













Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ
GIẢNG VIÊN: Ths NGUYỄN THỊ THƠM DANH SÁCH NHÓM: ST HỌ & TÊN MSSV CÔNG T VIỆC 1 Võ Thị Minh Thư 2200003527 Nội dung vận dụng TTHCM vào công tác xây dựng Đảng và nhà nước 2 Đỗ Ngọc Anh Thư 2200003605 Nội dung kết luận 3 Vũ Thị Kim Ánh 2200001519 Nội dung vận dụng TTHCM vào công tác xây dựng Đảng và nhà nước 4 Hồ Đức Đông Anh 2200001702 Nội dung kết luận 5 Bùi Thị Bích Vân 2200000537 Duyệt nội dung + nội dung vị trí nhà nước trong TTHCM và lý luận nguồn gốc TTHCM về nhà nước 6 Nguyễn Thị Yến Vy 2200000622 Duyệt nội dung + đánh file word 7 Nguyễn Thị Kim Phúc 2200000811 Nội dung vận dụng TTHCM vào công tác xây dựng Đảng và nhà nước 8 Hồ Ngọc Anh Thư 2200006162 Nội dung thực trạng trong vấn đề xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay 9 Vũ Thị Quyên 2200006923 Nội dung TTHCM về nhà nước trong sạch vững mạnh 10 Võ Thị Diễm Quỳnh 2200000939 Nội dung kết luận Nhận xét chung: • Tương tác tốt
• Hoàn thành nhiệm vụ được giao
Đề bài: Dựa trên cơ sở lý luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh”, (ở góc độ của sinh viên) các bạn sẽ làm
gì để phòng, chống những tiêu cực trên đất nước ta? Bài làm:
1. Vị trí của nhà nước trong Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Đối với những tiêu cực trên đất nước ta hiện nay, ta có nhiều biện pháp
để làm thất bại các quan điểm sai trái mà một trong những cách có hiệu quả là
phải năm chắc, hiểu sâu về khái niệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm Tư
Tưởng Hồ Chí Minh được xem như là chìa khóa để mở ra cánh cổng kho tàng
Tư Tưởng Hồ Chí Minh và cũng là vũ khí để chống lại những luận điệu thù địch
sai trái và thù đích một cách triệt để nhất.
Tại Đại hội IX (4-2001), Đảng ta có bước phát triển trong nhận thức và
tư duy lý luận khi khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước Việt Nam, nhà nước Việt Nam là
nhà nước dân chủ nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”,
hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang
bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới - nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) theo
quan điểm của Hồ Chí Minh là một nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân. Bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về: “Vấn
đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”.
Song, Người thấy rõ ràng vấn đề chính quyền ở nước ta không thể rập khuôn
theo các nước khác, mà cần “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” để có lời
giải đáp đúng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước và quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam. Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo
con đường của cách mạng vô sản và nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước
như một nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam.
2. Lý luận nguồn gốc Tư Tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
Nguồn gốc lý luận quan trọng, chủ yếu, quyết định hình thành Tư Tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước là Học thuyết Mác-Lenin về nhà nước nói chung, nhà
nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Luận điểm
quan trọng hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật là
“lấy dân làm gốc”, Người luôn nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân: “Dân
làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm
đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Vì
lẽ đó, Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là Nhà nước
đảm nhiệm vai trò “gánh việc chung cho dân”, chăm lo cuộc sống cho nhân dân
và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nên, để đảm bảo thực hiện tốt vai trò
của Nhà nước thì Đảng Cộng sản Việt Nam (lực lượng lãnh đạo cách mạng)
phải luôn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với nhà nước
về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Trong đó, một trong những vấn đề quan
trọng cần phải chú ý đến là phải làm sao để xây dựng bộ máy Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Đó là các duy nhất để Nhà nước được phát huy vai trò của nó
một cách tối ưu, thực hiện xuất sắc sứ mệnh của mình.
2.1. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch vững mạnh
Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động
có hiệu quá, phòng chống thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Nhà nước,
Hồ Chí Minh rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các cơ quan
nhà nước, cán bộ nhà nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền lực trong tay.
Quyền lực này là do nhân dân ủy thác cho. Nhưng một khi đã nắm giữ quyền
lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền.
Người chỉ rõ: “Dân ghét các ông chủ tịch, các ông Ủy viên vì cái tật ngông
nghênh, cậy thế, cậy quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách
của Việt Minh, nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng". Vì
thế, để đảm bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cần kiểm soát quyền
lực nhà nước. Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh,
trước hết, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng
là đội tiền phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc,
là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính vì vậy, Đảng có quyền
và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công
việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì
toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính
sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy đảng phái tăng cường công tác
kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm
trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương; mẫu tốt cho nhân
dân”. Để kiểm soát có kết quả tốt, theo Hồ Chí Minh, cần có hai điều kiện là
việc kiểm soát phải có hệ thống và người đi kiểm soát phải là những người rất
có uy tín. Người còn nêu rõ hai cách kiểm soát là từ trên xuống và từ dưới lên.
Người nhấn mạnh, phải “khéo kiểm soát”. Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc phân công, phân
nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước bước đầu cũng đã được Hồ
Chí Minh đề cập đến. Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh ghi rõ một số hình
thức kiểm soát bên trong Nhà nước, trong đó nổi bật là kiểm soát của Nghị viện
nhân dân đối với Chính phủ, chẳng hạn, Nghị viện nhân dân có quyền "Kiểm
soát và phê bình Chính phủ”, “Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm
thì phải từ chức"v.v.. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì
thế, nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đây là hình thức được
Hồ Chí Minh đề cập rất cụ thể. Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm soát,
mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được". Đảng
cầm quyền cần chú ý phát huy vai trò kiểm soát quyền lực của nhân dân, bởi so
với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có
một đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc
gì hết. Đối với Nhà nước, là công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào
quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra".
Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người
đề phòng và khắc phục:
Thứ nhất là đặc quyền, đặc lợi. Ta thấy xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan
chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét
tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là
sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Thứ hai là tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng
phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn
giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công dùng vào việc tư,
quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân
và phong kiến...tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Trái tim
nhân ái của Người tuy rất bao la nhưng không có chỗ cho những kẻ bất liêm,
hay bất kỳ người nào có địa vị ra sao. Dù rất đau lòng nhưng đối với những kẻ
sâu mọt, tham nhũng, ăn cắp của Chính phủ, của nhân dân, Người và Chính Phủ
quyết nghiêm trị. Ngày 27 -11 -1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ấn định tội
đưa và nhận hối lộ với mức tù từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26 – 1 – 1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội
tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình. Quan điểm của Người rất rõ ràng:
“ Chính phủ và nhân dân đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”. Lãng phí cũng là
một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân Người luôn làm
gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng
ngày. Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của
bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức
lao động, lãng phí thì giờ, lãng phí tiền của.Chống lãng phí là biện pháp để tiết
kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia. Liên quan đến các bệnh đề cập
trên là bệnh quan liêu – một loại bệnh không những có ở cấp Trung ương, ở cấp
tỉnh, ở cấp huyện mà còn ngay ở các cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình “những
người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc
thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với
công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu
vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị,
xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn”... thành thử có
mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững.... thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung
túng, che chở cho bệnh tham ô lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các
bệnh tham ô, lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải
tẩy sạch bệnh quan liêu”.
Thứ ba là tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Những hành động trên gây mất
đoàn kết gây rối cho công tác, Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh,
tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ.
Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng
việc nước là việc công chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong
chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách làm cho mọi
người thuận hoà với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan
chính phủ là thần thánh rồi...cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm
mất uy tín của chính phủ. Thực tiễn chỉ ra rằng, tham nhũng và các biểu hiện
tiêu cực đều là "kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà
nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta... Nó làm hỏng
tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách
mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính". Do đó, không phải ngẫu nhiên lần đầu
tiên vấn đề phòng, chống tham nhũng lại được ghi rõ tại khoản 2, Điều 8 Hiến
pháp năm 2013: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải...
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền". Để tìm ra biện pháp phòng, chống tiêu cực trong bộ máy
nhà nước, Hồ Chí Minh đã dày công luận giải nguyên nhân nảy sinh tiêu cực.
Trước hết là nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá
nhân, tự sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của bản thân cán bộ. Bên cạnh đó còn có
những nguyên nhân khách quan, từ gần đến xa, là do công tác cán bộ của Đảng
và nhà nước chưa tốt; do cách tổ chức, vận hành trong đảng, trong nhà nước, sự
phối hợp giữa Đảng với nhà nước chưa thật sự khoa học, hiệu quả, do trình độ
phát triển còn thấp của đời sống xã hội; do tàn dư của những chính sáchphản
động của chế độ thực dân, phong kiến; do âm mưu chống phá của các lực lượng
thù địch, v.v... Các nguyên nhân này không tồn tại biệt lập với nhau, mà có sự
kết hợp với nhau, tiến công vào đội ngũ cán bộ. Nếu Đảng và nhà nước không
có biện phá phòng, chống tốt, không có Chính sách bảo vệ cán bộ một cách có
hiệu quả, thì nguy cơ mất cán bộ là rất lớn.
Phòng chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Trong nhiều tác phẩm khác nhau, ở nhiều thời điềm khác nhau, Hồ Chí Minh đã
nêu lên nhiều biện pháp khác nhau. Khái quát lại, có thể thấy nổi bật một hệ
thống biện pháp cơ bản như sau:
Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng
rãi, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đó là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.
Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh.
Công tác kiểm tra phải thường xuyên. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc và tự
giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật. Đối với những kẻ thoái hóa, biến chất, pháp luật
phải “Thẳng taytrừng trị, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Trong
nhà nước “trăm đều phải có thần linh pháp quyền” thì tuyệt nhiên không có bất cứ vùng cấm nào.
Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người đúng tội là cần thiết,
song việc gì cũng xử phạt thì lại không đúng, cần coi trọng giáo dục, lấy giáo
dục, cảm hóa làm chủ yếu. Chỉ có như vậy mới làm cho cái tốt trong mỗi người
nảy nở như hoa mùa xuân và cái xấu mất dần đi. Trong giáo dục cán bộ, phải
coi trọng giáo dục đạo đức xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức của người cầm
quyền, khơi dậy lương tâm trong mỗicon người. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “cán bộ
các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao,
trách nhiệm nêu gương càng lớn. Cán bộ, người đứng đầu có ý thức nêu gương
tu dưỡngđạo đức, chống tiêu cực, sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến cấp dưới, đến
nhân dân, góp phần gây nên những đức tính tốt trong nhân dân.
Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc
chiến chống lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà
nước. Bất kỳ ngườiViệt Nam nào có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, thì dù là người
dân bình thường, hay cán bộ, đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm tu dưỡng
và thực hành đạo đức cách mạng.
2.2. Tình trạng trong vấn đề xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay
Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền là xây dựng nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Như vậy, đây là bộ máy
quyền lực của chính nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho toàn dân. Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
Pháp luật Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định sự cần thiết trong
việc “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”.
Đây là vấn đề rất cơ bản, rộng lớn và phức tạp cũng rất nhạy cảm, cần phải hệ
trọng thực hiện vì liên quan đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Từ đó, bám sát vào Cưỡng lĩnh của Đảng, Hiến pháp và Pháp luật của nhà nước
và thực tế của đất nước để tập trung thảo luận làm rõ các vấn đề thực trạng,
nguy cơ sắp phải đối mặt; tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và toàn nhân
dân lao động về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu và những nhiệm vụ cũng
như các giải pháp lớn cần được quán triệt và triển khai thực hiện. Qua đó sẽ tạo
được sự chuyển biến mạnh mẽ hơn trong việc xây dựng và hoàn thành nhà nước
pháp quyền XHCN. Hệ thống pháp luật cần được xây dựng và hoàn thiện để
đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại, hội nhập với quốc tế theo
hướng xã hội chủ nghĩa. Trên các phương diện, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế,
Việt Nam đã thực hiện và được tham gia vào nhiều cam kết quốc tế, trở thành là
một trong những thành viên có trách nhiệm, đáng tin cậy của các nước trên thế
giới. Quyền của con người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa bằng hệ
thống pháp luật và đảm bảo được thực thi trên thực tế. Các chủ thể trong xã hội
được bình đẳng trước pháp luật và được làm những điều pháp luật không cấm.
Bởi những điều trên mà ta có thể thấy kết quả cụ thể qua những chi tiết sau:
Sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, chưa bao giờ đất nước có vị thế, uy
tín, tiềm lực và cơ đồ to lớn như ngày nay.
Hoạt động xây dựng pháp luật phát triển mạnh cả về số lượng và chất
lượng, trong gần 40 năm đổi mới, số lượng luật và pháp lệnh ban hành tăng
nhanh. Nhiều điều luật, điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước đã được nội luật hóa, nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người. Hiệu
quả thực thi pháp luật không ngừng được nâng lên.
Đổi mới tư duy về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp
với điều kiện kinh tế thị trường (KTTT) định hướng theo XHCN.
Khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính chuyên nghiệp, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, phân cấp, phân quyền khoa học, hiệu lực, hiệu quả hơn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng tinh gọn, chuyên
nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng đội
ngũ cán bộ không ngừng được nâng lên.
Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước được triển khai tích cực bằng nhiều biện pháp và dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành
viên, các tổ chức xã hội tham gia đóng góp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền không ngừng được nâng lên; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được coi trọng.
2.3. Vận dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng
và Nhà nước dưới góc nhìn của sinh viên
Dưới góc nhìn của sinh viên, việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
công tác xây dựng Đảng và Nhà nước có thể bao gồm việc:
Học tập và nâng cao trí tuệ: sinh viên có thể chú trọng vào việc học hỏi,
nâng cao kiến thức và kỹ năng để trở thành người có đạo đức, tri thức, và tầm
nhìn, giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khuyến khích.
Tinh thần tự giác và tự lập: sinh viên có thể phát triển tinh thần tự chủ
và tự lập, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong học tập và cuộc sống hằng
ngày. Chủ động tìm tòi và học hỏi những cái hay, những cái mới.
Tương tác xã hội và trách nhiệm công dân: sinh viên có thể tham gia vào
các hoạt động xã hội, đặt mình vào vị trí của cộng đồng, và hỗ trợ những người
cần giúp đỡ, thể hiện lòng trung hiếu và lòng nhân ái.
Là một người lãnh đạo: khuyến khích sinh viên trở thành một người
lãnh đạo vì vừa có ý thức, trách nhiệm cũng như học được cách giải quyết các
vấn đề thử thách phát sinh. Sinh viên có thể tham gia các hoạt động, tổ chức sự
kiện trong nhà trường, cũng như ngoài cộng đồng để phát triển bản thân và đóng
góp tích cực cho Xã Hội.
Tạo ra một tập thể đoàn kết: Hồ Chí Minh đã thúc đẩy sự đoàn kết giữa
các thành viên trong Đảng và nhân dân. Sinh viên có thể áp dụng tư tưởng này
bằng cách tham gia vào các hoạt động tập thể, như câu lạc bộ sinh viên, tổ chức
các buổi thảo luận nhóm với mục tiêu tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề chung,
xây dựng một môi trường học tập và sống chung đoàn kết.
Gắn kết với nhân dân: Hồ Chí Minh đã luôn coi nhân dân là cốt lõi và
nguồn lực quan trọng nhất cho sự thành công của đất nước. Sinh viên có thể áp
dụng tư tưởng này bằng cách thắt chặt mối quan hệ với cộng đồng với nhân dân,
tham gia vào các hoạt động tình nguyện và đóng góp cho cộng đồng, để công
việc xây dựng đảng và nhà nước có sự ủng hộ và đồng lòng từ phía nhân dân.
Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đòi riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Học tấm gương về ý chí và nghị lực
tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thứ thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Các biện pháp cơ bản dưới góc độ sinh viên:
Rèn luyện đạo đức: sinh viên cần tham gia vào các hoạt động rèn luyện
đạo đức như các khóa học, hội thảo và các hoạt động xã hội có tính giáo dục về
đạo đức, học các lớp kĩ năng để trao dồi kiến thức và các kĩ năng cần thiết trong
cuộc sống như kĩ năng giao tiếp …
Nâng cao ý thức: tham gia vào các hoạt động tình nguyện và xã hội, như
việc giúp đỡ cộng đồng, giúp sinh viên nhận biết và hiểu rõ hơn về nhu cầu và
khó khăn của người dân, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và lòng nhân ái.
Khám phá kiến thức: Hồ Chí Minh đã dạy rằng từ kiến thức mới làm
chủ để mọi người cống hiến cho đất nước. Sinh viên có thể áp dụng tư tưởng
này bằng việc nỗ lực trong học tập để tích lũy, đúc kết kiến thức và thực hiện
nghiêm túc các yêu cầu học tập của đất nước.
Tăng cường ý thức về tình hình tiêu cực: sinh viên nên nắm rõ về các
tình huống tiêu cực trong xã hội, như tham nhũng, buôn lậu, biển đổi khí hậu,
gian lận... Đồng thời, hiểu rõ về những hệ lụy xấu khi tiêu cực xảy ra để ý thức
được tầm quan trọng của việc ngăn chặn và đấu tranh với tiêu cực.
Đề cao trí tuệ tập thể: sinh viên nên tham gia vào các hoạt động đoàn
thể, tổ chức hội sinh viên để tạo ra một cộng đồng hỗ trợ và phòng chống tiêu
cực. Bằng cách tự cải thiện bản thân và nhóm, sinh viên sẽ đóng góp vào việc
tạo ra một môi trường tích cực và phòng chống tiêu cực.
Dự thảo và đề xuất các chính sách phòng chống tiêu cực: sinh viên có
thể tự mình hoặc thông qua các tổ chức sinh viên tham gia vào quá trình đề xuất
và tham gia xây dựng các chính sách và phương pháp phòng chống tiêu cực trên đất nước.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ Quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Mở rộng giáo dục: Giáo dục là chìa khóa để nâng cao nhận thức về các
vấn đề tiêu cực, tham ô và tham nhũng. Các chương trình giáo dục cần tập trung
vào việc giảng dạy về tác động xấu của những hành vi này đến cuộc sống cá
nhân, xã hội và quốc gia. Ngoài ra, giáo dục phải giúp học sinh phát triển khả
năng tư duy phản biện và đánh giá thông tin.
Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai
căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.
Một số biện pháp riêng dưới góc nhìn sinh viên:
Tuyên truyền thông tin và lan tỏa thông điệp tích cực: Sinh viên sử dụng
các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để tuyên truyền chia sẻ những diều
tích cực và cách phòng chống những điều tiêu cực, mọi người có thể chia sẻ
những tin tức, hình ảnh, video để mọi người cùng chung tay chống điều tiêu cực.
Báo cáo và phản ánh những hành vi tiêu cực: Sinh viên phải thông báo
cho cơ quan địa phương và cơ quan có thẩm quyền khi thấy những điều tiêu cực
ngoài xã hội, trong trường học mà mình chứng kiến.
Luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng,
khô Đoàn, xa rời chính trị. Hiện nay, nhiều bạn trẻ chủ yếu đọc báo qua những
bài được chia trẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm chứng cụ thể, thay vì chủ
động tiếp cận tới các nguồn tin chính thức, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch
truyền bá những thông tin xuyên tạc Đảng và Nhà nước mà nếu không có những
nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc sẽ hình thành suy nghĩ sai lệch, gây ra
những hệ lụy khôn lường cho tình hình an ninh xã hội. Sinh viên Việt Nam phải
có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng
và Nhà nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền
tảng mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông
tin đúng đắn, chính xác.
Trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển
của công nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội.
Nhiệm vụ học tập khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế đòi hỏi lớp sinh
viên hiện nay phải nhanh chóng trang bị cho mình năng lực hội nhập, như bản
lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công nghiệp,
hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết tình kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. KẾT LUẬN:
Như vậy, với những giá trị và lý tưởng này, nếu được sinh viên chấp nhận
và thực hiện trong hành động hàng ngày, sẽ góp phần vào sự phát triển của
Đảng và Nhà nước theo hướng tích cực và bền vững. Tổng hợp lại, nhận thức
dám đấu tranh với các tiêu cực, tham ô và tham nhũng là một quá trình cần thời
gian và công sức. Bằng cách thực hiện các biện pháp trên, chúng ta có thể xây
dựng một xã hội bình đẳng, công bằng và phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chiếm lĩnh
trái tim, khối óc, trở thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con
người; là sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là một bộ phận của sinh viên Việt Nam, sinh viên
Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cũng đang phấn đấu trở thành thế hệ thanh
niên vừa “hồng” vừa “chuyên”, rèn đức luyện tài, không ngừng nỗ lực học tập,
nâng cao kiến thức, ra sức cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Tích cực trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa để
tránh bị tác động bởi các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phấn đấu theo
mẫu hình thanh niên Việt Nam: tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn, tiên phong
trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, góp sức mình vào công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng chứa đựng những nội dung rất quan trọng, mang giá trị định hướng sâu
sắc, có tác động sâu rộng và sức lan tỏa to lớn, để lại nhiều bài học quý báu đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng.
Thứ hai, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ, là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Thứ ba, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành chặt chẽ theo
các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ tư, Đảng ta kế thừa và vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng trong quá trình hơn 35 năm đổi mới.
Sinh viên là lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ nước nhà, là nguồn
lực chủ yếu trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, đóng vai trò
then chốt trong phát triển đất nước, là lực lượng to lớn trong việc giữ gìn và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đối với việc phòng chống tiêu cực
trong nước, sinh viên đóng vai trò vô cùng quan trọng. Sinh viên là những
người trẻ tuổi, có tri thức, sự nhiệt huyết và đam mê. Họ có thể đóng góp ý kiến,
tham gia vào các hoạt động xã hội và chính trị, và tạo ra những ý tưởng sáng tạo
để giải quyết các vấn đề xã hội. Sinh viên cũng có thể lan tỏa thông điệp tích
cực, khuyến khích tinh thần đoàn kết và quyết tâm trong cộng đồng, đồng thời
chống lại những hành vi tiêu cực như tham nhũng, lừa đảo, bạo lực, và phân biệt
đối xử. Sinh viên có thể tham gia vào các tổ chức xã hội, các câu lạc bộ, và các
hoạt động tình nguyện để lan tỏa giá trị tích cực và tham gia vào các dự án phát
triển cộng đồng. Họ có thể truyền cảm hứng cho những người khác và trở thành
những tấm gương tốt trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Sinh viên có thể tham gia vào các tổ chức xã hội, các câu lạc bộ, và các
hoạt động tình nguyện để lan tỏa giá trị tích cực và tham gia vào các dự án phát
triển cộng đồng. Họ có thể truyền cảm hứng cho những người khác và trở thành
những tấm gương tốt trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Tóm lại, giá
trị tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò của sinh viên đều rất quan trọng trong công
tác xây dựng nhà nước hiện nay và phòng chống tiêu cực trong nước. Sự kết
hợp giữa những giá trị lịch sử và sự đóng góp của thế hệ trẻ sẽ tạo nên một
tương lai tươi sáng cho đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
https://phuong6govap.gov.vn/noi-dung-tu-tuong-ho-chi-minh/hieu-cho-
dung-khai-niem-tu-tuong-ho-chi-minh-de-chong-lai-cac-quan-diem-lech-lac- sai-trai
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.83-84.
Tài liệu Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trường Đại học Nguyễn Tất Thành