 2001-2010 thể hiện sự lựa chọn mô hình phát triển toàn diện của Việt 
Nam là Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị 
sự 21 Việt Nam - Agenda 21 - VN) do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/2004, 
Theo tài liệu này, phát triển kinh tế của Việt Nam là quá trình kết hợp chẽ, hợp lý và 
hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội và môi trường. 
 Mục tiêu về kinh tế đạt được đó là sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế   
hợp lý đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự 
suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho  thế hệ mai sau. 
 Mục tiêu về xã hội là đạt được kết quả cao trong thực hiện tiến bộ và công   
bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khoẻ 
nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành 
và có việc làm, giảm tình trạng nghèo đói và hạn chế khoảng cách giàu nghèo 
giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội, nâng cao mức công bằng về 
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và các thế hệ, duy trì và phát huy 
được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ 
văn minh về đời sống vật chất và tinh thần. 
 Mục tiêu về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn   
tài nguyên, thực hiện việc tái sinh tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường.     
Những thành tựu đạt được về tăng trưởng kinh tế và phát triển con người thời gian 
qua đã chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế toàn 
diện của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thông qua Chiến lược phát 
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, mục tiêu phấn đấu đặt ra là đến năm 
2020, Việt Nam về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực 
hiện mục tiêu này, chúng ta vẫn tiếp tục lựa chọn con đường phát triển với 5 quan 
điểm phát triển chủ đạo như sau: 
(1) Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vũng, phát triển bền vững là yêu cầu 
xuyên suốt trong Chiến lược; 
(2) Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước 
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (3) 
Thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, 
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển;  (4) 
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày 
càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa;  (5) 
Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội 
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng  IV. Kết Luận 
Bài thuyết trình đã nói về kinh tế học phát triển và vai trò quan trọng của nó trong 
việc nghiên cứu và tìm hiểu cách phát triển kinh tế. Chúng ta đã phân tích các con 
đường phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và liên hệ thực tiễn với tình 
hình kinh tế của Việt Nam hiện nay. Việc áp dụng kiến thức này có vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững cho mọi người. 
Với Việt Nam, hiện nay chúng ta đang tiến hành một số biện pháp trong các con 
đường này. Chính phủ đã tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, đầu tư vào 
hạ tầng và nâng cao chất lượng giáo dục và sức khỏe. Việt Nam cũng đã mở cửa thị 
trường và thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. 
Tuy nhiên, việc thực hiện các con đường này vẫn đòi hỏi sự quản lý cẩn thận và giải 
quyết những thách thức riêng của Việt Nam, như vấn đề môi trường và cân bằng 
giữa phát triển kinh tế và xã hội. Để đảm bảo thành công trong việc phát triển kinh 
tế, chúng ta cần sự đổi mới liên tục, hợp tác và thấu hiểu rõ những nguyên tắc cơ bản 
của kinh tế học phát triển.     
Em xin cám ơn thầy và các bạn đã lắng nghe bài thuyết trình của nhóm em. Ai có 
câu hỏi gì thì xin mời đặt ra câu hỏi cho nhóm ạ ( có gg bảo các bạn tự tra, miễn trả  lời)