



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58797173
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ WTO MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG 1
Cung cấp cho học viên những quy định chung về Quá trình hình thành và phát
triển của WTO, Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của WTO, Chức năng của WTO,
Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của WTO, Cơ cấu tổ chức của WTO, Hệ thống
văn kiện pháp lý của WTO, Đàm phán gia nhập WTO.
1.1. Khái quát về WTO
Vào thời điểm sắp kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, các quốc gia chủ
chốt trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm thiết lập những định chế đa phương để
giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như duy trì hòa bình thế giới và giải trừ
quân bị, hỗ trợ công cuộc tái thiết và phát triển, thúc đẩy thương mại quốc tế….
Vào tháng 12 năm 1945 đã có 15 nước bắt đầu bản thảo về giảm thuế quan và
đặt ràng buộc thuế quan. Đã có hơn 50 nước tham gia đàm phán về việc thành lập
tổ chức thương mại quốc tế (ITO). ITO dự kiến hoạt động với tư cách là một cơ
quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên Hiến chương Havana đã không
được nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ thông qua. Do vậy ITO đã không được hình
thành với tư cách là một tổ chức Thương mại thế giới.
Bên cạnh việc đàm phán thành lập ITO, 23 nước đã tiến hành đàm phán về thương
mại quốc tế và vào ngày 30/10/1947 đã đi đến ký Hiệp định chung về Thuế quan
thương mại ((General Agreement on Trade in Service- GATT). GATT bao gồm một
bộ quy tắc về thương mại và thỏa thuận cắt giảm 45.000 dòng thuế. GATT chinh
thức có hiệu lực từ 1/1/1948 với việc 8 trong số 23 bên ký kết trong Nghị định thư
về việc tạm thời thực hiện GATT đã đồng ý tạm thời thực hiện Hiệp định GATT.
Các bên ký kết khác sau đó cũng đã sớm cam kết thực hiện Hiệp dịnh GATT. Tuy
không phải là một tổ chức quốc tế về thương mại nhưng GATT là một
Hiệp định được soạn thảo và dự định sẽ vận hành trong khuôn khổ của ITO nếu ITO
ra đời và đi vào hoạt động. Mặc dù cuối cùng không đạt được dự kiến ban đầu đó
nhưng ký kết GATT đã dẫn đến sự ra đời của hệ thống thương mại đa phương và
tạo ra quy tắc cho hệ thống thương mại đa phương đó. Các quy tắc đó tiếp tục được
hoàn thiện và phát triển qua 8 vòng đàm phân của GATT
Suốt 47 năm tồn tại của mình GATT đã có vai trò quản trị hệ thống thương mại
đa phương và có những đóng góp lớn cho sự tăng trưởng tột bậc của thương mại
quốc tế. Vai trò quản trị thương mại toàn cầu của GATT được thực hiện thông qua
hai chức năng cơ bản. Thứ nhất với tính chất là một Hiệp định quốc tế, GATT quy
định các nghĩa vụ chung buộc các bên ký kết phải tính đến trong quá trình hoạch
định chính sách thương mại của minh. Ngoài ra với việc thực thi các nghĩa vụ và
quy tắc được quy định trong GATT cũng như trong các văn kiện sau này đạt được lOMoAR cPSD| 58797173
thông qua các vòng đàm phán, các bên ký kết trên thực tế đã chịu sự điều phối chung
của GATT. Thứ hai, GATT đã tạo ra một diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại đa phương.
Tổng cộng GATT có 8 vòng đàm phán. Các vòng đàm phán ban đầu chủ yếu
là về cắt giảm thuế quan. Vòng đàm phán Urugoay bắt đầu từ năm 1986-1994 kéo
dài 8 năm và được coi là vòng đàm phán thương mại lớn nhất trong lịch sử nhân
loại. Quá trình đàm phán diễn ra không hề suôn sẻ, nhiều khi tưởng đổ vỡ nhưng
cuối cùng đã đi đến thành công. Chương trình nghị sự lúc đầu gồm 15 vấn đề được
đưa ra đàm phán gồm: thuế quan, các rào cản phi thuế quan, tài nguyên thiên nhiên,
dệt may nông nghiệp, sản phẩm nhiệt đới, các điều khoản của GAT, các văn kiện
của vòng đàm phán Tokyo, chống bán phá giá, trợ cấp, sở hữu trí tuệ, các biện pháp
đầu tư, giải quyết tranh chấp, hệ thống GATT và dịch vụ. Trong quá trình đàm phán,
nội dung đàm phán đã được mở rộng ra hầu hết tất cả những vấn đề liên quan đến
thương mại. Đàm phán đã đi đến ký kết một bộ văn kiện toàn diện về thương mại
quốc tế với nội dung thương mại được mở rộng sang cả lĩnh vực dịch vụ và sở hữu
trí tuệ. Vòng đàm phán này cũng đã đạt được sự thành công về cải cách thể chế
thông qua việc thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Hiến chương của WTO, Hiệp định Marrakesh đã được ký kết vào ngày 15/4/1994.
WTO chính thức được khai sinh vào ngày 1/1/1995 đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng chính của WTO Mục tiêu của WTO
Được nêu ra ở lời nói đầu của Hiệp định Marrakesh bao gồm:
- Phát triển sản xuất và thương mại
- Nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên. Tạo công ăn việc làm,
góp phần tăng thu nhập thực tế cũng như nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư
- Mở rộng sản xuất thương mại hàng hóa và dịch vụ
- Sử dụng có hiệu quả nguồn lực của thế giới gắn liền với việc bảo đảm sự phát
triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường
- Xây dựng một cơ chế thương mại đa phương chặt chẽ, ổn định và khả thi
- Thực thi các mục tiêu đó theo cách thức phù hợp với nhu cầu cũng như mối quan
tâm của các thành viên có trình độ phát triển khác nhau đặc biệt là nỗ lực tích
cực để đảm bảo rằng các thành viên đang và kém phát triển duy trì được tỉ phần
tăng trưởng trong thương mại quốc tế. lOMoAR cPSD| 58797173 Nhiệm vụ của WTO
Được quy định trong Điều 2 Hiệp định Marrakesh, WTO có nhiệm vụ đưa ra khung
thể chế chung nhằm điều chỉnh các quan hệ thương mại giữa các nước thành viên
thông qua các Hiệp định và các công cụ pháp lý có liên quan. Hầu hết các HĐ của
WTO là kết quả của vòng đàm phán Uruguay (1986-1994), được ký kết tại Hội nghị
Bộ trưởng Marrakesh vào tháng 4 năm 1994. Có khoảng 60 HĐ và quyết định được
ký kết tại Hội nghị này
WTO có 2 nhóm Hiệp định chính là Hiệp định đa phương và các Hiệp định nhiều
bên. Hiệp định đa phương là những HĐ mà mọi thành viên của WTO phải có nghĩa
vụ thi hành và không có ngoại lệ. Hiệp định nhiều bên là những HĐ chỉ ràng buộc
pháp lý đối với những thanh viên tham gia ký kết và hoàn toàn không ràng buộc bất
cứ nghĩa vụ nào đối với những thành viên không tham gia ký kết.
Các Hiệp định về đa phương của WTO gồm:
1. Hiệp định về Thuế quan và thương mại 1994 (GATT)
2. Hiệp định Nông nghiệp
3. Hiệp định về việc áp dụng các biện vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật
4. Hiệp định về Hàng dệt và may mặc
5. Hiệp định về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại
6. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
7. Hiệp định về việc thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và
thương mại 1994 (Hiệp định chống bán phá giá)
8. Hiệp định về việc thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về Thuế quan và
thương mại 1994 (Hiệp định xác định trị giá Hải quan)
9. Hiệp định về Giám đinh trước khi gửi hàng
10. Hiệp định về quy tắc xuất xứ
11. Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu
12. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
13. Hiệp định về các biện pháp tự vệ
Phụ lục 1B. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và các phụ lục Phụ
lục 1C. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) lOMoAR cPSD| 58797173
Phụ lục 2. Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
Phụ lục 3. Cơ chế rà soát chính sách thương mại Các hiệp
định nhiều bên của WTO gồm:
1. Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng
2. Hiệp định về mua sắm Chính phủ
3. Hiệp định quốc tế về sản phẩm từ sữa (hết HL 1997)
4. Hiệp định quốc tế về thịt bò (hết HL 1997) Chức năng của WTO
- Quản lý, điều hành việc thực thi HĐ Marrakesh cũng như các HĐ thương mại
đa phương, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý và thực thi các
HĐ thương mại nhiều bên.
- Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các thành viên về các mối quan hệ thương mại
đa phương, tạo ra các khuôn khổ chung cho việc thực hiện các kết quả đàm phán đã đạt được
- Điều hành Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
- Điều hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác đặc biệt là với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
ngân hàng thế giới (WB) nhằm đạt tới sự phối hợp tốt hơn trong việc hoạch định
chính sách kinh tế toàn cầu.
1.4. Cơ cấu tổ chức của WTO -
Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO. Gồm đại diện của tất
cả các thành viên, họp ít nhất 2 năm 1 lần. là cơ quan có quyền đưa ra quyết định cao nhất
của WTO. Hội nghị Bộ trưởng thực thi các chức năng của WTO, đưa ra những quyết định
mang tính chiến lược và quan trọng nhất như những quyết định liên quan đến mọi vấn đề
trong các HĐ thương mại đa phương, kết nạp thành viên mới… Hội nghị Bộ trưởng thành
lập các UB chuyên trách của mình như UB về thương mại và phát triển, UB về các hạn chế
đối với cán cân thanh toán, UB về ngân sách, tài chính và quản trị…. -
Đại hội đồng là CQ chấp hành của WTO. Gồm đại diện của tất cả các thành viên và
được nhóm họp ở các thời điểm cần thiết. Đại hội đồng được thực hiện các chức năng của
WTO giữa 2 kỳ Hội nghị Bộ trưởng và thực hiện các chức năng khác được HĐ WTO giao
phó. Đại hội đồng còn có quyền hạn đưa ra và thông qua các quy tắc liên quan đến hoạt
động của các UB chuyên trách của WTO. Đại hội đồng cũng có thể kiêm chức năng là cơ
quan giải quyết tranh chấp và cơ quan rà soát chính sách thương mại. ĐH đồng cũng có lOMoAR cPSD| 58797173
quyền kết nạp thành viên mới như trường hợp cuộc họp của Đại hội đồng kết nạp Việt Nam
trở thành thành viên của WTO vào ngày 7/11/2006. -
Các Uỷ ban, Hội đồng chuyên trách: Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng
thương mại dịch vụ, Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ. Các Hội đồng này có trách nhiệm báo cáo lên Đại hội đồng. ngoài ra còn có rất
nhiều Uỷ ban chuyên trách và các nhóm công tác khác nhau. Các Ủy ban chuyên trách và
các nhóm công tác khác nhau trực thuộc các Hội đồng như UB chống bán phá giá, UB về
môi trường. UB trợ cấp và các biện pháp đối kháng…. nhóm công tác về mở cửa thị trường…. -
Ban thư ký: mặc dù không phải là cơ quan ra quyết định mà đơn thuần chỉ là cơ
quan hành chính nhưng Ban thư ký có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban
thư ký là cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các thành viên đang phát triển, theo dõi và phân
tích tình hình phát triển của thương mại thế giới và là phát ngôn viên của WTO trước báo
chí và công chúng và tổ chức các Hội nghị Bộ trưởng. Đứng đầu Ban thư ký là Tổng giám
đốc do Đại hội đồng chỉ định.
1.5. NGUYÊN TẮC CỦA WTO:
1.5.1. Không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử thể hiện qua hai chế độ: chế độ đối xử tối huệ
quốc và chế độ đối xử quốc gia
Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) là dành sự đối xử như nhau cho mọi đối tác. Nói cách
khác nếu một thành viên dành ưu đãi cho một thành viên khác ví dụ áp dụng mức thuế thấp
cho một sản phẩm nhập khẩu nào đó hay dành cho một sự miễn trừ nào đó, thì ngay lập
tức và không điều kiện các thành viên khác cũng sẽ được hưởng sự ưu đãi đó. Đây là
nguyên tắc bao trùm mọi HĐ của WTO, đặc biệt nó được ghi thành điều khoản trong khoản
1 Điều 1 GATT 1947, khoản 1 điều 2 GATS và khoản 1 điều 4 TRIPS.
“Bất kỳ một sự ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hay miễn trừ mà một bên ký kết dành cho bất kỳ
sản phẩm nào có xuất xứ từ hoặc được giao đến bất kỳ nước nào khác thì ngay lập tức và
không điều kiện phải được dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hoặc được giao đến
lãnh thổ cả tất cả các bên ký kết khác”(khoản 1 Điều 1 GATT 1994)
“Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, mỗi thành viên
phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất
kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hownswj đãi ngộ mà thành viên đó
dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”( khoản 1 điều 2 GATS ) lOMoAR cPSD| 58797173
“đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc
miễn trừ nào được một thành viên dành cho công dân của bất kỳ một nước nào khác cũng
phải được ngay lập tức và không điều kiện dành cho công dân của tất cả các nước thành
viên khác” (khoản 1 điều 4 TRIPS).
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) là phải có sự đối xử bình đẳng giữa trong nước và
nước ngoài. Giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu, giữa dịch vụ do
các nhà cung ứng dịch vụ trong nước cung cấp và các dịch vụ do các công ty nước ngoài
cung cấp, giữa công dân hay công ty trong nước với công dân hay công ty nước ngoài, giữa
bản quyền tác phẩm của các tác giả trong nước và của các tác giả nước ngoài. Tuy nhiên
CP một nước chỉ có nghĩa vụ thực thi đối xử quốc gia khi một sản phẩm, dịch vụ hay một
thực thể sở hữu trí tuệ nước ngoài thực sự gia nhập thị trường nước đó. Cũng giống như
đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia là một nguyên tắc bao trùm các HĐ của WTO. Nguyên
tắc này được ghi tại Điều 3 của GATT, Điều 17 của GATS, điều 3 của TRIPS.
Khác với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc điều chỉnh các biện pháp hạn chế mở cửa thị
trường, nguyên tắc đối xử quốc gia tiến tới tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng
giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Bởi vậy, đối xử quốc gia liên quan trực
tiếp tới chính sách, pháp luật của Chính phủ như chính sách về thuế , chính sách liên quan
đến việc tiếp cận và sử dụng nguồn lực trong nước, quy chế đấu thầu….
Thực tế trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã có những nỗ lực vượt bậc
trong việc sửa đổi chính sách và pháp luật của mình để đảm bảo thực hiện nguyên tắc
không phân biệt đối xử của WTO. Đặc biệt những nguyên tắc này đã được quán triệt trong
pháp luật về đầu tư, thương mại của Việt Nam.
• Các ngoại lệ của MFN và NT
WTO có đưa ra một số ngoại lệ đối với nguyên tắc không phân biệt đối xử được quy
định trong các Hiệp định của WTO bao gồm:
Điều XIV của GATT về các ngoại lệ đối với quy tắc không phân biệt đối xử trong
- một số trường hợp liên quan đến hạn chế định lượng nhập khẩu - Ngoại lệ chung
được quy định trong Điều XX của GATT. Các quốc gia được áp dụng các biện pháp
không theo các nguyên tắc chung nếu xét thấy cần thiết trong các trường hợp bảo vệ
đạo đức công cộng; bảo vệ cuộc sống con người; động vật, thực vật; bảo đảm tuân thủ
pháp luật trong nước không trai với GATT; ngăn cản buôn bán các sản phẩm sử dụng
lao động trẻ em hoặc tù nhân, bảo vệ di sản quốc gia; giữ gìn tài nguyên thiên nhiên;
bình ổn cung cầu thị trường trong nước đối với sản phẩm thiết yếu. - Ngoại lệ về an ninh
Điều XXI của GATT quy định các ngoại lệ về an ninh cho
phép các quốc gia không áp dụng các nguyên tắc WTO trong
trường hợp bảo vệ an ninh quốc gia; ngăn ngừa buôn bán các hàng hóa có liên quan
đến an ninh như chất phóng xạ, vũ khí, khí tài … lOMoAR cPSD| 58797173
- Ngoại lệ trong trường hợp tự vệ thương mại Điều XIX của GATT và Hiệp định về
các biện pháp tự vệ của WTO cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp tự vệ trong
các trường hợp: Thương mại quốc tế đe dọa nghiêm trọng đến các nhà sản xuất
trong nước hoặc khi bị nước khác bán phá giá thì có thể áp dụng các biện pháp đối
kháng. Theo HĐ về các biện pháp tự vệ, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối
kháng, Hiệp định chống bán phá giá, trong trường hợp diễn ra thương mại không
lành mạnh từ phía nước xuất khẩu, một nước nhập khẩu có thể gia tăng các rào cản
thương mại như tăng thuế và áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ nước xuất khẩu đó.
- Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP): GSP là chế độ ưu đãi nhiều hơn so với
MFN. GSP chỉ được áp dụng một chiều từ các nước phát triển cho các nước đang
phát triển. ví dụ EU chỉ dành GSP cho một số nước có GDP tính trên đầu người nhỏ
hơn 6000 USD. Được áp dụng hạn chế đối với một số nhóm hàng hóa và thường
áp dụng phân biệt nhiều nhóm hàng với mức ưu đãi khác nhau, trong đó ưu đãi nhất
là miễn thuế hoàn toàn. GSP là chế độ do các nước phát triển tự xác định kể cả về
quy mô, mức độ, hình thức ưu đãi lẫn danh mục quốc gia được coi là đang phát triển
và được hưởng ưu đãi GSP. Do vậy, cho đến nay GSP được áp dụng khác nhau ở mỗi nước.
- Trong thương mại dịch vụ, một thành viên có thể áp dụng một số biện pháp đối xử
được quy định trong Điều 2 khoản 2 của GATS và phù hợp với các điều kiện của
phụ lục về các miễn trừ của Điều II.
- Ngoài ra còn một số ngoại lệ khác được quy định trong các Hiệp định khác nhau
như cho phép áp dụng các hạn ngạch thuế quan đối với nhập khẩu nông sản, phân
biệt đối xử trong cấp hạn ngạch dệt may trong Hiệp định dệt may, ưu đãi hơn cho
các nước đang phát triển và kém phát triển…
- Quy tắc của WTO về mua sắm Chính phủ được xem là một ngoại lệ điển hình của
nguyên tắc đối xử quốc gia.
1.5.2.Thương mại tự do hơn
Thương mại ngày càng tự do là nguyên tắc mà GATT, WTO theo đuổi trong suốt quá
trình hoạt động của minh. Tự do hóa thương mại không chỉ được quán triệt trong GATT
mà còn cả trong các hoạt động của chúng. GATT và các HĐ của WTO đã đưa ra các điều
khoản và quy tắc nhằm ràng buộc và thúc đẩy các nước thành viên mở cửa thị trường
GATT là HĐ đầu tiên về cắt giảm thuế quan trọng thương mại đa phương. Với 8 vòng đàm
phán của GATT, thuế quan hàng công nghiệp đã được giảm một cách căn bản. Vòng đàm
phân Urugoay đã mở rộng tự do hóa thương mại sang các lĩnh vực mới là dịch vụ và sở
hữu trí tuệ. GATS đã quy định nghĩa vụ pháp lý của các thanh viên đối với các cam kết về
mở cửa thị trường dịch vụ. TRIPS cũng đưa ra một khuôn khổ pháp lý an toàn hơn cho tự do hóa thương mại. lOMoAR cPSD| 58797173
Tuy nhiên, các HĐ của WTO không bắt buộc các thành viên phải nhanh chóng tự do hóa
thương mại. Chúng không chỉ cho phép các thành viên tiến hành cải cách và tự do hoa
thương mại một cách từ từ với các bước quá độ mà còn tạo ra một cơ chế an toàn cho cải
cách. Các cơ chế an toàn đó là rất nhiều điều khoản ngoại lệ cho các thành viên đang phát
triển và kém phát triển, là các ngoại lệ liên quan đến an ninh quốc gia, vệ sinh, an toàn và
môi trường. Ngoài ra đó còn là các quy tắc về tự vệ, các biện pháp chống bán phá giá, các
biện pháp đánh thuế đối kháng…
1.5.3.Tính minh bạch, báo cáo và giám sát
Để hướng tới tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán trong hệ
thống thương mại đa phương, WTO yêu cầu các thành viên phải thực thi các biện pháp để
đảm bảo tinh minh bạch trong hệ thống kinh tế cũng như thương mại của minh. Môi trường
kinh doanh như vậy giúp DN định hướng một cách hiệu quả chiến lược kinh doanh trong
tương lai, khích lệ họ đầu tư nhờ đó tạo ra nhiều việc làm; góp phần nâng cao mức sống
của dân cư. Nguyên tắc tăng cường tinh minh bạch được thể chế hóa ở Điều 10 của GATT, điều 3 của GATS.
Để thực hiện nguyên tắc này, WTO yêu cầu cấc nước thành viên phải thực thi các biện pháp:
- Đưa ra các cam kết ràng buộc khi mở cửa thị trường. Điều đó có nghĩa là phải
đưa ra mức trần của cam kết trong đàm phán mở cửa thị trường. Ví dụ trong
thương mại hàng hóa, một nước trong đàm phán mở cửa thị trường thịt bò, có
thể đặt cam kết ràng buộc đối với thuế nhập khẩu thịt bò là 15%. Khi cam kết
mở cửa thị trường có hiệu lực, nước đó sẽ không được tăng thuế vượt mức đó.
Trong thương mại dịch vụ, khi có cam kết mở cửa thị trường thì mức mở cửa
thị trường không được thấp hơn mức hiện hành và các thành viên không được
duy trì và ban hành các biện pháp hạn chế được nêu trong điều 16 của GATS.
- Hạn chế áp dụng hạn ngạch, các biện pháp hạn chế định lượng và những biện
pháp khác có thể làm giảm tinh minh bạch của môi trường kinh doanh. Việc áp
dụng hạn ngạch với cơ chế xin-cho không minh bạch dễ dẫn đến tình trạng tiêu
cực và cạnh tranh không công bằng.
Chính phủ các nước thành viên phải công bố công khai và đảm bảo công chúng
- cũng như các DN trong và ngoài nước có thể tiếp cận dễ dàng các chính sách,
pháp luật và thông tin liên quan đến ngoại thương.
- Thành lập các cơ quan có thẩm quyền để rà soát các quyết định hành chính có
ảnh hưởng tới thương mại. Xem xét các yêu cầu kiến nghị của các thành viên khác. lOMoAR cPSD| 58797173
- Các thành viên phải đảm bảo sự phù hợp giữa luật lệ và chính sách của minh với
các HĐ của WTO. Đây là một nghĩa vụ pháp lý của các thành viên. “mỗi thành
viên phải bảo đảm sự phù hợp các luật và chính sách và thủ tục hành chính của
mình với các nghĩa vụ được quy định tại các HĐ ở phần phụ lục”
(điều 16 khoản 4 Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO)
Để đảm bảo tính minh bạch, WTO có cơ chế giám sát được đưa vào HĐ cơ chế rà soát chính sách thương mại
Theo HĐ về cơ chế rà soát chính sách thương mại. các thành viên WTO phải thông báo
cho WTO và các thành viên khác những biện pháp, chính sách, pháp luật mà Chính phủ áp
dụng để điều chỉnh thương mại. WTO tiến hành rà soát theo định kỳ chính sách thương
mại của các thành viên. Bốn thực thể thương mại lớn nhất là EU, Hoa kỳ, Nhật bản và
Canada bị rà soát 2 năm một lần. 16 thực thể thương mại lớn tiếp theo 4 năm một lần. Các
thành viên còn lại 6 năm 1 lần trừ trường hợp có thể áp dụng thời gian dài hơn đối với các
thành viên kém phát triển. WTO lập ra Cơ quan rà soát chính sách thương mại (TPRB) để thực thi công việc này.
Nguyên tắc minh bạch là rất cần thiết cho việc thực thi các cam kết, cho việc trao đổi các
thông tin trong WTO. Ngoài ra nó còn giúp nâng cao quyền lực của WTO đối với các thành
viên. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết đảm bảo tính minh bạch
của những biện pháp, chính sách, pháp luật của mình liên quan đến thương mại.
1.5.4.Hỗ trợ các nước đang phát triển và kém phát triển
WTO đề ra nguyên tắc đối xử “đặc biệt và khác biệt” (S&D) nhằm hỗ trợ các thành viên
kém phát triển, đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Trong hầu hết các HĐ của
WTO đều đưa vào các điều khoản này với các quy định cụ thể về ưu đãi dành cho các thanh
viên đang phát triển và kém phát triển. Bao gồm:
- Có một thời kỳ quá độ dài hơn khi thực thi các cam kết và HĐ của WTO.
- Có các biện pháp để gia tăng cơ hội thương mại cho thanh viên đang phát triển
- Mức độ cam kết thấp hơn
- Được hỗ trợ về mặt kỹ thuật hoặc được hưởng một số ưu đãi khác như hỗ trợ
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trong giải quyết tranh chấp, trong thực hiện
các tiêu chuẩn kỹ thuật
- Yêu cầu các thành viên phải bảo vệ lợi ích của các thanh viên đang phát triển
- Ngoài ra còn có các điều khoản yêu cầu các nước công nghiệp danh các ưu đãi
khác cho các nước kém phát triển như đơn phương miễn thuế hoặc xóa bỏ hạn
ngạch đối với hàng nhập khẩu từ các nước kém phát triển.
1.6.Đàm phán gia nhập WTO Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia và lãnh thổ hải quan có
đầy đủ chủ quyền kinh tế trong hoạch định và thực thi chính sách thương mại của mình lOMoAR cPSD| 58797173
đều có thể gia nhập WTO. Tuy nhiên muốn trở thành thành viên của WTO, quốc gia
hay lãnh thổ hải quan đó phải được sự đồng thuận của các thành viên.
Muốn đạt được sự đồng thuận này, quốc gia xin gia nhập phải tiến hành đàm phán.
Quá trình đàm phán xin gia nhập gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Nước xin gia nhập nộp đơn gia nhập
- Đại hội đồng thành lập Ban công tác WTO về nguyên tắc, tất cả các thành viên
của WTO có yêu cầu đàm phán với đối tác gia nhập đều có thể là thành viên của Ban công tác.
- Minh bạch hóa chính sách. Ở giai đoạn này, nước xin gia nhập phải gửi văn kiện
thuyết minh toàn bộ các chính sách về kinh tế và thương mại của mình có liên
quan đến các HĐ của WTO. Văn kiện sẽ được Ban công tác của WTO xem xét.
Ngoài ra nước xin gia nhập còn phải trả lời tất cả các câu hỏi do các thành viên Ban công tác nêu ra.
- Đàm phán gia nhập. Bao gồm đàm phán song phương và đàm phán đa phương.
Đàm phán song phương là đàm phán giữa nước xin gia nhập và các thành viên khác.
Sở dĩ có đàm phán song phương là do mỗi thành viên có những đặc thù về kinh tế và thương
mại của mình mà có những yêu cầu đàm phán khác nhau. Nội dung đàm phán có thể bao
trùm toàn bộ các HĐ của WTO từ thuế quan đến các rào cản phi thuế quan, đối với thương
mại hàng hóa đến mở cửa thị trường dịch vụ, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Do nguyên
tắc không phân biệt đối xử, cam kết của nước xin gia nhập với bất kỳ một thành viên nào
cũng sẽ áp dụng cho tất cả các thành viên khác cảu WTO, kể cả nhưng nước không tham
gia đàm phán. => ký kết các hiệp định về hàng hóa, dịch vụ=> tuân thủ các hiệp định của WTO
Đàm phán đa phương là đàm phán với WTO nói chung mà thông qua đại diện là Ban
công tác. Trọng tâm của nó là đàm phán về các điều khoản gia nhập liên quan tới các quy
tắc và nghĩa vụ được quy định trong các HĐ của WTO trong ba lĩnh vực chính là thương
mại hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ và các vấn đề mang tính hệ thống liên quan tới thương
mại dịch vụ. Nội dung đàm phán đa phương tập trung vào việc xem xét các luật và thể chế
chính sách của nước xin gia nhập. Nếu luật, thể chế chính sách của nước xin gia nhập chưa
phù hợp với các HĐ của WTO, WTO yêu cầu nước xin gia nhập phải tiến hành sửa đổi cho
phù hợp. => đàm phán các điều khoản gia nhập=> trở thành nội dung của việc xin gia
nhập=> trở thành nghị định thư.
- Ban công tác soạn thảo văn kiện gia nhập. Sau khi hoàn thành việc đàm phán
song phương và đa phương, Ban công tác sẽ hoàn tất bộ văn kiện trọn gói cuối
cùng về các điều khoản gia nhập. Bộ văn kiện này bao gồm: Báo cáo của Ban lOMoAR cPSD| 58797173
công tác, Nghị định thư gia nhập, các biểu cam kết của nước xin gia nhập và
quyết định gia nhập do Đại hội đồng phê chuẩn.
- Xem xét ra quyết định và các thủ tục pháp lý khác. Bộ văn kiện trọn gói cuối
cùng sẽ được trình cho Đại hội đồng hoặc Hội nghị Bộ trưởng xem xét. Nếu
2/3 số thành viên của WTO biểu quyết tán thành thì WTO sẽ phê chuẩn Quyết
định gia nhập. Đồng thời nước xin gia nhập sẽ ký nghị định thư gia nhập. Đối
với một số nước Văn kiện xin gia nhập còn phải được Quốc hội hoặc Nghị viện
của nước đó thông qua. Nước gia nhập sẽ chính thức trở thành thành viên của
WTO sau 30 ngày kể từ khi WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập
về việc đã hoàn thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư gia nhập và các Phụ lục.
- Có đi có lại và cơ chế đàm phán của WTO
Để đạt tới những kết quả nhất định trong đàm phán thương mại quốc tế các bên cần có sự
nhượng bộ theo nguyên tắc có đi có lại cũng có nghĩa là các bên cùng có lợi. Tuy nhiên, cả
GATT và WTO đều không làm rõ khái niệm này. Mặc dù vậy, tinh thần của HĐ của GATT
và WTO đều chứng tỏ nguyên tắc các bên cùng có lợi. Mỗi thành viên tham gia đàm phán
đều là các nước hoặc nền kinh tế có chủ quyền trong hoạch định và thực thi chính sách
kinh tế và thương mại. Kết quả của các cuộc đàm phán đạt được là do các thành viên thấy
được lợi ích kinh tế mà mình có được từ các HĐ và chấp nhận thực hiện nó. Nếu không
thu được lợi ích, các thành viên sẽ không đạt được sự đồng thuận và đi tới ký kết HĐ.
Nguyên tắc có đi có lợi phản ánh sự đánh đổi lợi ích của tự do hóa thương mại và chi phí
cho cho sự tự do hóa đó. Để thâm nhập được vào thị trường nước khác, một nước cũng
phải cho đối tác thương mại xâm nhập vào thị trường nước mình. Trong trường hợp đàm
phán gia nhập chỉ xảy ra sự đơn phương nhượng bộ của nước xin gia nhập nhưng thực chất
cũng thể hiện nguyên tắc có đi có lại và hai bên cùng có lợi. Lợi ích của nước xin gia nhập
là lợi ích trọn gói khi trở thành thành viên của WTO. Để đổi lại nước xin gia nhập phải có
những nhượng bộ về mở cửa thị trường cho các thành viên khác. Các thành viên khác đàm
phán nhằm đảm bảo minh thu được lợi ích khi một nước trở thành thành viên mới của WTO.
Nguyên tắc có đi có lại được lấy làm cơ sở cho quá trình đàm phán. Sự nhượng bộ về thuế
quan hay mở cửa thị trường dịch vụ của một nước này phải đổi lại sự nhượng bộ về mặt
thuế quan hay những nhượng bộ khác của đối tác thương mại.
Trong hệ thống thương mại đa phương, thực tế các cuộc đàm phán đã được vận hành theo
nguyên tắc này. Các đàm phán về cắt giảm thuế quan và những đàm phán về mở cửa thị
trường dịch vụ trong suốt các vòng đàm phán của GATT trước đây và WTO ngày nay đã
chứng tỏ điều này. Trong vòng đàm phán Uruguay cũng đã diễn ra sự nhượng bộ trong việc
đưa vào ký kết HĐ nông nghiệp theo yêu cầu của các nước đang phát triển. Vòng đàm phán
Doha bế tắc cũng là do chưa đạt được sự nhượng bộ của các nhóm lợi ích tham gia đàm lOMoAR cPSD| 58797173
phán. Trong những trường hợp đặc thù GATT cũng như WTO cho phép các thành viên có
thể đình chỉ sự nhượng bộ tương đương. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của WTO không nhất
thiết đàm phán luôn phải dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Với các ngoại lệ trong nguyên
tắc không phân biệt đối xử, các nguyên tắc ưu đãi cho các nước đang phát triển và kém
phát triển đàm phán có thể đi đến kết quả với sự nhượng bộ đơn phương ở một chừng mực
nào đó của các nước công nghiệp đối với các nước nghèo. Việt Nam gia nhập WTO
Ngày 17/11/2006, Đại hội đồng của WTO họp tại Geneva đã xem xét và biểu quyết
kết nạp Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sau lễ kết nạp, Bộ trưởng Bộ Thương
mại Việt Nam Trương Đình Tuyển đã ký Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập WTO.
Ngày 28/11/2006, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam. Ngày 12/12/2006,
WTO nhận được thông báo của Việt Nam về việc chính thức phê chuẩn bộ văn kiện gia
nhập. Như vậy, sau 30 ngày, chính thức bắt đầu từ ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tự tìm đọc
- Cam kết của VN về hàng hóa và về dịch vụ WWW.mot.gov.vn
- Báo cáo của Ban công tác WWW.mot.gov.vn
- Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị
định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 1
WTO là 1 tổ chức đa phương có trách nhiệm giám sát thực thi các Hiệp định quốc
tế được ký kết nhằm lập ra một trật tự trong Thương mại Quốc tế. Việt Nam gia nhập
WTO sẽ tạo cơ hội cho các DN VN được hưởng các ưu đãi về chính sách thuế quan và
thương mại của các nước thành viên WTO nhưng đồng thời VN cũng phải đảm bảo sửa
đổi hệ thống pháp luật kinh doanh, thương mại VN tự do hơn, bình đẳng hơn, ổn định
hơn và có thể dự đoán được
CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA CỦA WTO
2.1. Tổng quan về Hiệp định về thương mại hàng hóa ((General Agreement on Trade in Service-GATT))
GATT có 38 điều chứa đựng những quy định chung về thương mại hàng hóa bao gồm
những nội dung quan trọng sau:
- Đề ra các nguyên tắc không phân biệt đối xử
- Đàm phán sửa đổi rút bỏ các ưu đãi - Các ngoại lệ lOMoAR cPSD| 58797173
- Quy định về thuế chống phá giá và thuế đối kháng, xác định trị giá hải quan,, xuất
xứ, hạn chế định lượng, tự vệ, trợ cấp, doanh nghiệp thương mại nhà nước
- Ưu đãi dành cho các nước kém phát triển
Nguyên tắc của GATT
- Chỉ được phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan. Không cho phép sử dụng
các hạn chế định lượng, trừ những trường hợp đặc biệt.
- Thuế quan phải giảm dần và bị ràng buộc không tăng trở lại - Áp dụng MFN và NT 2.2.1. Thuế quan
Thuế quan là khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi hàng hóa di chuyển từ
lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác nhằm tăng nguồn thu ngân sách quốc
gia, bảo hộ hàng hóa tương tự, ngành kinh tế hàng hóa tương tự trong nước.
Ở Việt Nam thuế này do Tổng cục Hải quan thu (thuế hải quan) Thuế quan hóa
là sự lượng hóa tác dụng bảo hộ của các biện pháp phi thuế quan. Thuật ngữ này dùng để
chỉ việc các nước thành viên WTO được phép nâng thuế quan lên để bù lại việc từ bỏ bảo
hộ bằng các biện pháp phi thuế quan.
Thuế suất ràng buộc là thuế được ghi trong biểu cam kết thuế quan (danh mục ưu
đãi) mà các nước thỏa thuận với nhau sau mỗi vòng đàm phán. Mỗi nước có một biểu cam
kết riêng và không được phép tăng thuế suất cao hơn mức đã cam kết
Thuế quan leo thang là việc đánh thuế tăng dần trong một dãy sản phẩm có liên
quan với nhau, ví dụ nguyên liệu thô đánh thuế 0%, sản phẩm sơ chế đánh thuế 3%. Bán
thành phẩm 7%, hàng hóa đã chế biến, đóng gói thương phẩm thuế 10%. Việc đánh thuế
quan như trên được nhiều nước áp dụng để hạn chế hàng hóa đã chế biến sẵn, bảo vệ ngành
sản xuất trong nước và khuến khích phát triển các ngành lắp ráp, gia công.
Biểu cam kết thuế quan là tập hợp tất cả các cam kết thuế quan và các ưu đãi khác
của một nước thành viên WTO sau các vòng đàm phán thương mại. Theo Điều 2 của
GATT, biểu cam kết thuế quan là những cam kết ràng buộc có tính pháp lý.
Biểu cam kết thuế quan bao gồm mã số, mô tả hàng hóa, thuế suất ràng buộc, ngày đạt
được thỏa thuận ưu đãi và quyền đàm phán ban đầu. Các biểu cam kết thuế quan của vòng
Uruguay chia làm 2 phần: nông nghiệp và phi nông nghiệp. Cả 2 phần đếu nêu thuế suất
cơ sở và thuế suất ràng buộc, quyền đàm phán ban đầu, các loại thuế và phí khác. Ngoài ra
trong phần nông nghiệp còn nêu thời gian thực hiện và biện pháp tự vệ đặc biệt (nếu có). lOMoAR cPSD| 58797173
Nguyên tắc của WTO là chỉ được bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan. Không cho
phép sử dụng các hạn chế định lượng, trừ những trường hợp đặc biệt. Thuế quan phải giảm
dần và bị ràng buộc không tăng trở lại.
Thuế quan là công cụ đắc lực và cần thiết của mỗi Nhà nước để thực hiện các mục tiêu
đem lại nguồn thu cho ngân sách, bảo hộ sản xuất và điều tiết tiêu dùng trong nước,
làm cơ sở cho đàm phân thương mại.
2.2.2. Các biện pháp tương đương thuế quan và thuế gián thu -
Các biện pháp tương đương thuế quan là các loại phí hoặc phụ thu áp dụng đối với
hàng nhập khẩu cao quá mức cần thiết do đó làm tăng chi phí nhập khẩu. Ví dụ gọi là lệ
phí mua tờ khai hải quan, nhưng mức thu lại quá cao so với giá trị thực tế của việc in ấn tờ
khai. Các biện pháp này đòi hỏi người nhập khẩu phải nộp một khoản tiền nhất định nhưng
đây không phải là khoản tiền trả cho thuế nhập khẩu (thuế quan) vì thế chúng được gọi là
tương tự thuế quan. Các biện pháp này cũng có tác dụng bảo hộ nhất định nên đôi khi cũng
được coi là một hàng rào phi thuế quan và bị yêu cầu loại bỏ. -
Thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng … làm tăng gián tiếp
đến giá nhập khẩu như thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng ô tô, rượu, bia, thuốc
lá…thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng… -
Thuế trực thu đánh trực tiếp vào đối tượng nộp thuế( người nộp thuế đồng thời là
người chịu thuế) VD: thuế thu nhập cá nhân -
Thuế gián thu là đánh vào người tiêu dùng( doanh nghiệp chỉ là người nộp thuế, và
số tiền thuế tính vào giá của hàng hóa hoặc dịch vụ) VD: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt=> tăng trực tiếp giá nhập khẩu=> khó cạnh tranh hàng hóa trong nước=> trở thành
công cụ bảo hộ sản xuất trong nước.
2.2.3. Các biện pháp hạn chế định lượng và thủ tục cấp phép nhập khẩu
- Hạn chế định lượng như hạn ngạch, cấm xuất nhập khẩu, giấy phép xuất nhập
khẩu không tự động … là các biện pháp phi thuế quan điển hình gây cản trở luồng di
chuyển tự do của hàng hóa giữa các nước. đây thường là các biện pháp mang tính võ đoán,
ít dựa trên căn cứ khoa học mà chủ yếu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.
WTO coi những hàng rào phi thuế quan trên làm hạn chế rõ rệt tác dụng của tự do thương
mại, đồng thời lại không thể tính toán, dự đoán được trước nên yêu cầu xóa bỏ chúng. Thay
vào đó, nhu cầu bảo hộ, nếu có sẽ phải thể hiện thành thuế quan. Tuy nhiên, WTO vẫn chấp
nhận áp dụng hạn ngạch trong ngành nông nghiệp nhưng xu hướng chung là hàng rào bảo
hộ phi thuế quan trong ngành này cũng sẽ dần bị bãi bỏ lOMoAR cPSD| 58797173
-Thủ tục cấp phép nhập khẩu là những thủ tục hành chính đòi hỏi DN phải nộp
đơn hoặc các tài liệu khác (ngoài những tài liệu hải quan yêu cầu) cho một cơ quan hành
chính để được phép nhập khẩu hàng hóa.
Thủ tục cấp phép nhập khẩu được các nhà nước xuất khẩu quan tâm vì nó có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả bán hàng. Do vậy, mỗi khi một nước có thay đổi về thủ tục này
thì nước đó phải báo cho Uỷ ban cấp phép nhập khẩu của WTO về những thay đổi đó, bao
gồm những thông tin sau: danh sách các mặt hàng phải xin phép nhập khẩu; cơ quan nhận
đơn xin phép cuả DN và cơ quan đầu mối để DN tìm hiểu thông tin về thủ tục cấp phép
nhập khẩu, ngày và tên ấn phẩm công bố về sự thay đổi thủ tục, chỉ rõ giấy phép nhập khẩu
sẽ mang tính tự động hay không tự động. Nêu rõ mục đích của công việc cấp phép nhập
khẩu, thời gian dự kiến áp dụng cấp phép nhập khẩu…
Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (Inport Licensing Procedures-ILP) quy
định những thủ tục mà CP các thành viên WTO phải tuân thủ nhằm giảm tối đa các công
đoạn hành chính phiền phức gây cản trở đến thương mại. Hiệp định ILP cũng quy định một
số điều nhằm tạo thuận lợi cho thương mại và bảo vệ quyền lợi của DN; biểu mẫu và thủ
tục càng đơn giản càng tốt, không được từ chối cấp giấy phép vì những lỗi nhỏ không làm
thay đổi cơ bản nội dung chứng từ.
Giấy phép tự động là giấy phép được cấp ngay khi nhận đơn hoặc chậm nhất là trong
vòng 10 ngày làm việc sau khi nhận đơn. Giấy phép này được cấp không kèm theo điều
kiện nào đối với DN và thường là giấy phép phục vụ mục đích thống kê. Về bản chất đây
có thể coi như việc DN chỉ có nghĩa vụ thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về hợp
đồng nhập khẩu của minh.
Giấy phép không tự động là giấy phép được cấp với một số điều kiện, tiêu chí nhất
định mà nếu không hội đủ những yếu tố này thì cơ quan quản lý nhà nước có thể từ chối
cấp giấy phép cho DN. Hiệp định ILP quy định giấy phép không tự động phải được cấp
trong vòng 30 ngày theo nguyên tắc nộp hồ sơ trước-cấp giấy phép trước. nếu đơn xin cấp
giấy phép được xử lý đồng thời ( trường hợp công bố một thời hạn nhất định ngừng tiếp
nhận đơn) thì giấy phép phải cấp trong vòng 60 ngày.
Cơ quan quản lý nhà nước phải công bố thông tin về thủ tục cấp phép nhập khẩu (số lượng,
hạn ngạch, chỉ tiêu, sản phẩm, điều kiện doanh nghiệp nộp đơn xin cấp phép sao cho tất cả
những ai quan tâm đều có thể hiểu và thống nhất thực hiện
2.2.4. Kiểm định trước khi xếp hàng và xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
PSI (Pre-shipment Inspection) là việc kiểm định trước khi giao hàng xuống tàu
ở nước xuất khẩu.
Kiểm hoá trước khi xuất hàng là một thực tiễn trong thương mại quốc tế, theo đó
nước nhập khẩu yêu cầu các cơ quan kiểm định độc lập kiểm định hàng hóa được nước lOMoAR cPSD| 58797173
nhập khẩu đặt hàng. Chủ yếu về giá cả, chất lượng và số lượng trước khi xuất hàng. Đây
chính là nội dung của Hiệp định PSI. Mục đích của Hiệp định là nhằm bảo vệ lợi ích tài
chính quốc gia (ví dụ để ngăn chặn chảy vốn ra nước ngoài, hành vi gian lận thương mại
và trốn thuế…) và bù đắp cho những khiếm khuyết trong cơ chế hành chính. Hiệp định này
đặc biệt được Chính phủ các nước đang phát triển sử dung.
Đây thường là yêu cầu của người mua nhằm đảm bảo hàng hóa mình định mua là
đúng quy cách, phẩm chất, đủ số lượng, hoặc yêu cầu của CP một số nước đang phát triển
nhằm chống thất thoát vốn ra nước ngoai chống thất thu thuế quan hoặc ngăn ngừa nhập
khẩu vào nước mình những sản phẩm độc hại.
Hiệp định PSI thừa nhận rằng các nguyên tắc và nghĩa vụ của GATT được áp dụng cho cả
hoạt động của cơ quan kiểm hóa được các Chính phủ ủy quyền. Các Chính phủ (người sử
dụng dịch vụ kiểm hóa) phải làm sao để các cơ quan này tiến hành kiểm hóa một cách:
- Không phân biệt đối xử và minh bạch
- Bảo vệ được những thông tin bí mật về thương mại
- Tránh những chậm trễ không đáng có
- Tuân thủ những chỉ thị cụ thể về kiểm tra giá cả và tránh những xung đột về lợi ích.
Đặc biệt các nước gia nhập là thành viên của WTO phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ là không được áp dụng biện pháp kiểm hóa mang tính phân biệt đối xử và phải
công bố không chậm trễ các yêu cầu về kiểm hóa đối với hàng nhập khẩu Hiệp định
đặt ra một cơ chế độc lập xem xét các tranh chấp. cơ chế này do:
- Liên đoàn các công ty kiểm hóa quốc tế (IFIA) đại diện cho các công ty kiểm hóa và
- Phòng thương mại quốc tế (ICC), đại diện cho các nhà xuất khẩu cùng phối hợp
điều hành. Cơ chế có mục đích giải quyết tranh chấp giữa các nhà xuất khẩu và công ty kiểm định.
Xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
Hiệp định trị giá hải quan (Agreement on Customs Valuation-ACV) quy định trị giá
hải quan hay còn được gọi là trị giá tính thuế được xác định dựa trên giá trị giao dịch của
hàng hóa. Giá trị giao dịch là trị giá thực tế mà nhà nhập khẩu đã thanh toán hay sẽ phải
thanh toán khi mua hàng cộng với một số khoản được điều chỉnh. Hiệp định còn nói rõ
thêm rằng, giá trị này chưa bao gồm lệ phí và thuế của nước nhập khẩu, chi phí vận tải và
một số loại thanh toán cho dịch vụ sau khi nhập hàng.
Các nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá hải quan được quy định từ điều 1 đến điều 7 của Hiệp định ACV
Điều 1 quy định: “Trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu là trị giá giao dịch. Đó là giá
thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho những hàng hóa được bán để xuất khẩu lOMoAR cPSD| 58797173
đến nước nhập khẩu, do người nhập khẩu, người mua trả trực tiếp hay gián tiếp cho người
xuất khẩu hoặc trả cho người khác vì quyền lợi của người bán sau khi đã cộng thêm hoặc
trừ đi một số khoản tương ứng tùy theo quy định của luật pháp các nước”
Để có được một trị giá tính thuế chính xác, doanh nghiệp nhập khẩu phải tiến hành kê khai
chi tiết và đầy đủ giá hóa đơn của hàng nhập khẩu và các khoản điều chỉnh trong tờ khai
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. cơ quan hải quan căn cứ vào giá trị khai báo trong Tờ khai
hải quan để tiến hành đánh thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, hải quan có thể từ chối giá trị khai báo theo quy trình được quy định trong Quyết
định của WTO, về “thay đổi trách nhiệm chứng minh” khi họ nghi ngờ tính chân thực hoặc
chính xác của giá trị giao dịch do người nhập khẩu khai báo. Trong các trường hợp như
thế, để hạn chế sự tùy tiện của Hải quan trong việc quyết định giá trị tính thuế, Hiệp định
yêu cầu giá trị này phải được xác định bằng cách áp dụng một trong năm phương pháp phái sinh:
- Phương pháp thứ nhất, phương pháp trị giá trị hải quan giống hệt (đồng loại)
Theo điều II của Hiệp định : “nếu giá trị hải quan của hàng hóa nhập khẩu không thể xác
định theo các quy điịnh tại điều 1 trị giá hải quan sẽ là trị giá giao dịch của mặt hàng tương
tự được bán với mục đích xuất khẩu cho cùng một nước nhập khẩu vào cùng một thời điểm
hay cùng kỳ với lô hàng cần phải xác định trị giá.”
Hàng đồng loạt là hàng giống nhau về mọi phương diện đáp ứng các tiêu chí so sánh đặt
ra. Đó là sự giống nhau về tính chất vật lý, chất lượng, danh tiếng, các tiêu chí kỹ thuật
khác như kỹ thuật triển khai, kỹ thuật thiết kế…., cùng sản xuất ở một nước, tháo lắp
thường xuyên khi sử dụng.
Khi xác định trị giá hàng đồng loại phải lựa chọn giao dịch sao cho thỏa mãn các điều kiện;
Nếu trong trường hợp có nhiều giá thì phải chọn trị giá giao dịch thấp nhất.
- Thứ hai, phương pháp trị giá hàng tương tự
Theo điều 3 của Hiệp định: “nếu trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu không thể xác
định được theo các quy định của điều 1 và 2 thì trị giá hải quan sẽ là trị giá giao dịch tương
tự của mặt hàng được bán với mục đích xuất khẩu cho cùng một nước nhập khẩu vào cùng
một thời kỳ hay cùng một lô hàng cần xác định trị giá”
Hàng tương tự là hàng dù không giống nhau về mọi phương diện nhưng có các đặc điểm
giống nhau, được làm từ các nguyên liệu giống nhau và từ đó đã làm cho chúng có chức
năng giống nhau và có thể thay thế được nhau về các mặt thương mại. tính chất tương tự
này được thể hiện ở chỗ: Chúng có cùng kích thước, kiểu dáng mức độ công dụng, phương
pháp chế tạo; Cùng chức năng và cách sử dụng; Cùng vật liệu cấu thành, các tiêu chí khác
như kỹ thuật triển khai mẫu mã, cùng sản xuất ở một nước. lOMoAR cPSD| 58797173
Để xác định được giá tính thuế phải: Xác định được mặt hàng tương tự; Thời điểm so sánh;
Điều chỉnh về cấp độ thương mại; Nếu trong trường hợp có nhiều giá thì phải chọn trị giá giao dịch thấp nhất.
- Thứ ba, phương pháp trị giá khấu trừ
Đây là phương pháp được xác định trong điều 4 của Hiệp định ACV là phương pháp lấy
giá bán ở thị trường nội địa tại nơi nhập khẩu của chính hàng hóa đó hay hàng tương tự,
hàng đồng loại trừ đi các chi phí phát sinh sau khi nhập khẩu và một khoản lãi hợp lý. Để
xác định được theo phương pháp khấu trừ phải lựa chọn được giá thỏa mãn các điều kiện:
Đơn giá có số lượng lớn nhất; Bán cùng thời điểm; Cùng điều kiện như khi nhập khẩu;
Không có quan hệ đặc biệt chi phối.
- Thứ tư, phương pháp trị giá tính toán. Được quy định trong điều 5 và điều 6 của
ACV là phương pháp xác định dựa trên các chi phí liên quan đến sản xuất và bán
hàng xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Các chi phí đó là: Giá thành hay trị giá nguyên
vật liệu được tính tương đương với giá thành của hàng nhập khẩu (giá nguyên liệu
trực tiếp, chi phí khấu hao máy móc, chi phí nguyên liệu, chi phí nhân công, chi phí
gián tiếp); Lợi nhuận; Chí phí vận tải, bảo hiểm, các chi phí khác có liên quan đến vận tải.
- Thứ năm, phương pháp dự phòng hoặc suy luận
Phương pháp này được nêu tại điều 7: “nếu trị giá hải quan của hàng nhập khẩu không thể
xác định được theo các quy định từ điều 1 đến điều 6 thì trị giá hải quan sẽ được xác định
bằng các phương pháp hợp lý nhất quán với các nguyên tắc và các quy định chung của
Hiệp định ACV và các điều 7 của GATT 1994 trên cơ sở các dữ liệu hiện có của nước nhập khẩu”.
Lưu ý các trường hợp hàng hóa cùng loại hoặc tương tự nhau, hàng gửi đi phải được nhập
khẩu tại hay vào khoảng thời gian được xác định giá (30 ngày). Trong những trường hợp
giá trị được xác định trên cơ sở giá trị suy diễn, người ta phải cân nhắc đến đơn giá của
hàng hóa bán trên thị trường nội địa trong khoảng thời gian 90 ngày của thời điểm nhập
khẩu. khi giá trị không thể xác định được theo bất kỳ một phương pháp trên nào , các
phương pháp hợp lý dự phòng khác dựa vào thông tin sẵn có ở nước nhập khẩu có thể được
áp dụng. Các phương pháp này phải nhất quán với điều 7 của GATT 1994 và với các điều
khoản của Hiệp định ACV.
Hiệp định ACV còn yêu cầu nhà chức trách hải quan chấp nhận giá trị giao dịch không chỉ
trong trường hợp “các giao dịch không có quan hệ” mà cả trong trường hợp các bên có
quan hệ với nhau. Những mối quan hệ này có thể xuất phát từ những người góp vốn việc
kiểm soát của công ty này với công ty kia hoặc giao dịch giữa công ty mẹ với công ty con
hay chi nhánh. Trong những trường hợp này, HĐ yêu cầu các nhà chức trách hải quan
không từ chối giá trị hải quan trừ khi nếu họ thấy mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến giá trị lOMoAR cPSD| 58797173
người nhập khẩu khai báo. HĐ ACV quy định thêm rằng hải quan phải chấp nhận giá trị
khai báo nếu người nhập khẩu chứng tỏ rằng giá trị khai báo phản ánh đúng giá trị của hàng
hóa trên cơ sở tính giá giao dịch giữa các bên không liên quan giữa các hàng hóa tương tự
hoặc giống nhau hoặc trên cơ sở giá trị suy diễn hoặc tính toán phù hợp với các điều khoản
của Hiệp định. Về phía các nhà nhập khẩu, việc khai báo rõ ràng mối quan hệ đặc biệt với
người xuất khẩu là một nghĩa vụ đặc biệt.
ACV yêu cầu cơ quan hải quan phải xác định trị giá hàng hóa bị đánh thuế trên cơ sở trị
giá giao dịch đã thực trả hoặc phải trả. Trị giá giao dịch không phải chỉ bao gồm giá ghi
trên hợp đồng mà còn có thể bao gồm một số chi phí khác: tiền hoa hồng, môi giới, tiền
đóng gói, lệ phí giấy phép, cước phí vận chuyển và bảo hiểm (nếu căn cứ theo giá CIF).
ACV không cho phép tính các loại chi phí sau vào trị giá giao dịch: cước vận tải nội địa
sau khi nhập khẩu, chi phí lắp ráp, duy tu, bảo hành sau khi nhập khẩu, các loại thuế trả sau khi nhập khẩu.
2.2.5. Trợ cấp, phá giá và tự vệ
2.2.5.1. Trợ cấp (Subsidies and Countervailing Measures- SCM)
Là việc Chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện thông
thường DN không thể có (Điều 16 của GATT 1994). Những lợi ích đó có thể phát sinh từ
việc CP trực tiếp cung cấp tiền (cho không, cho vay với điều kiện ưu đãi, cấp thêm vốn)
CP bảo lãnh các khoản vay, CP miễn hoặc bỏ qua các khoản phải thu. CP cung cấp hoặc
mua hàng hóa, dịch vụ với giá cả thuận lợi cho DN…
WTO không chấp nhận một số loại trợ cấp nhất định vì chúng bóp méo tính cạnh
tranh trên thương trường quốc tế. nếu tất cả các thành viên WTO đều hỗ trợ tài chính cho
các nhà sản xuất để họ xuất khẩu được nhiều hơn sẽ dẫn đến một cuộc đua về trợ cấp giữa
các nước kéo theo sự bất bình đẳng về cạnh tranh. Do đó các nước tham gia WTO phải
cam kết bỏ trợ cấp nhà nước.
Hiệp định SCM không bắt buộc các nước phải cắt bỏ tất cả các khoản trợ cấp mà chỉ
cấm hoặc hạn chế những loại trợ cấp gây tác động tiêu cực đến thương mại của các nước
khác như các loại trợ cấp đỏ.
Theo Hiệp định SCM, trợ cấp được phân làm 3 loại: trợ cấp bị cấm sử dụng (trợ cấp
đỏ); trợ cấp được phép sử dụng nhưng có thể bị kiện (trợ cấp vàng); trợ cấp được phép sử dụng (trợ cấp xanh).
Các hình thức trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay
thế hàng nhập khẩu đều bị xếp vào trợ cấp đỏ, bị cấm sử dụng. Ngoài việc CP trực tiếp cấp
tiền cho DN để giúp DN xuất khẩu thì những hoạt động sau cũng thuộc phạm vi trợ cấp
xuất khẩu: cung cấp các nguyên vật liệu đã được hưởng trợ cấp để sản xuất hàng xuất khẩu,
miễn thuế trực thu (ví dụ thuế thu nhập DN) hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản lOMoAR cPSD| 58797173
xuất hàng xuất khẩu quá mức đã sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu; hoàn thuế quá mức
đáng được khấu trừ đối với hàng xuất khẩu; cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn chi phí…
Trợ cấp đèn vàng là những trợ cấp không phải bị cấm nhưng đối tượng được nhận
những trợ cấp này chỉ giới hạn trong một hoặc một số DN, một hoặc một số ngành sản xuất
hoặc một khu vực địa lý nhất định. Do bị giới hạn về phạm vi đối tượng nên WTO gọi đây
là trợ cấp riêng biệt/ đặc định. Trợ cấp vàng được phép sử dụng nhưng nếu gây tác động
tiêu cực (tổn hại sản xuất trong nước, thất nghiệp …) đến quyền lợi của các nước khác (khi
nhập hàng được trợ cấp của nước xuất khẩu) thì nước sử dụng trợ cấp vàng có thể bị các
nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp khắc phục như đánh thuế bổ sung đối với hang nhập
khẩu được trợ cấp ( gọi là thuế đối kháng) hoặc khởi kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
Trợ cấp xanh là những trợ cấp mang tính phổ cập, không phân biệt giữa các ngành
hay giữa các DN mà dựa trên những tiêu chí khách quan. Những dạng trợ cấp sau dù không
mang tính phổ cập nhưng cũng được gọi là trợ cấp xanh: trợ cấp cho công tác nghiên cứu
của DN, trợ cấp để hỗ trợ đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, trợ cấp để phát triển ở những
vùng lạc hậu. Những dạng trợ cấp này có một số điều kiện kèm theo. Theo truyền thống
trợ cấp cho các DN vừa và nhỏ cũng được xếp vào trợ cấp xanh. SCM thiết lập hai
cách thức giải quyết vấn đề trợ cấp
- Cách giải quyết đối kháng đơn phương. Mục đích của thuế đối kháng là để tái thiết
lập sân chơi cho các nhà sản xuất nội địa phải đối mặt với những sản phẩm nhập
khẩu được trợ cấp. Việc áp đặt thuế đối kháng nhằm làm cân bằng các lợi thế không
công bàng mà các nhà xuất khẩu đã được hưởng từ trợ cấp.
- Cách khắc phục đa phương được áp dụng khi một thành viên bị thiệt hại bởi việc
trợ cấp của một thành viên khác muốn chương trình trợ cấp phải được chấm dứt hay
thành viên ở một thị trường thứ ba phải chịu tác động của việc trợ cấp, yêu cầu trợ
cấp phải bị đình chỉ. Trong những trường hợp này, SCM cung cấp những thủ tục
giải quyết tranh chấp đa phương.
2.2.5.2. Phá giá (Agreement Anti Dumping-AAD)
Là hành động của bản thân DN. Việc bán sản phẩm hàng hóa dưới giá thành chỉ có thể thực
hiện dựa trên tiềm lực tài chính của chính DN. Nếu không, DN có thể bị phá sản. Cùng với
trợ cấp, phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên bị cấm theo quy định của WTO
Nếu gây tác hại tiêu cực (tổn hại sản xuất trong nước, thất nghiệp….) đến quyền lợi
của các nước khác (nhập hàng được bán phá giá) thì DN có hàng bán phá giá có thể bị các
nước liên quan áp dụng các biện pháp khắc phục như đánh thuế chống bán phá giá hoặc
kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Thời gian tối đa áp dụng thuế chống bán
phá giá là 5 năm, trừ trường hợp có cơ sở xác đáng cho thấy nếu chấm dứt đánh thuế chống