



















Preview text:
BÀI GIẢNG   
NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU 
(CONTRASTIVE LINGUISTICS)      BÀI 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU   
I. Khái quát quá trình phát triển và vị trí Ngôn ngữ học đối chiếu 
1.1. Khái quát quá trình phát triển 
Những nghiên cứu đối chiếu đầu tiên trong ngôn ngữ học xuất hiện 
từ rất lâu, thời kì hình thành nhiều quốc gia độc lập, phát triển mạnh về 
khoa học kĩ thuật, đặc biệt từ những năm 70 của thế kỉ XX. 
Nguyên nhân hình thành và phát triển của Ngôn ngữ học đối chiếu bao 
gồm nguyên nhân bên ngoài, đó là nhiều vùng lãnh thổ, nhiều cộng đồng 
dân tộc mới, nhiều quốc gia độc lập với nhiều ngôn ngữ được phát hiện 
và nhiều ngôn ngữ trở nên có vị trí xứng đáng. Do vậy nhu cầu giao lưu 
giữa các nền văn minh, văn hóa tăng lên, từ đó yêu cầu việc dạy và học 
ngoại ngữ là bức thiết, cần phải xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn đối 
với dịch thuật; và nguyên nhân bên trong, đó là đòi hỏi các nhà nghiên 
cứu phải phải phát hiện và bao quát nhiều ngôn ngữ một cách sâu và 
rộng để giải quyết những vấn đề cụ thể trực tiếp trong nội bộ ngôn ngữ. 
Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được chia làm 3 thời kì: 
- Thời kì đầu: Thời kì Phục hưng (thế kỉ XVII – XVIII), các công 
trình nghiên cứu tập trung vào sự quan sát sự khác nhau giữa ngoại ngữ 
và tiếng mẹ đẻ, so sánh loại hình ngôn ngữ. Nổi bật là cuốn «Từ vựng so 
sánh các ngôn ngữ và phương ngữ» của Panlat vào 1787-1789; Công 
trình «Thư mục về các ngôn ngữ đã biết và các nhận xét về những giống 
nhau và khác nhau giữa chúng» của hai tác giả Evan và Pandu người  1   
Đức vào 1806-1817; Cuốn «Ngữ pháp triết học đại cương» của 
N.L.Javinski người Nga vào năm 1810… 
- Thời kì thứ 2: Thế kỉ XIX là sự phát triển của ngôn ngữ học so 
sánh-lịch sử. Thời kì này Ngôn ngữ học tách ra và trở thành một ngành 
khoa học độc lập có đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng. 
- Thời kì thứ 3: Giữa đầu thế kỉ XX, ngôn ngữ học phát triển mạnh 
mẽ, nhu cầu sử dụng ngoại ngữ tăng cao là tiền đề nghiên cứu các ngôn 
ngữ phục vụ cho lí luận và ứng dụng. Các công trình nghiên cứu: «Ngữ 
pháp tiếng Nga đối chiếu với tiếng Uzơbech» của E.D. Polivanov,1933; 
«Ngôn ngữ học đại cương và một số vấn đề tiếng Pháp» của S. Bal i, 
1932; «Languages in Contact» của U. Weinreich, 1953; «Transfer 
grammar» của Z. Harris, 1954 ; «Linguistics across cultures» của R. 
Lado, 1957 ; Sau đó là sự bùng nổ các công trình nghiên cứu của các học 
giả Mỹ đối chiếu tiếng Anh với các ngôn ngữ châu Âu: tiếng Pháp, Italy, 
Nga… như công trình đối chiếu tiếng Anh với tiếng Hungari của W. 
Nemser, 1961; «Papers and Studies in Contrastive Linguistics», 
Balan,1973; Contrastive Linguistics ở Bungari năm 1976; Contrastes ở  Pháp năm 1981… 
Ở Việt Nam nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được chú ý từ 
những năm 80 thế kỉ XX. Công trình đầu tiên Nghiên cứu đối chiếu các 
ngôn ngữ của Lê Quang Thiêm (1989), 1992 là công trình «Ngôn ngữ 
học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á của Nguyễn Văn 
Chiến, «Đối chiếu ngôn ngữ» của Bùi Mạnh Hùng; Từ những năm 90 
thế kỉ XX đến nay nhiều công trình nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ 
Tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Nga… ở các lĩnh vực ngữ pháp, từ vựng, 
tục ngữ, lời nói đã xuất hiện và đóng góp hiệu quả vào lí luận cũng như 
áp dụng vào dạy và học ngoại ngữ ở Việt Nam.   
1.2. Vị trí Ngôn ngữ học đối chiếu. Trong các bộ môn ngôn ngữ học hiện 
đại, Ngôn ngữ học gồm 3 ngành chính: Ngôn ngữ học miêu tả, Ngôn ngữ 
học so sánh và Ngôn ngữ học lí luận. 
Ngôn ngữ học đối chiếu là phân ngành của ngôn ngữ học so sánh, 
do vậy, cơ sở lí luận, thủ pháp nghiên cứu của Ngôn ngữ học đối chiếu là  lí thuyết so sánh.  2     
- So sánh là gì? Là thao tác tư duy của con người nhằm nhận thức 
hiện thực khách quan. Trong quá trình so sánh tìm và chỉ ra những thuộc 
tính về lượng và chất của đối tượng nhận thức, phân loại các sự kiện 
nhận thức và đánh giá nội dung các sự kiện đó.   
- Hoạt động so sánh là hoạt động đối chiếu đối tượng này với đối 
tượng khác cùng loại, cùng trật tự với sự thống nhất những yếu tố, sự 
kiện, chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt, những mối quan hệ giữa các  đối tượng so sánh. 
- Ngôn ngữ học so sánh là ngành học lấy so sánh như là thủ pháp 
phân tích, phương pháp nghiên cứu tư liệu ngôn ngữ. Ngôn ngữ học so 
sánh gồm so sánh bên trong (intra-linguistic comparison) và so sánh bên 
ngoài (cross-linguistic comparison).   
So sánh bên trong là so sánh các đơn vị, các phạm trù, ở các cấp 
độ, các bình diện khác nhau của hệ thống, cấu trúc ngôn ngữ trong phạm 
vi một ngôn ngữ dựa trên thao tác đối lập so sánh, chỉ ra những nét khu 
biệt. Ví dụ, so sánh thời (tenses) trong tiếng Anh: Simple present và 
Simple past: She works for a big company; She worked for a big 
company; Thể trong tiếng Nga: thể hoàn thành và thể chưa hoàn thành 
của động từ; Âm vị trong tiếng Pháp... 
So sánh bên ngoài là so sánh giữa các ngôn ngữ, tối thiểu là hai 
ngôn ngữ (có thể cùng hoặc khác địa lí, cùng loại hình hoặc khác loại 
hình...), gồm so sánh không hệ thống hoặc hệ thống các yếu tố, hiện 
tượng hoặc đơn vị ngôn ngữ nhằm xác nhận một hoặc vài đặc điểm trong 
ngôn ngữ, mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu. Ví dụ, so sánh đối 
chiếu "đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước giữa tiếng  Anh và tiếng Việt" 
 - Ngôn ngữ học so sánh chia làm 2 loại: Ngôn ngữ học so sánh 
lịch sử và Ngôn ngữ học so sánh loại hình.   
+ Ngôn ngữ học so sánh lịch sử là so sánh 2 hoặc trên 2 ngôn ngữ 
có quan hệ thân thuộc, họ hàng, tìm ra những nét giống nhau, khác nhau 
giữa các ngôn ngữ nhằm phát hiện qui luật biến đổi giữa các ngôn ngữ 
và quá trình phát triển của chúng; Xác định mức độ quan hệ thân thuộc 
giữa các ngôn ngữ này; Phục nguyên (restore) lại ngôn ngữ gốc từ đó 
sinh ra các ngôn ngữ nhánh. Ví dụ, Họ Ấn - Âu có dòng Ấn Độ, dòng  3   
Irang, dòng Xlavơ, dòng Ban tích, dòng Giécman, dòng Roman, dòng 
Kentơ…Trong dòng lại phân chia thành các nhánh ngôn ngữ, ví dụ, dòng 
Xlavơ có các nhánh: nhánh Đông gồm các ngôn ngữ Nga, Ucrain, 
Belorusti; Nhánh Nam gồm các ngôn ngữ Bungari, Makêdon, Xlôven; 
Nhánh Tây gồm các ngôn ngữ Tiệp, Slôvac, Balan, Kasubơ…; Họ Hán-
Tạng gồm các dòng Hán –Thái có các ngôn ngữ Hán, Đungan, Pupeo, 
Thái, Lào, Choang, Tày, Nùng, Sán chỉ; Dòng Tạng – Miến…   
+ Ngôn ngữ học so sánh - loại hình (typology): phân loại các ngôn 
ngữ căn cứ vào cấu trúc và chức năng của chúng. Loại hình ngôn ngữ là 
tổng thể những đặc điểm hoặc thuộc tính về cấu trúc và chức năng vốn 
có đối với các nhóm ngôn ngữ, đặc trưng bản chất của các ngôn ngữ  thuộc nhóm đó.   
+ Phương pháp so sánh-loại hình hướng vào hiện tại và hoạt động 
của kết cấu ngôn ngữ, nhiệm vụ của phương pháp này là tìm ra những 
cái giống nhau và khác nhau trong kết cấu của 2 hoặc nhiều ngôn ngữ. 
1.3. Các loại hình ngôn ngữ (types of languages): 
+ Các ngôn ngữ đơn lập/đơn âm tiết (monosyllable languages): 
không biến đổi hình thái từ, quan hệ cú pháp và ý nghĩa ngữ pháp được 
biểu thị chủ yếu bằng trật tự từ, hư từ và ngữ điệu. Ví dụ, tiếng Việt,  tiếng Trung quốc… 
+ Các ngôn ngữ chắp dính (adherit languages): sử dụng các phụ tố 
để cấu tạo từ và biểu thị những mối quan hệ khác nhau. Ví dụ, tiếng Thổ 
Nhĩ kì: adam (người đàn ông) sang số nhiều adamlar (những người đàn 
ông), kadin (người đàn bà) sang số nhiều kadinlar (những người đàn  bà)… 
+ Các ngôn ngữ biến hình/hòa kết/chuyển dạng (inflectional 
languages): biến đổi các nguyên âm, phụ âm trong hình vị hoặc thêm các 
phụ tố mang ý nghĩa ngữ pháp, tiêu biểu là tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng 
Pháp…Ví dụ, foot > feet, worker > workers;… 
+ Các ngôn ngữ hỗn nhập/đa tổng hợp (generalized languages): 
một từ có thể tương ứng một câu. Chủ yếu là các phương ngữ khu vực  Nam Mĩ.    4   
II. Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu:  
Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu là bộ môn ngôn ngữ học độc lập, 
so sánh 2 hoặc 3 ngôn ngữ không phụ thuộc vào quan hệ họ hàng, loại 
hình, khu vực địa lí của các ngôn ngữ. 
2.1. Các khuynh hướng nghiên cứu của ngôn ngữ học đối chiếu 
(trends of contrastive studies): 
- Khuynh hướng cấu trúc (structural trend): hướng tới cấu trúc của 
ngôn ngữ, các đơn vị và các mối quan hệ của ngôn ngữ. 
 Các đơn vị ngôn ngữ gồm âm vị, hình vị, từ, câu. 
+ Âm vị (phoneme) là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, có vai trò 
phân biệt nghĩa, dùng để cấu tạo hình vị. Âm vị gồm các nguyên âm và  phụ âm. 
+ Hình vị (morpheme) là đơn vị có nghĩa nhỏ nhất của ngôn ngữ 
dùng để cấu tạo từ. Chức năng của hình vị là biểu thị ý nghĩa của từ: ý 
nghĩa từ vựng (car, house, book…) và ý nghĩa ngữ pháp (to work > he 
works – present simple; a book > books (singular-plural).   
+ Từ (word) là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, cấu tạo câu, có cấu 
trúc chặt chẽ, có chức năng biểu thị sự vật, khái niệm, tình cảm, trạng  thái, quá trình.   
+ Câu (sentence) là đơn vị giao tiếp của ngôn ngữ, có ngữ điệu và 
chứa đựng thông báo trọn vẹn. 
- Các mối quan hệ ngôn ngữ gồm: 
Quan hệ tầng bậc/ tôn ti/bao hàm (hierarchical relation): là quan hệ 
trong đó đơn vị lớn hơn bao gồm/chứa đựng những đơn vị nhỏ hơn hoặc 
ngược lại những đơn vị nhỏ hơn cấu tạo những đơn vị lớn hơn. Ví dụ, 
books bao gồm 2 hình vị. 
Quan hệ cú đoạn/ngang/tuyến tính-linear (syntagmatical relation): 
là quan hệ, trong đó, từ, ngữ đoạn được kết nối thành một chuỗi kế tiếp. 
Ví dụ, My-hat-is-new. 
Quan hệ hệ hình/ liên tưởng (paradigmatical relation): là quan hệ 
đối vị, quan hệ dọc giữa một đơn vị ngôn ngữ với những đơn vị đồng  5   
hạng khác có thể thay thế được cho nó tại vị trí mà nó hiện diện trong  câu (trục kết hợp). 
 Ví dụ:  John gave Marta a gold ring. 
 Nam presented Mai a new book. 
- Khuynh hướng ngôn ngữ sản sinh (generative linguistics): hướng 
tới năng lực ngôn ngữ, chuyển dịch ngôn ngữ và các qui tắc sản sinh  ngôn ngữ. 
- Khuynh hướng ngôn ngữ chức năng (functional linguistics): 
hướng tới các cấp độ ngôn ngữ: phonology-âm vị học, lexicology (từ 
vựng học), grammar (ngữ pháp), ngữ nghĩa ngôn bản (semantic 
discourse), và loại hình học (typology). 
- Ngôn ngữ tri nhận (cognitive linguistics): nghiên cứu ngôn ngữ 
dựa trên những tri thức, tri nhận và ý niệm hóa hiện thức khách quan, ví  dụ, a house. 
2.2. Xu hướng phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu: 
+ Xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ học miêu tả (theo Polivanov): 
đối chiếu 2 ngôn ngữ, miêu tả các qui tắc ngữ pháp, xác lập những điểm 
khác biệt, tìm những điểm mạnh, yếu của 2 ngôn ngữ khi chuyển dịch  qua người nói; 
+ Xu hướng đối chiếu đặc trưng học: tìm những nét đặc trưng 
(specific characteristics) trong quá trình đối chiếu giữa các ngôn ngữ. 
Khi tiến hành nghiên cứu 2 ngôn ngữ thì một ngôn ngữ được coi là ngôn 
ngữ cơ sở, ngôn ngữ kia là ngôn ngữ công cụ, là phương tiện để so sánh. 
Ví dụ, khi so sánh “Thời” (tenses) của tiếng Việt và tiếng Anh thì tiếng 
Việt là ngôn ngữ cơ sở, tiếng Anh là ngôn ngữ công cụ. 
+ Xu hướng gần đây của ngôn ngữ học đối chiếu là nghiên cứu đối 
chiếu gắn với loại hình học tức là miêu tả, phân tích các loại hình, tiểu 
loại hình của các ngôn ngữ. 
2.3. Ý nghĩa Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu. 
 Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu có ý nghĩa thực tiễn trong việc 
dạy học tiếng nước ngoài: giải quyết những khó khăn thuộc bình diện 
ngôn ngữ mà người học thường gặp, xây dựng các thủ pháp, tài liệu dạy  6   
và học ngoại ngữ, bên cạnh đó Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu còn có ý 
nghĩa to lớn trong phạm vi xây dựng lí luận, ứng dụng lí thuyết như 
hướng đến những vấn đề của triết học, ngôn ngữ học, mối quan hệ giữa 
ngôn ngữ và tư duy, xây dựng lí thuyết phiên dịch, phiên dịch máy./.  ***  7      BÀI 2 
NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU   
1. Quan điểm về nhiệm vụ của Ngôn ngữ học đối chiếu 
Khi thực hiện các nhiệm vụ của Ngôn ngữ học đối chiếu phải dựa trên 
những quan điểm và các ý kiến cụ thể về nhiệm vụ nghiên cứu, hướng 
tới mục đích cuối cùng. Có 4 quan điểm về nhiệm vụ của Ngôn ngữ học  đối chiếu. 
1.1. Thứ nhất, nghiên cứu đối chiếu đi tìm những nét giống nhau, khác 
nhau (similarities and differences) giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Những 
nét khác biệt là những trở ngại, khó khăn khi người học ngoại ngữ, 
những nét giống nhau giúp người học tiếp thu, lĩnh hội nhanh và dễ dàng 
hơn, không mất nhiều thời gian và sức lực, sử dụng ngoại ngữ hiệu quả  hơn. 
1.2 Thứ hai, tìm những nét khác biệt quan trọng nhất (distinctions) của 
ngôn ngữ thuộc phạm trù ngôn ngữ và logic. 
1.3. Thứ ba, hướng tới sự giống nhau với mục đích nghiên cứu: ngữ hệ 
(so sánh lịch sử), cấu trúc loại hình (so sánh loại hình), ngữ vực (so sánh  ngữ vực học). 
1.4. Thứ tư, tìm sự giống nhau, khác nhau, sự tương ứng và bất tương 
ứng, đồng thời làm sáng tỏ quan hệ nguyên nhân giữa các hiện tượng.   
2. Phân định nhiệm vụ cụ thể dựa trên phạm vi ứng dụng của Ngôn  ngữ học đối chiếu 
 2.1. Đối với phạm vi ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ học. 
 Ngôn ngữ học đối chiếu có những nhiệm vụ hướng tới các lĩnh vực  sau: 
2.1.1. Đối với loại hình học phân loại: Nghiên cứu tập trung vào sự 
giống nhau có đặc tính loại hình từ đó tập hợp các ngôn ngữ thành những 
kiểu loại nhất định. Trong quá trình nghiên cứu còn phát hiện những sự  8   
khác nhau về đặc tính loại hình, do vậy nghiên cứu hình học phân loại 
hướng đến cả sự giống và khác nhau của ngôn ngữ. 
2.1.2 Đối với đặc trưng học (characterictics): Nghiên cứu đối chiếu tập 
trung vào sự khác nhau, trong sự khác nhau tìm thấy những đặc trưng 
của ngôn ngữ. Ví dụ, khi so sánh tiếng Việt với các ngôn ngữ như tiếng 
Anh, tiếng Nga thì tiếng Việt có đặc trưng riêng đó là thanh điệu. 
2.1.3. Đối với phổ niệm học ngôn ngữ (generality): Nghiên cứu đối chiếu 
tập trung vào những sự giống nhau chung nhất, có tính phổ biến nhất. 
2.1.4. Đối với loại hình học đối chiếu: Nghiên cứu đối chiếu tập trung 
vào những nét chung nhất của các ngôn ngữ, những nét chiếm ưu thế 
trong nhiều ngôn ngữ, những nét phổ biến ở một số ngôn ngữ, nét riêng 
của ngôn ngữ. Ví dụ, các kiểu trật tự từ của thành phần câu SVO, SOV,  VOS, VSO, OSV, OVS… 
2.1.5. Đối với ngôn ngữ học so sánh lịch sử: Nghiên cứu tìm những sự 
giống nhau trên những hiện tượng khác nhau, những nét tương đồng lịch 
sử, chỉ ra những mối quan hệ lịch sử giữa các ngôn ngữ trong một ngữ 
hệ, họ, nhóm ngôn ngữ. 
2.1.6. Đối với ngữ vực học: Hướng nghiên cứu tập trung vào những sự 
giống nhau hoặc gần nhau của các ngôn ngữ trong khu vực, cùng khu 
vực địa lí, có thể những ngôn ngữ này không có quan hệ họ hàng, nhưng 
lịch sử, văn hóa có những nét chung. Các ngôn ngữ này có thể thiết lập 
thành những “Liên minh ngôn ngữ” (đồng qui ngôn ngữ, giao thoa ngôn 
ngữ) thường biểu hiện có một số yếu tố chung: vốn từ vựng, thành ngữ, 
hệ thống biến cách, hệ thống âm vị, nguyên âm, phụ âm… Ví dụ, các 
ngôn ngữ vùng Ban căng: tiếng Hi Lạp, Bungary, Rumani…, Các ngôn 
ngữ Đông Nam Á: tiếng Thái, Lào…tạo thành “Liên minh ngôn ngữ 
Đông Nam á” với nền văn minh lúa nước 
 2.2. Đối với phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ, giao thoa ngôn ngữ 
là hiện tượng gây ra bởi sự khác nhau và cả giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ 
và ngoại ngữ. Do vậy, định hướng mục đích nghiên cứu đối chiếu là tìm 
ra sự giống và khác nhau giữa 2 thứ tiếng trên cơ sở việc lập mã, giải mã,  truyền mã.    9   
 Communicative linguistic activities  Receiption-decoding  Production-coding    Interaction  Receiving,    Communicative  analyzing meaning  Designing,  activities  of language  producing linguistic    structures  structures      Listening, Reading  Speaking, Writing     
Để xác định được những nét giống và khác nhau, khi nghiên cứu 
cần lưu ý các trường hợp sau: 
 - Những nét giống nhau cần yếu là những nét giống nhau căn bản giữa 
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ giúp cho việc tiếp thu nhanh và không mất thời 
gian. Ví dụ, cấu trúc SVO là giống nhau căn bản giữa tiếng Việt và tiếng 
Anh; Sự không biến đổi hình thái của tính từ tiếng Việt và tiếng Anh. 
 - Những nét giống nhau không cần yếu là những nét giống nhau có tính 
phổ quát, phổ niệm ngôn ngữ, ngôn ngữ nào cũng có như nguyên âm, 
phụ âm, động từ, tính từ. Do vậy, những nét giống nhau này không phải 
là đối tượng chú ý của nghiên cứu đối chiếu. 
- Những nét khác nhau cần yếu là sự khác nhau gây ra hiện tượng 
chuyển di tiêu cực giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Sự khác nhau này là 
đối tượng mà nghiên cứu đối chiếu tập trung trên mọi phương diện. Ví 
dụ, thanh điệu trong tiếng Việt đối với người nước ngoài học tiếng Việt, 
hoặc từ chỉ loại trong tiếng Việt là sự khác biệt, gây nhiều khó khăn cho 
người học. Người học hay mắc lỗi khi sử dụng: cái, con, chiếc, miếng, 
lát, tấm…(ví dụ, bài tập điền từ đúng vào chỗ trống trong câu sau, dùng 
cái, con hoặc chiếc: Tên cướp dùng……dao đâm nạn nhân), hoặc phụ 
âm mềm, phụ âm cứng trong tiếng Nga gây cho người Việt gặp rất nhiều 
khó khăn trong quá trình học ở bình diện ngữ âm. Khi học đại từ nhân 
xưng, ngôi OHO trong tiếng Nga, IT trong tiếng Anh người Việt cũng 
gặp không ít khó khăn ở giai đoạn đầu khi học các ngôn ngữ trên; hoặc 
trọng âm từ (word stress), biến đổi hình thái từ (word inflection) trong  các ngôn ngữ châu Âu.  10   
- Những nét khác nhau không cần yếu là sự khác nhau hoàn toàn các 
yếu tố ở các cấp độ, bình diện ngôn ngữ, có hoặc không có ở ngôn ngữ 
này hoặc ở ngôn ngữ kia, không gây nên chuyển di tiêu cực và giao thoa 
ngôn ngữ, ví dụ trong tiếng Nga danh từ, tính từ, đại từ có phạm trù 
giống (gender), số (number), cách (case), có nghĩa là trong tiếng Nga các 
loại từ này biến đổi hình thái từ, còn trong tiếng Việt các loại từ này 
không biến đổi vì tiếng Việt không có các phạm trù trên. Người Nga học 
tiếng Việt không gặp nhiều khó khăn khi học vì các loại từ trên không 
biến đổi hình thái. Ví dụ, từ красивый – красивая – красивое – 
красивые -đẹp; tương tự trong tiếng Anh chỉ có danh từ biến đổi ở phạm 
trù số, ví dụ, a book > books. 
- Những nét tương ứng cần yếu là một nội dung đồng nhất của 2 ngôn 
ngữ đối chiếu được biểu đạt bằng các phương tiện ngôn ngữ khác nhau. 
Ví dụ, thời quá khứ, hiện tại, tương lai trong tiếng Anh được biểu đạt 
bằng sự biến đổi hình thái từ, còn trong tiếng Việt sử dụng các phụ từ: 
She lived in our city 2 years ago. (Hai năm trước đây chị ấy đã sống ở 
thành phố của chúng tôi.); She always gets up at 6 o’clock. (Chị ấy 
thường dậy vào lúc 6 giờ); She will go to market with her mother. (Chị 
ấy sẽ đi chợ với mẹ); Hoặc trật tự từ trong ngôn ngữ đơn tiết (không biến 
hình) tiếng Việt, tiếng Anh khác biệt so với các ngôn ngữ biến hình như  tiếng Nga, tiếng Ba Lan. 
- Những nét tương ứng không cần yếu là những nét tương ứng chỉ có giá 
trị cho việc nghiên cứu lí luận ngôn ngữ học, không cần cho việc dạy và  học ngoại ngữ. 
- Những nét tương ứng cần yếu là những ô trống (gap) của một trong 2 
ngôn ngữ đối chiếu, đây là yếu tố gây nhiều khó khăn trong việc lĩnh hội 
ngôn ngữ, ô trống thường xuất hiện trong tục ngữ, thành ngữ vì chúng có 
tính độc đáo cao. Ô trống là trường hợp một đơn vị, một cấu trúc, một 
hiện tượng ngôn ngữ có trong ngôn ngữ này nhưng không có trong ngôn 
ngữ kia hay một từ trong ngôn ngữ này có ý nghĩa bao hàm ý nghĩa của 
nhiều từ trong ngôn ngữ khác. Ví dụ, từ horse không có trong ngôn ngữ 
của người da đỏ trước khi người Tây Ban Nha mang ngựa tới Châu Mĩ; 
từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau thường không có sự tương 
ứng một đối một, ví dụ từ xanh trong tiếng Việt tương ứng với cả 2 từ 
blue và green trong tiếng Anh; Tiếng Việt có nhiều từ biểu thị những  11   
khái niệm khác nhau trong cách tri nhận: lúa, thóc, gạo, cơm, (cánh đồng 
lúa, phơi thóc, xuất khẩu gạo, gạo để nấu cơm) trong tiếng Anh chỉ có 
một từ rice; hoặc trong tiếng Anh từ uncle bao hàm ý nghĩa cả một nhóm 
từ trong tiếng Việt: bác, chú, cậu, dượng. Những ô trống cung cấp thông 
tin bổ ích về hiện thực cuộc sống, kinh nghiệm, thói quen, cách thức 
phạm trù hóa thế giới của người bản ngữ. 
- Những nét phi tương ứng không cần yếu là phạm trù nào đó có trong 
tiếng mẹ đẻ nhưng không có trong ngoại ngữ đối chiếu./.  12    BÀI 3 
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ   
1. Những mục đích xét ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng lí thuyết   
Nghiên cứu đối chiếu ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ gồm những nội dung  sau: 
1.1. Ngôn ngữ học đối chiếu và ngôn ngữ học đại cương 
 Ngôn ngữ học đối chiếu giúp kiểm chứng và làm sáng tỏ các phổ 
niệm ngôn ngữ Việc xác lập các phổ niệm ngôn ngữ là nhiệm vụ quan 
trọng của ngôn ngữ học đại cương. Cao Xuân Hạo: “Nêu lên cái chung 
cho ngôn ngữ nhân loại là nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng cái chung chỉ 
có thể được rút ra khi đối chiếu các ngôn ngữ trên cơ sở biết được tất cả  cái riêng”. 
Đồng âm và đa nghĩa, hình vị là phổ niệm. Cái được biểu đạt (content-
signifier: ý nghĩa, khái niệm sự vật, hiện tượng, trạng thái, quá trình…) 
là vô tận, không giới hạn; cái biểu đạt (expression-signified: sound and 
script) là có hạn, do vậy, có hiện tượng đồng âm và đa nghĩa. 
Số lượng các ngôn ngữ được đối chiếu càng nhiều thì những nhận 
định về các đặc điểm phổ quát, loại hình hay đặc thù của từng ngôn ngữ 
càng có độ tin cậy cao. 
Việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ biến hình như tiếng Nga, 
tiếng Anh, tiếng Pháp với tiếng Việt giúp ta thấy được những khác biệt 
cơ bản của cấu trúc ngữ pháp, giúp nhìn nhận cách phân tích cấu trúc câu 
tiếng Việt theo truyền thống là phân tích theo 2 phần CHỦ-VỊ và đề xuất 
cách phân tích mới ĐỀ-THUYẾT. Theo Cao Xuân Hạo, phân tích đề-
thuyết theo cách tiếp cận ngữ pháp chức năng. ĐỀ là cái được nói đến 
trong câu, thường là cái đã biết trong quá trình diễn ra hoạt động giao 
tiếp giữa 2 người. Đó là cơ sở, điểm xuất phát cho hoạt động thông báo 
sau; THUYẾT là phần chứa đựng nội dung nói về phần đề, mang thông 
tin mới, trọng tâm thông báo. Câu có thể không có ĐỀ nhưng không thể 
không có phần THUYẾT. Ví dụ, Jack is a student. (Jack – đề; a student  13   
– thuyết; Không đợi John thanh minh, Marta quay gót đi. (không đợi 
John thanh minh – minh xác ngữ, Marta – đề, quay gót đi- thuyết. 
1.2. Phân loại hình học ngôn ngữ 
 Đối chiếu các ngôn ngữ tìm ra những cái giống nhau (similarities) và 
những cái khác nhau (differences), những đặc điểm loại hình ngôn ngữ 
trên cơ sở nghiên cứu các mặt khái quát, các phạm trù của hệ thống ngôn 
ngữ, phát hiện về cấu trúc, hoạt động của các ngôn ngữ để qui chúng 
thuộc các ngôn ngữ cùng loại hình hoặc khác loại hình. Ví dụ, khi nghiên 
cứu ta thấy được sự khác biệt về vị trí của giới từ tiếng Việt và tiếng 
Hàn: giới từ tiếng Việt đứng sau danh từ còn tiếng Hàn thì ngược lại giới 
từ đặt sau danh từ, hoặc khi nghiên cứu tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng 
Thái ta thấy được các ngôn ngữ này đều là ngôn ngữ đơn lập. 
 Có 3 loại hình ngôn ngữ cơ bản: 
 Ngôn ngữ biến hình (inflectional languages): tiêu biểu là tiếng Nga, 
tiếng Anh, tiếng Pháp: любить chia ở các ngôi; Ngôn ngữ chắp dính 
(adherit languages), tiêu biểu tiếng Thổ Nhĩ Kì, ví dụ, adam (a man)số ít 
đổi sang số nhiều: adamlar (men); Ngôn ngữ đơn lập/đơn âm tiết 
(monosyllable languages), tiêu biểu tiếng Việt, tiếng Thái… 
1.3. Nghiên cứu đối chiếu và những vấn đề triết học, ngôn ngữ học, mối 
quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. 
 Theo luận điểm của Sapir, Whorf: Người nói các thứ tiếng khác nhau 
thì nhận thức thế giới khách quan khác nhau, có nghĩa rằng ngôn ngữ 
ảnh hưởng tới tư duy, nhận thức và hành vi của con người. Nhưng thực 
tế nghiên cứu chứng minh không phải vậy, những sự khác nhau về ngôn 
ngữ không cản trở các dân tộc khác nhau nhận thức như nhau về thế giới 
khách quan. Konsanxki, nhà ngôn ngữ học Xô viết đã chứng minh: 
“Ngôn ngữ không thể được xem như cội nguồn của yếu tố chủ quan của  nhận thức”. 
1.4. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ với lí thuyết phiên dịch và phiên  dịch máy 
 Tìm ra sự đồng nhất, tương đương về nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. 
Tương đương có thể 1-1, nhưng loại tương đương này có giới hạn, do 
vậy phải tìm được sự tương đương của những đơn vị đa trị.  14   
Khi đối chiếu 2 ngôn ngữ với mục đích lí thuyết phiên dịch và dịch máy 
phải coi ngôn ngữ nào là ngôn ngữ gốc (ngôn ngữ khởi phát) và ngôn 
ngữ thứ 2 là ngôn ngữ phiên dịch. Việc nghiên cứu ở đây là miêu tả ngôn 
ngữ khởi phát, tiến hành đối chiếu tìm được sự chuyển dịch 
(transformation) ý nghĩa đồng nhất hoặc tương đương của các đơn vị 
ngôn ngữ. Cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin và ngôn ngữ 
máy tính giúp xây dựng từ điển điện tử và thiết kế các công cụ máy tính 
để tiến hành đối chiếu ngoài và phiên dịch máy. 
 Ví dụ, “ăn”, “chạy” trong tiếng Việt là từ đa nghĩa, chúng có nghĩa 
đồng nhất, tương đương trong tiếng Anh. 
2. Nghiên cứu đối chiếu ở phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ 
2.1. Ngôn ngữ học đối chiếu và lĩnh vực dạy học ngoại ngữ 
Nâng cao hiệu quả quá trình dạy học ngoại ngữ là động cơ thúc đẩy hình 
thành và phát triển của Ngôn ngữ học đối chiếu. Nghiên cứu đối chiếu 
xác định những thuận lợi và những khó khăn khi học ngoại ngữ, tìm 
những nét tương đồng và khác biệt của 2 ngôn ngữ. Nhiều công trình 
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào những nội dung sau: 
+ Ảnh hưởng cuả tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ. 
 + Mối quan hệ giữa sự giống nhau và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ 
và ngoại ngữ với những thuận lợi và khó khăn đối với việc học ngoại  ngữ. 
 + Lỗi do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ trong quá trình học ngoại ngữ. 
 + Khả năng và hình thức ứng dụng hiểu biết về những điểm giống 
và khác nhau giữa 2 ngôn ngữ vào quá trình học ngoại ngữ. 
2.2. Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với việc học ngoại ngữ 
 Tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình học ngoại ngữ. 
Nguyên nhân chính là chuyển di ngôn ngữ (language transfer-
interference), theo thuật ngữ của T. Odlin. Chuyển di ngôn ngữ là ảnh 
hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ. Chuyển di ngôn 
ngữ xảy ra ở các bình diện ngữ âm, từ vựng, cú pháp, ngữ dụng và diễn 
ngôn, gồm cả các nhân tố văn hóa, xã hội và cá nhân người học.  15   
Chuyển di ngôn ngữ chia thành 2 loại: chuyển di tích cực – giao thoa tích 
cực (positive interference) và chuyển di tiêu cực – giao thoa tiêu cực  (negative interference). 
+ Chuyển di tích cực là hiện tượng chuyển di những hiểu biết và kĩ năng 
sử dụng tiếng mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ, giúp việc học của 
người học dễ dàng hơn do có sự giống nhau của tiếng mẹ đẻ và ngoại 
ngữ đang học. Ví dụ, khi học ngoại ngữ người học dễ phát âm những âm 
tiếng mẹ đẻ cũng có, ví dụ, âm /b/, /l/, / n/,. .; các từ vựng của 2 ngôn 
ngữ giống nhau thì người học ít tốn thời gian học từ mới, tiếng Việt có 
hơn 70% từ có nguồn gốc Hán nên người học nhanh chóng hiểu nghĩa từ 
vựng, ít gặp khó khăn khi sử dụng chúng; trên bình diện ngữ pháp 
chuyển di tích cực ở sự giống nhau cấu trúc ngữ pháp của 2 ngôn ngữ tạo 
cho người học dễ tiếp nhận và sử dụng khi sản sinh lời nói. 
+ Chuyển di tiêu cực là ảnh hưởng của việc sao phỏng các mô hình của 
tiếng mẹ đẻ, tức là áp dụng không thích hợp, áp đặt các phương tiện, cấu 
trúc, qui tắc trong tiếng mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ làm sai lệch 
chuẩn mực của ngoại ngữ. Chuyển di tiêu cực thể hiện ở mọi cấp độ và 
bình diện của ngôn ngữ. 
 Ở bình diện ngữ âm, việc phát âm không đúng hoặc gặp khó khăn khi 
phát một số phụ âm, dễ nhầm lẫn trọng âm từ, trọng âm câu. Ví dụ, 
người Việt khi học tiếng Anh thường gặp khó khi phát âm các phụ âm 
như /tS/ trong children, /d/ trong mother; présent và present; người 
Trung quốc khi học tiếng Việt thường phát âm sai các từ có phụ âm /d/ ở 
các từ đi, đứng, đạt… thành /t/ vì trong tiếng Hán hiện đại không có phụ 
âm hữu thanh /d/ mà chỉ có phụ âm vô thanh /t/. 
 Ở bình diện từ vựng, chuyển di tiêu cực xuất hiện ngay cả ở những 
trường hợp 2 ngôn ngữ có những đơn vị từ vựng tương đồng, người học 
dễ biến cái tương đồng thành cái đồng nhất, ví dụ, embarrassed (tiếng 
Anh: bối rối) – embarazado (tiếng Tây Ban Nha: mang thai, Estoy muy 
embarazado. Tôi đang mang thai). 
 Ở bình diện ngữ pháp, chuyển di tiêu cực biểu hiện đa dạng từ đơn vị, 
phạm trù hình thái học, cú pháp học. Ví dụ, sự sắp xếp từ theo trật tự 
thích hợp trong tiếng Việt dễ bị nhầm lẫn của các học viên lưu học sinh ở 
các nước có ngôn ngữ thể loại biến hình như Nga, Hàn quốc, Nhật. Ví  16   
dụ, moja mama – mẹ của tôi: đại từ sở hữu ở các vị trí khác nhau. Vị trí 
tính từ trong tiếng Anh và tiếng Việt: John bought a new book. John mua 
một cuốn sách mới. 
 Ở bình diện ngữ dụng, chuyển di tiêu cực – lỗi thường gặp trong giao 
tiếp liên quan tới hiểu biết về văn hóa, quan hệ vai, cách dùng ngôn từ 
chào hỏi, xin lỗi, yêu cầu…, Ví dụ, cách dùng các ngôn từ trang trọng 
(formal) và thân mật (informal) khi xưng hô, viết thư: Hi, Hello, Good 
morning/afternoon/evening; Sir, Madam, Mr.,Ms., Mrs…. 
2.3. Mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ đối với học ngoại ngữ 
 Mối quan hệ giữa sự giống nhau, khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại 
ngữ với những thuận lợi, khó khăn là vấn đề thuộc về đối tượng tồn tại 
khách quan trong mối quan hệ giữa 2 ngôn ngữ. Còn dễ hay khó là thuộc 
khái niệm tâm lí tồn tại trong chủ thể người học. 
Những sự khác nhau giữa 2 ngôn ngữ không phải khi nào cũng gây khó 
khăn đối với quá trình học. Ví dụ, tính từ tiếng Nga khác tiếng Anh là có 
phạm trù giống, số, cách, chúng biến đổi theo giống, số và cách, còn tính 
từ tiếng Anh không biến đổi, do vậy, người Anh khi học tiếng Nga nếu 
không phân biệt được các phạm trù trên thì dễ mắc lỗi, ngược lại người 
Nga khi học tiếng Anh thì khác biệt về hình thái tình từ không gây trở  ngại cho người học. 
2.4. Ngôn ngữ học đối chiếu và phân tích lỗi 
- Mối quan hệ giữa Ngôn ngữ học đối chiếu và phân tích lỗi là mối quan 
hệ hiển nhiên vì hệ quả quan trọng nhất của ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ là lỗi 
dùng ngoại ngữ do chuyển di. 
- Lỗi: Lỗi nảy sinh ở người nói tiếng nước ngoài, làm sai lệch các sự kiện 
ngoại ngữ, vi phạm qui tắc hệ thống kí mã của ngôn ngữ, do vậy thông 
tin bị sai lệch, không chính xác. 
- Giao thoa và mắc lỗi là 2 hiện tượng khác nhau, không phải là một.          17    Sơ đồ: 
Lỗi là kết quả giao thoa     
Qua sơ đồ ta thấy lỗi là kết quả của giao thoa (phần giao nhau) và lỗi do 
nguyên nhân không liên quan tới giao thoa là tâm lí, giáo dục, thành 
kiến, lo sợ, tự ti (phần còn lại của đường tròn 2). 
- Các loại lỗi: Lỗi được phân định là lỗi tiềm ẩn và lỗi hiển hiện 
+ Lỗi tiềm ẩn (error): là lỗi do người nghiên cứu dự đoán nó có thể xuất 
hiện trong quá trình học ngoại ngữ. Lỗi tiềm ẩn được dự báo và được chỉ 
ra các giải pháp phòng ngừa. Ví dụ, lỗi phát âm khi người Việt học tiếng 
Anh, lỗi thanh điệu có thể mắc khi người nước ngoài học tiếng Việt. 
+ Lỗi hiển hiện (mistake): là lỗi xảy ra trong thực tế khi người học học 
và sử dụng ngoại ngữ. Ví dụ, lỗi khi phát âm, chính tả, sử dụng từ… 
- Các bước phân tích lỗi:  + Tập hợp ngữ liệu  + Nhận diện lỗi  + Phân loại kiểu lỗi 
+ Xác định tần số loại lỗi 
+ Nhận diện những lĩnh vực gây khó khăn cho người học  + Biện pháp khắc phục. 
2.5. Ứng dụng nghiên cứu đối chiếu vào lĩnh vực dạy học ngoại ngữ 
- Học ngoại ngữ là một quá trình tạo thành ở người học một hệ thống ngôn 
ngữ động (dynamic linguistic system) hay còn gọi là hệ thống tiệm cận 
(approximative system) hoặc là ngôn ngữ trung gian (interlanguage).    18    Sơ đồ.    Interlanguage       
Đường tròn L1 minh họa cho tiếng mẹ đẻ (native language), đường tròn 
L2 minh họa cho ngôn ngữ đích (target language) người học học, đường 
tròn L3 minh họa cho ngôn ngữ người học đang dùng (approximative 
language). Ta thấy đường tròn L3 không trùng hoàn toàn với đường tròn 
L2, nó chỉ trùng một phần; ngoài phần trùng với đường tròn L2, đường 
tròn L3 còn trùng một phần với đường tròn L1. Như vậy ta có thể xác 
định rõ rằng trong quá trình học ngôn ngữ thứ 2 xuất hiện ngôn ngữ tiệm 
cận gọi đơn giản là ngôn ngữ trung gian (interlanguage); đường tròn L3 
chuyển động dần trùng với đường tròn L2. Đường dịch chuyển biểu thị 
sự tiến bộ trong việc học ngoại ngữ. 
 Ngôn ngữ trung gian có tất cả các thuộc tính và các bình diện ngôn ngữ 
như âm vị học (phonology), morphology (hình thái học), ngữ nghĩa 
(semantics), cú pháp (syntax) và ngữ dụng. Phần in đậm là những lỗi 
dùng ngoại ngữ không thuộc giao thoa (lỗi do tâm lí, tuổi tác, động cơ 
học, trình độ văn hóa, môi trường học, sách giáo khoa, chương trình đào 
tạo, phương pháp truyền thụ và học tập…). 
- Viết sách, tài liệu dạy học, xây dựng từ điển  19   
 + Phân tích đối chiếu giúp dự báo những khó khăn, lỗi có thể xảy ra, 
hình thành giả thiết về lỗi giúp viết tài liệu dạy học. 
 + Nghiên cứu đối chiếu tìm những đơn vị tương đương (equivalence) 
nhằm xây dựng từ điển, từ điển điện tử. 
- Phương pháp dạy học. Các phương pháp dạy học ngoại ngữ cơ bản: 
 + Phương pháp tự nhiên/trực tiếp: học không cần phân tích cấu trúc 
ngôn ngữ; chú trọng kĩ năng nghe, nói. 
 + Phương pháp ngữ pháp dịch: chú trọng đọc, viết. 
 + Phương pháp giao tiếp. 
Nghiên cứu đối chiếu chỉ ra rằng không độc tôn dùng một phương pháp 
nào để dạy ngoại ngữ, điều đó sẽ dẫn tới lệch kĩ năng./.  20