



















Preview text:
Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
(Tổng số tiết: 10; số tiết lý thuyết: 07; số tiết thảo luận: 03)
A/ CÁC THUẬT NGỮ CHỦ YẾU
Sinh viên cần nắm được một số thuật ngữ: triết học, thế giới quan, phương pháp
luận, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, biện chứng, siêu hình. B/ NỘI DUNG BÀI
I. Giảng lý thuyết (7 tiết) 1.
Khái lược về triết học 2.
Vấn đề cơ bản của triết học 3.
Biện chứng và siêu hình 4.
Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin 5.
Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
II. Thảo luận (3 tiết) 1.
Điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác - Lênin 2.
Triết học Mác - Lênin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cáchmạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn 3.
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệpđổi mới ở Việt Nam
III. Tự học (21 tiết) 1.
Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử 2.
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết 3.
Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử 4.
Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác 5.
Giai đoạn Lênin trong sự phát triển của triết học Mác
C/ NỘI DUNG CỤ THỂ BÀI GIẢNG
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Triết học là một trong những khoa học ra đời sớm nhất, khoảng từ thế kỷ thứ VIII
đến thế kỷ thứ VI TCN ở các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại:
phương Đông: Ấn Độ và Trung Quốc; phương Tây: Hy Lạp – La Mã. Sự ra đời
của triết học gắn liền với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn
hóa và khoa học. Nguồn gốc cho sự ra đời của triết học được xem xét trên hai
phương diện cơ bản: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
* Thứ nhất: Nguồn gốc nhận thức:
- Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên và khách quan của con người. Nói
cách khác, để tồn tại và phát triển, con người buộc phải có những hiểu biết về thế
giới. Sự ra đời của triết học thời kỳ cổ đại là kết quả quá trình phát triển lâu dài
của nhận thức lý luận.
+ Huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Con người nguyên thủy từng
bước biết kết nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi logic….thành những câu
chuyện huyền thoại để giải thích các hiện tượng, cũng trên cơ sở đó mà một số
hình thức tín ngưỡng và tôn giáo sơ khai cũng được hình thành như: Tô tem giáo,
Bái vật giáo, Saman giáo.
+ Sự ra đời của triết học được xem như là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong
lịch sử thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo. Những tri thức hiểu biết riêng
lẻ của con người dần dần được phát triển và khái quát thành các tri thức lý luận.
Thời kỳ cổ đại khi các khoa học còn đang ở tình trạng sơ khai, triết học đóng vai
trò là nhận thức lý luận tổng hợp, giải quyết tất cả các vấn đề lý luận chung về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Điều đó dẫn đến quan điểm cho rằng thời cổ đại triết học
là khoa học của các khoa học.
Như vậy, nguồn gốc nhận thức của triết học chính là quá trình hình thành và phát
triển của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người.
Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức loài người đã hình thành được một
vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó tư duy con người cũng đã đạt đến trình
độ có khả năng khái quát những tri thức riêng lẻ, kinh nghiệm thành những tri thức lý luận.
* Thứ hai: Nguồn gốc xã hội:
Triết học ra đời khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã và chế độ chiếm hữu nô lệ
hình thành, lúc này nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài người
đã xuất hiện giai cấp. Sự phân công lao động xã hội dẫn đến hình thành tầng lớp
trí thức và quý tộc, giáo dục và nhà trường được hình thành và phát triển, các nhà
thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa
toàn bộ tri thức thời đại để xây dựng nên các học thuyết triết học
b) Khái niệm triết học
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn
minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật
ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết; người Trung Quốc hiểu triết học không
phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí
tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Ở ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy
Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông
thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh
đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung chủ yếu sau: -
Triết học là một hình thái ý thức xã hội. -
Khách thể khám phá của triết học là thế giới (gồm cả thế giới bên trong và
bênngoài con người) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó. -
Mục đích của triết học là khám phá những quy luật phổ biến nhất chi
phối,quyết định sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. -
Triết học là một loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa học và khác
biệtvới tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, logic và trừu tượng, bao
gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền
tảng về mọi tồn tại. -
Triết học là hạt nhân của thế giới quan.
Với sự ra đời của triết học Mác - Lênin, triết học là hệ thống quan điểm lý luận
chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức khoa
học và phương pháp nghiên cứu. Tri thức khoa học triết học mang tính khái quát
cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất thế giới như một
chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các
quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Điều
đó chỉ có thể thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử
của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học.
c) Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, của nhân thức và bản thân triết học, triết
học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Trong quá trình phát triển đó, đối tượng
của triết học cũng thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử trong các trường phái triết học khác nhau.
Đối tượng của triết học là: Các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy. -
Thời cổ đại, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao
hàmtrong nó tri thức của tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, thời kỳ này triết học được
xem là khoa học của mọi khoa học; khái niệm “nền triết học tự nhiên” dùng để
chỉ triết học thời kỳ này, bao hàm trong nó tất cả các tri thức mà con người có
được đặc biệt là các tri thức khoa học tự nhiên như toán học, vật lý học, thiên văn học…
+ Ở Trung Hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị - xã hội;
+ Ở Ấn Độ, triết học gắn liền với tôn giáo;
+ Ở Hy Lạp, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. -
Thời trung cổ ở phương Tây: (từ thế kỷ V trở đi): Đây là thời kỳ mà quyền
lựccủa Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, triết học trở thành bộ
môn của thần học (“nữ tì” của thần học). Nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền
triết học kinh viện và bị chi phối bởi tư tưởng của Kito giáo. Nhiệm vụ của triết
học khi đó là lý giải và chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong Kinh
thánh. Triết học đó gọi là triết học kinh viện. Đối tượng của triết học Kinh viện
chỉ tập trung vào các chủ đề như niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục…. -
Thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV- XVI), các khoa học trong đó có triết học
đượcgiải phóng khỏi thần học, dần phục hồi và phát triển. Cùng với sự hình thành
và củng cố của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, các khoa học tự nhiên cũng đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Triết học tạo điều kiện cho sự ra đời của các khoa
học nhưng sự phát triển của các khoa học chuyên ngành cũng từng bước phá sản
vai trò của triết học tự nhiên cũ với tham vọng là khoa học của các khoa học. -
Thế kỷ XVII-XVIII, khi cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Tây Âu, khi
khoahọc tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và đạt được nhiều thành
tựu nhất là cơ học của Niutơn. Triết học duy vật phát triển mạnh mẽ trong cuộc
đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thế
kỷ XVII- XVIII là chủ nghĩa duy vật Anh, Pháp, Hà Lan với các đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ
(Anh), Điđrô, Henvêtiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)… Vào thời kỳ này mặc dù
khoa học tự nhiên đã hình thành các bộ môn khoa học độc lập, nhưng triết học
vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chưa xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình. -
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà Anh, Pháp đã là nước tư
bản,thì nước Đức còn là một nước phong kiến, giai cấp tư sản đang hình thành.
Trước ảnh hưởng của Anh, Pháp và yêu cầu phát triển của giai cấp tư sản Đức,
triết học Đức đã phát triển mạnh mẽ nhưng trên lập trường duy tâm, đỉnh cao là
triết học Hêghen. Triết học Hêghen là hệ thống triết học cuối cùng xem triết học
là “khoa học của các khoa học”. -
Triết học Mác đầu thế kỷ XIX do hai nhà triết học người Đức là C.Mác
vàPh.Ăngghen sáng lập đã xác định đối tượng nghiên cứu là: tiếp tục giải quyết
mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Các nhà triết học Mácxít sau này đánh giá, với C.Mác, lần đầu tiên trong lịch
sử, đối tượng của triết học được xác lập một cách hợp lý.
Hiện nay, nhiều trường phái triết học hiện đại ra đời và phát triển đặc biệt ở phương
Tây, nhiều học thuyết triết học muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học và
xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình. Mặc dù vậy, cái chung trong các
học thuyết triết học là nghiên cứu các vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
d) Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan *
Thế giới quan là gì: Là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan
điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong
định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, thế giới quan là hệ thống những quan điểm chỉ dẫn cho tư duy và hành
động, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng để hành động, không
có căn cứ để xác định và thẩm định các giá trị. *
Thế giới quan được hình thành như thế nào?
Trong quá trình nhận thức về thế giới và về bản thân mình, con người gặp phải
một loạt các vấn đề cần giải đáp: Thế giới là gì và ai sinh ra nó, thế giới có tồn
tại thật không, thế giới có ích gì cho con người? Con người là gì và ai sinh ra
con người, con người có vị trí, vai trò như thế nào trong thế giới, cuộc sống của
con người có ý nghĩa gì không.... Trả lời cho những vấn đề nêu trên sẽ hình
thành ở con người những quan niệm về thế giới, về con người, vai trò của con
người trong thế giới. Đó chính là thế giới quan.
Trong quá trình sinh sống và nhận thức của con người; đến lượt mình, thế giới
quan lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức
thế giới xung quanh, cũng như nhận thức bản thân mình, nhất là từ đó con người
xác định thái độ, cách tức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng
đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực, tiến bộ. *
Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ: 1) Các đối tượng
bên ngoài chủ thể; 2) Bản thân chủ thể; 3) Mối quan hệ giữa chủ thể với các đối
tượng bên ngoài chủ thể.
Ba góc độ này vừa thể hiện ý thức con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức của
con người về bản thân mình. *
Về hình thức: Thế giới quan có thể biểu hiện dưới dạng quan điểm, quan
niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ. *
Cấu trúc thế giới quan: Thành phần chủ yếu của thế giới quan là: Tri thức,
niềm tin và lý tưởng. Trong đó, tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan,
nhưng tri thức chỉ ra nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong
thực tiễn và trở thành niềm tin; lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. *
Các loại thế giới quan: Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới
quan. Nếu xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại
hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. -
Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người
nguyên thủy. ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng,
hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con
người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. -
Thế giới quan tôn giáo: Là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó xuất
phát trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn thấp kém,
khi con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của tự nhiên (sấm
sét, bão lụt, động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí” của xã hội (bệnh
tật, nỗi khổ cực, áp bức, thống trị…), là niềm tin, tín ngưỡng vào một đấng siêu
nhiên cụ thể được giải thích bởi một hệ thống giáo lý và một tổ chức chặt chẽ có
tính bền vững. Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ
yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người. -
Thế giới quan triết học: Diễn tả quan niệm của con người bằng các phạm
trù, quy luật theo một hệ thống chặt chẽ, nó định hướng cho con người trong quá
trình hoạt động và suy nghĩ. Nó không chỉ trình bày các quan điểm của mình, mà
còn luận chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở khoa học nhất định.
Như vậy, khác với huyền thoại và giáo lý của tôn giáo, triết học diễn tả quan niệm
của con người dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những
bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa như vậy, triết học được
coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan.
Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của
con người; trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết
học, với phương thức tư duy đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những
quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một chỉnh thể. Như vậy, triết học
là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học giữ vai trò định hướng cho quá
trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan:
Tại sao nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan? Bởi vì: -
Thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan. -
Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học
cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại, triết học bao giờ cũng là
thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. -
Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay
thế giới quan thông thường triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể không tự giác. -
Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và
các quan niệm khác như thế.
* Vai trò của thế giới quan: Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
cuộc sống của con người và xã hội loài người. Bởi vì: -
Thứ nhất, những vấn đề triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những
vấn đề thuộc về thế giới quan. -
Thứ hai, thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương
thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực trong khám phá và chinh phục thế
giới. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng
thành của mỗi các nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
+ Thế giới quan tôn giáo cũng là thế giới quan chung nhất, có ý nghĩa phổ biến
đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng do bản chất là đặt
niềm tin vào các tín điều, coi tín ngưỡng cao hơn lý trí, phủ nhận tính khách quan
của tri thức khoa học, nên không được ứng dụng trong khoa học và thường dẫn
đến sai lầm, tiêu cực trong hoạt động thực tiễn. Thế giới quan tôn giáo phù hợp
hơn với những trường hợp con người giải thích sự thất bại của mình.
+ Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của
triết học. Thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế
giới quan đã từng có trong lịch sử. Vì thế giới quan này đòi hỏi thế giới phải được
xem xét dựa trên những nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển. Từ đây, thế giới và con người được nhân thức và theo quan điểm toàn
diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm tri
thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
+ Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế
giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế
giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho
quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như một
“thấu kính”, qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem
xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa
chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan
đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của
thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như
của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Trong đời sống xã hội, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng, điều chỉnh cho
tư tưởng, niềm tin và hoạt động của con người, mà thiếu chúng thì hoạt động của
con người trở nên tự phát, mù quáng và dẫn đến thất bại.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a) Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên
quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát
để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. *
Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử triết
học, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại”1. *
Tại sao vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý
thứcđược gọi là vấn đề cơ bản của triết học? Bởi vì: -
Là vấn đề mà không hệ thống triết học nào lại không phải giải đáp nó.
Việcgiải đáp vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết
các vấn đề khác của triết học. -
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là căn cứ quy định nhất quán về
mặtlập trường triết học của các trường phái triết học khác nhau, nên nó là tiêu
chuẩn quan trọng nhất để phân biệt các hệ thống, các trường phái triết học CNDV, CNDT. -
Mọi trường phái triết học đều nghiên cứu vấn đề này, không thể bỏ qua
mốiquan hệ giữa vật chất và ý thức. Đó là mối quan hệ chung nhất, làm cơ sở cho
mối quan hệ khác của triết học. Nếu không nghiên cứu vấn đề cơ bản này, thì triết
học cũng không có đối tượng nghiên cứu và do đó triết học cũng không thể tồn tại.
Như vậy, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng
và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ.
* Nội dung vấn đề cơ bản của triết học: Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt.
Mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn. -
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? -
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan hay không?
b) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.403.
- Chủ nghĩa duy vật: Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước
và quyết định ý thức.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của
vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận
của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn
chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật,
thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào
thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được nhiều thành tự
rực rỡ khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa
duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ
phận tạo nên. Nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh
đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ
vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển
tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật,
do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học
trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa
duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao
trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không
chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ
hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
- Chủ nghĩa duy tâm: những người cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự
nhiên được gọi là các nhà duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá
nhân, của chủ thể. Tiêu biểu là Béccơli (1684-1753), Hium (1711-1766), Phích tơ, Makhơ.
Ví dụ: Béccơli (nhà triết học duy vật Anh) cho rằng, vật thể trong thế giới quanh
ta là sự phức hợp của cảm giác.
Cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó
có hình thôi, màu sắc, hương vị của quả cũng do cảm giác của con người nhận
biết chúng không tồn tại thật. Theo ông, mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà
người ta cảm biết được chúng. Tồn tại nghĩa là được cảm biết.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
theo họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con
người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau
như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..
Tiêu biểu là Platôn (427-347 Tr.CN) và Hêghen (1770-1831).
Ví dụ: Hêghen cho rằng, "ý niệm tuyệt đối" là một thực thể tinh thần tồn tại trước
giới tự nhiên, ý niệm tuyệt đối trong sự vận động biện chứng đạt tới sự đầy đủ
ngay từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Sự phát triển biện chứng của ý niệm
tuyệt đối khi đạt tới sự đầy đủ thì tha hoá thành giới tự nhiên.
Platôn cho rằng, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực vĩnh viễn, tuyệt
đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. Thế giới của sự vật
cảm tính là tồn tại không chân thật phụ thuộc vào thế giới ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Như vậy: Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước và về sự có
trước, nhưng cả CNDTKQ, CNDTCQ đều thống nhất với nhau ở chỗ: coi ý thức,
tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra vật chất và quyết định vật chất. Về
phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách
xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó
của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.
Chú ý: chủ nghĩa duy tâm là lý luận sai lầm, nó gần gũi với tôn giáo. Vì vậy,
trong lịch sử tôn giáo thường sử dụng thế giới quan duy tâm làm cơ sở lý luận
cho mình. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy tâm không đồng nhất với tôn giáo. Ở đây,
có sự khác nhau về chất giữa chúng.
Nếu tôn giáo dựa vào lòng tin vào sự tồn tại và sức mạnh của đấng siêu nhiên
(lòng tin giữ vai trò chủ đạo thay cho tri thức), thì triết học duy tâm lại dựa vào tri
thức, vào lý trí và là sản phẩm của lý tính con người được thể hiện dưới dạng hệ
thống các khái niệm, phạm trù lý luận. Điều này giải thích vì sao có học thuyết
triết học duy tâm lại có những đóng góp quan trọng vào việc rèn luyện tư duy,
phát triển tư tưởng triết học của nhân loại (như trường hợp lý luận phép biện chứng của Hêghen).
- Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:
+ Nguồn gốc nhận thức: Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem
xét phiến diện, sự tuyệt đối hoá một mặt, một giai đoạn nào đó của quá trình nhận
thức mang tính biện chứng của con người. Tách nhận thức, ý thức ra khỏi thế giới
khách quan, thần thánh hoá nó. V.I.Lênin viết: “Theo quan điểm của một chủ nghĩa
duy vật thô lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự
ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì chủ nghĩa
duy tâm triết học là một sự phát triển (thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá, ...
của một trong những đặc trưng, của một trong những mạt, của một trong những
khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới
tự nhiên, thần thánh hoá nó”2.
Mọi người đều nhận thức rằng, thông qua hoạt động thực tiễn, con người với tư
duy, ý thức của mình sáng tạo ra cả một thế giới sự vật "thiên nhiên thứ hai", tức
là đời sống xã hội. Vai trò tăng lên của tư duy, ý thức con người được thể hiện và
ngày càng thể hiện rõ trong cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Những
thành tựu trong lĩnh vực khoa học sinh học, tin học... đã và đang làm thay đổi căn
bản cuộc sống của con người và diện mạo của thế giới. Song từ đó mà cho rằng,
tư duy, ý htức, tri thức khoa học sáng tạo ra thế giới, quyết định vận mệnh của thế
giới thì sẽ rơi vào sai lầm tai hại của chủ nghĩa duy tâm.
+ Nguồn gốc xã hội: Tách rời lao động trí óc với lao động chân tay trong các xã
hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tư tưởng, tinh thần.
Ngoài ra, các giai cấp thống trị, các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ
ủng hộ những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, lấy nó làm nền tảng lý
luận cho những quan điểm chính trị - xã hội nhằm duy trì địa vị thống trị của mình.
2 V.I.Lênin (1981), toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tr,385.
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận chỉ một trong hai thực
thể hoặc vật chất hoặc ý thức có trước nên đều gọi là nhất nguyên luận. Bên cạnh
đó, trong lịch sử triết học còn có một số trường phái khi xem xét vấn đề cơ bản
của triết học đã thừa nhận cả hai yếu tố là vật chất và ý thức là nguồn gốc của thế
giới, các trường phái này gọi là nhị nguyên luận.
Ví dụ: Đêcáctơ (1596-1654) đã thừa nhận hai nguyên thể vật chất và tinh thần tuy
tồn tại độc lập nhưng đều phục tùng một nguyên thể thứ ba đó là Thần linh.
c) Thuyết có thể biết (Thuyết khả tri) và thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri)
Việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học cũng chia các nhà triết
học thành nhiều phái khác nhau: -
Những nhà triết học nào công nhân khả năng nhận thức thế giới của
conngười thì thuộc về phái “có thể biết”; -
Những nhà triết học nào phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con
ngườithì thuộc về phái “không thể biết”; -
Những nhà triết học nào nghi ngờ khả năng nhận thức thế giới của con
ngườicũng như nghi ngờ sự tồn tại của bản thân sự vật thì thuộc về phái “hoài
nghi luận”. Ví dụ: Hium (Anh) đã quả quyết rằng, chúng ta chẳng những không
thể biết được sự vật là như thế nào, mà còn không thể biết được ngay cả sự vật có
tồn tại thật hay không”3.
3. Biện chứng và siêu hình
a) Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử
Các khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong lịch sử triết học được dùng theo
một số nghĩa khác nhau. Còn trong triết học hiện đại, đặc biệt là triết học mácxít,
chúng được dùng, trước hết để chỉ hai phương pháp chung nhất đối lập nhau của triết học. -
Phương pháp siêu hình là gì? Là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể
khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự
biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. -
Phương pháp siêu hình có cội nguồn hợp lý của nó từ trong khoa học cổ
điển.Muốn nhận thức bất kỳ một đối tượng nào, trước hết con người cũng phải
3 Xem, Từ điển Triết học (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.392.
tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không
biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.. Phương pháp này chỉ có tác
dụng trong một phạm vi nhất định bởi vì thế giới khách quan, trong bản chất của
nó, không rời rạc và không ngưng đọng như phương pháp tư duy này quan niệm. -
Phương pháp siêu hình khi giải quyết sang các vấn đề vận động, về liên hệ
thìlàm cho nhận thức rơi vào phương pháp luận siêu hình. Như Ph.Ăngghen chỉ
rõ, phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn
thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những
sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”. -
Phương pháp biện chứng là gì? Là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh
hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện
tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải
quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa
nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là... hoặc là...” còn
có cả cái “vừa là... vừa là...” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại
vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau
lại vừa gắn bó với nhau2. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như
nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu
giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
b) Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba
giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó:
phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn
phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến
hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện
chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Ví dụ: Hêracơlít đã tiên đoán sự vận động và phát triển của thế giới khách quan
giống như dòng chảy của một con sông và đi đến kết luận: không bao giờ người
ta tắm được hai lần trên cùng một dòng sông.
+ Phép biện chứng duy tâm: Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết
học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen. Có thể
nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học
Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của
phương pháp biện chứng. Song theo họ, biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và
kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng
của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. Chẳng hạn, Hêghen cho
rằng: giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là sự tồn tại khác của "ý niệm", do sự
tha hoá của ý niệm mà thành. Ý niệm nằm trong quá trình vận động, phát triển
không ngừng. Việc nghiên cứu tính biện chứng của ý niệm đã dẫn Hêghen đến
chỗ đưa ra một hệ thống các khái niệm, các phạm trù và các quy luật cơ bản của
phép biện chứng. Đây thực sự là công lao to lớn của Hêghen. V.I.Lênin đã cho
rằng: "Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những
hiện tượng, của thế giới, của tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm" 4 .
Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của C.Mác: “Tính chất thần bí mà phép
biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái
vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược
xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở
đằng sau cái vỏ thần bí của nó”5.
+ Phép biện chứng duy vật: Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học
do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học
thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết rằng: “Phép
biện chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”6. Hơn nữa, triết học
4 V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.209.
5 C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.494. 6 C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.201.
Mác còn tạo nên được sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng
làm cho phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật
trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC -
LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
a) Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác * Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội. -
Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điềukiện cách mạng công nghiệp.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển
rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
ở Anh, Pháp và Đức. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình
thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1.
Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ
trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn
của nó so với phương thức sản xuất phong kiến. Mặt khác, sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày
càng rõ rệt, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. -
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực
lượngchính trị - xã hội độc lập.
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến.
Giai cấp vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ
phong kiến. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành
giai cấp thống trị xã hội và giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô
sản với tư sản vốn mang tính chất đối kháng càng phát triển, trở thành những cuộc
đấu tranh giai cấp. Hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra. Tiêu
biểu như: khỏi nghĩa của công nhân dệt Lyon (Pháp) năm 1831, 1834, phong trào
Hiến chương ở Anh từ 1835 đến 1848; cuộc khởi nghĩa của công nhân Siledi (Đức) năm 1844....
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách
mạng, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ có sứ mệnh là “kẻ
phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh
cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội. *
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đờitriết học Mác.
Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý
luận tiến bộ và cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng
của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ
tính cách mạng và tính khoa học trong bản chất của mình; nhờ đó, nó có khả năng
giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt ra. Lý luận như vậy đã được
sáng tạo nên bởi C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở lý
luận chung: Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là
vũ khí tinh thần của mình”. *
Thứ hai, nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên.
- Nguồn gốc lý luận: C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch
sử tư tưởng của nhân loại.
+ Triết học: Kế thừa trực tiếp triết học cổ điển Đức, đặc biệt với những “hạt nhân
hợp lý” trong triết học của hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc.
C.Mác kế thừa và cải tạo “hạt nhân hợp lý” là phép biện chứng trong triết học Hê
ghen bằng cách lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện
chứng - phép biện chứng duy vật. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen, C.Mác đã dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực
tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa
duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó.
Từ đó C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
+ Kinh tế chính trị: Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại
biểu xuất sắc là A.Xmit và Đ.Ricacđô không những làm nguồn gốc để xây dựng
học thuyết kinh tế mà còn là nhân tố không thể thiếu được trong sự hình thành và
phát triển triết học Mác.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: Với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và Sáclơ Phuriê là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
- Khoa học tự nhiên: Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát
triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng, trong đó phải đặc biệt kể đến: Thuyết
tiến hóa, Thuyết tế bào và Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng….
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Phát minh này có ý nghĩa to lớn
đối với những luận chứng của Mác-Ănghen về phép biện chứng duy vật, nó chứng
minh mối liên hệ và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức vận động của vật
chất. Chứng tỏ các hình thức vận động của vật chất không tách rời nhau. Trong
những điều kiện nhất định chúng chuyển hoá lẫn nhau. Nó là cơ sở khoa học của
quan niệm biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới.
+ Thuyết tế bào: Chứng tỏ rằng các tế bảo thực vật và động vật đều được sinh ra
và lớn lên bằng cách sinh sôi, biến hoá và đổi mới không ngừng của các tế bào,
nó là cơ sở khoa học của quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất của
sự sống với những biểu hiện phong phú, đa dạng của nó.
+ Thuyết tiến hóa của Đácuyn, đã chứng minh quá trình vận động, biến đổi từ thấp
đến cao của động vật và thực vật, thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân
tạo. Đây là cơ sở để khẳng định nguồn gốc duy vật về sự hình thành và phát triển
của sự sống, bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo về vấn đề thượng
đế sáng tạo ra thế giới và con người.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất
lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới. Phương pháp
tư duy siêu hình nổi bật ở thế kỷ XVII và XVIII đã trở thành một trở ngại lớn cho
sự phát triển khoa học. Mặt khác, với những phát minh của mình, khoa học đã
cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự
phát của phép biện chứng cổ đại, đồng thời, thoát khỏi vỏ thần bí của phép biện
chứng duy tâm. Tư duy biện chứng ở triết học cổ đại, như nhận định của
Ph.Ăngghen, tuy mới chỉ là “một trực kiến thiên tài”; nay đã là kết quả của một
công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên tri thức khoa học tự nhiên hồi đó…
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất
vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của
nó. Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa học tự nhiên thời ấy,
Ph.Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những
nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến
thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì
đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều
vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”.
- Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác: Triết học Mác không chỉ là
kết quả của sự vận động và phát triển có tính quy luật của các nhân tố khách quan
mà còn được hình thành thông qua vai trò của nhân tố chủ quan. Thiên tài và hoạt
động thực tiễn cách mạng không biết mệt mỏi của C.Mác và Ph.Ăngghen, lập
trường giai cấp công nhân và tình cảm đặc biệt đối với nhân dân lao động, hòa
quyện với tình bạn vĩ đại của hai nhà cách mạng đã kết tinh thành nhân tố chủ
quan cho sự ra đời của triết học Mác.
b) Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển triết học Mác -
Giai đoạn từ năm 1842 đến 1843: Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bước
đầu chuyển biến tư tưởng từ dân chủ cách mạng sang cộng sản chủ nghĩa; từ thế
giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật (thời kỳ C.Mác làm ở báo Sông
Ranh, Ph.Ăngghen ở Anh nghiên cứu kinh tế chính trị học). -
Giai đoạn từ năm 1844 - 1848: Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Từ tháng 4/1843 - đầu năm 1844: Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển
biến dứt khoát sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản (thể
hiện ở các tác phẩm của C.Mác: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen - Lời nói đầu; Vấn đề Do Thái; Ph.Ăngghen với Tình cảnh nước Anh;
Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị).
+ Đầu năm 1844 - đầu năm 1846: Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bước đầu đề
xuất những nguyên lý của mình. Thể hiện trong các tác phẩm: "Bản thảo kinh tế -
triết học năm 1844", "Gia đình thần thành (1845), "Hệ tư tưởng Đức" (1845- 1846).
+ Đầu năm 1846 - 2/1848: Giai đoạn hình thành hệ thống chủ nghĩa Mác với ba
bộ phận cấu thành: triết học duy vật biện chứng; chủ nghĩa xã hội khoa học và
kinh tế chính trị học. Thể hiện trong tác phẩm: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848). -
Giai đoạn từ năm 1849 đến 1895
+ Thực chất giai đoạn này: C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển và
hoàn thiện các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử và cũng bổ sung, phát triển những nguyên lý kinh tế chính trị học.
+ Các tác phẩm chủ yếu: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày mười tám tháng
Sương mù của Lui Bônapactơ”, “Nội chiến ở Pháp”, “Phê phán cương lĩnh
Gôta”, “Tư bản” “Phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Chống Đuy rinh”, “Biện
chứng của tự nhiên”, “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước”, “Lút
vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”.
+ C.Mác và Ph.Ăngghen luôn thông qua tổng kết kinh nghiệm phong trào công
nhân và khái quát những thành tựu của khoa học đương thời để bổ sung, phát triển lý luận của mình.
c) Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực thiện
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển triết học của nhân loại. -
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của
chủnghĩa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng
duy tâm, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. -
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch
sử xãhội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - đây được xem là nội dung chủ
yếu nhất của bước ngoặt cách mạng trong triết học. -
Hai ông đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học dựa trên cơ sở khám
phábản chất, vai trò của thực tiễn, luôn gắn bó hữu cơ quá trình phát triển lý luận
với thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động. Thống nhất lý luận và thực tiễn là động lực chính để hai
ông sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học đồng thời trở thành một nguyên
tắc, một đặc tính mới của triết học duy vật biện chứng. -
Sự ra đời của triết học Mác làm cho vai trò xã hội của triết học cũng như vị
trícủa nó trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại cũng có sự biến đổi căn
bản. Triết học không chỉ giải thích thể giới mà còn trở thành công cụ nhận thức
khoa học để cải tạo thế giới. -
Lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã công khai tính
giaicấp của triết học, biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp
vô sản. Ở triết học Mác, tính đảng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau. -
Triết học Mác cũng chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn biến
triếthọc thành khoa học của mọi khoa học, xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa
triết học với khoa học cụ thể. Trên thực tế, các ông đã xây dựng lý luận triết học
của mình trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học đồng thời triết học của các