





Preview text:
lOMoAR cPSD| 58478860
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ Đề 1
Câu 1 (3,5đ) Chứng minh rằng: trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lý giá
trị-lao động của trường phái cổ điển Anh và đi theo nguyên lý giá trị-ích lợi của J.B.Say.
Câu 2 (3,5đ) Chứng minh rằng lý thuyết “giá cả” của A.Marshall là sự kế tục và phát
triển lý thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith; đồng thời thể hiện đặc trưng phương
pháp luận của trường phái tân cổ điển.
Câu 3 (3đ) Vì sao nói lý thuyết trường phái Keynes vừa có sự kế thừa lại vừa thể hiện
khuynh hướng đối lập với trường phái tân cổ điển ? Bài làm Câu 1.
Trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lý giá trị lao động của trường phái
cổ điển Anh và đi theo nguyên lý giá trị - lợi ích của J.B.Say.
Theo trường phái cổ điển Anh, có ba đại biểu là W. Petty, A. Smith và D. Ricardo
đã nêu lên quan điểm của mình về giá trị lao động. -
Theo W. Petty, ông cho rằng có ba loại giá cả. Đó là giá cả tự nhiên, giácả
nhân tạo, giá cả chính trị. Giá cả tự nhiên là giá trị hàng hóa, do lao động sản xuất tạo
ra. Lượng của giá cả tự nhiên, hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác bạc. Giá cả chính trị là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Nó cũng là chi phí
lao động để sản xuất hàng hóa, nhưng trong điều kiện chính trị không thuận lợi. Giá
cả nhân tạo là giá trị thị trường của hàng hóa. Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào
giá cả tự nhiên và quan hệ cung – cầu của hàng hóa trên thị trường. -
Theo A. Smith, ông có hai quan điểm về giá trị. Thứ nhất, giá trị do
laođộng hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định. Lao động là thước đo thực tế của
mọi giá trị. Thứ hai, giá trị hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua
được nhờ hàng hóa đó. -
Theo D. Ricardo, giá trị của hàng hóa hay số lượng của một hàng hóakhác
mà hàng hóa đó trao đổi, là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa đó quyết định, chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho người lao động quyết định.
Như vậy cả ba ông đều toát lên quan điểm rằng, giá trị là khách quan, do lao
động hao phí để tạo nên hàng hóa quyết định giá trị hàng hóa đó. Nhân tố ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 58478860
đến lượng giá trị hàng hóa là năng suất lao động và tính chất lao động. Bên cạnh đó,
khi nghiên cứu nguyên lí giá trị - lao động, họ đều xuất phát từ hai thuộc tính của hàng
hóa đó là giá trị sử dụng và giá trị tro đổi. Giá trị sử dụng không quyết định giá trị của
hàng hóa. Các nhân tố tự nhiên giúp con người tạo nên giá trị sử dụng nhưng không
thêm một phần tử gì vào giá trị hàng hóa cả.
Quản điểm giá trị - lợi ích của J. B. Say hoàn toàn khác quan điểm giá trị lao
động của Trường phái Kinh tế chính trị cổ điển. Ông cho rằng, sản xuất tạo ra lợi ích
(tức là giá trị sử dụng), còn ích lợi làm cho vật có giá trị. Theo ông, giá cả là thước đo
của giá trị, còn giá trị là thước đo của lợi ích, ích lợi của sản phẩm càng nhiều thì giá
trị của sản phẩm càng cao.
Trong khi đó, học thuyết giá trị của Trường phái Thành Viene kết hợp phạm trù
kinh tế với phạm trù toán học để đưa ra các phạm trù mới, như “ lợi ích cận biên”,
“giá trị cận biên”, phủ nhận học thuyết giá trị - lao động của Trường phái Kinh tế chính
trị cổ điển Anh. Họ cho rằng, ích lợi quyết định giá trị, “lợi ích cận biên” quyết định
“giá trị cận biên” và quyết định giá trị các sản phẩm khác. Các nhà kinh tế Trường
phái Thành Viene cho rằng, “lợi ích cận biên” tức là ích lợi của sản phẩm cuối cùng
(ích lợi nhỏ nhất) quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm. Muốn có nhiều giá trị
phải tạo ra sự khan hiếm hàng hóa trên thị trường.
Như vậy cũng giống như nguyên lí giá trị ích lợi của J. B. Say, trường phái giới
hạn của Áo cho rằng lợi ích tạo nên giá trị và phát triển thêm “ích lợi giới hạn” phủ
nhận lí luận trường phái cổ điển Anh rằng lao động hao phí mới tạo ra giá trị.
Kết luận, có thể thấy trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lí giá trị lao
động của Trường phái Kinh tế chính trị cổ điển Anh và đi theo nguyên lí giá trị lợi ích của J. B. Say. Câu 2.
Lý thuyết “giá cả” của A.Marshall là sự kế tục và phát triển lý thuyết “bàn tay
vô hình” của A. Smith; đồng thời thể hiện đặc trưng phương pháp luận của trường phái tân cổ điển.
Lý thuyết “bàn tay vô hình” của A. Smith:
Theo A. Smith, xã hội là sự liên minh những quan hệ trao đổi, thiên hướng trao
đổi là đặc tính vốn có của con người. Chỉ có trao đổi và thông qua việc thực hiện
những quan hệ trao đổi thì nhu cầu của người ta mới được thỏa mãn.
Khi tiến hành trao đổi sản phẩm, “con người kinh tế” bị chi phối bởi lợi ích cá
nhân của mình. Mỗi người chỉ biết tư lợi và chạy theo tự lợi. Lợi ích cá nhân là động lOMoAR cPSD| 58478860
lực trực tieeos chi phối người ta hoạt động trao đổi. Nhưng trong quá trình trao đổi,
“con người kinh tế” chịu sự tác động của “bàn tay vô hình”. Với sự tác động này, để
thực hiện được mục đích tư lợi, thì trước hết “con người kinh tế” phải tôn trọng và đáp
ứng lợi ích chung của xã hội.
Theo ông, “bàn tay vô hình” là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách
quan. Hệ thống các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”. Để có sự
hoạt động của “trật tự tự nhiên” này thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là
tổn tại và phát triển của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phải được
phát triển trên cơ sở tự do kinh tế; quan hệ giữa người với người là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế.
Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa được phát triển dưới sự điều tiết của
“bàn tay vô hình”. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn
có cuộc sống riêng của nó.
Tự do cạnh tranh là chính sách kinh tế phù hợp với trật tự tự nhiên. Xã hội muốn
giàu có phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do.
Lý thuyết “giá cả” của A. Marshall:
A. Marshall tập trung nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh.
Học thuyết giá cả của ông là sự tổng hợp các học thuyết chi phí sản xuất, cung
cầu và “ích lợi cận biên”. Theo ông, giá cả là quan hệ về số lượng mà hàng hóa và tiền
tệ được trao đổi với nhau. Giá cả được hình thành trên thị trường. Thị trường là tổng
thể những người có quan hệ kinh doanh, hay là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu. Ông cho
rằng, một mặt trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì cung cầu phụ thuộc vào giá cả;
nếu giá tăng, thì cung hàng hóa tăng, nhưng cầu hàng hóa giảm và ngược lại. Mặt
khác, cơ chế thị trường tác động làm cho giá cả phù hợp với cung cầu; khi cung hàng
hóa tăng, cầu giảm đến một mức nào đó tác động làm cho giá cả sẽ giảm.
Giá cung là giá cả mà người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất ở mức giá hiện tại.
Giá cung được quyết định bởi chi phí sản xuất. Cung bị ảnh hưởng bởi các nhân tố:
công nghệ sản xuất, giá các yếu tố đầu vào, chính sách thuế, số lượng người sản xuất, kì vọng..
Giá cầu là giá cả mà người mua có thể mua hàng hóa ở mức giá hiện tại. Giá
cầu được quyết định bởi ích lợi cận biên. Cầu bị ảnh hưởng các nhân tố: thu nhập dân
cư, thị hiếu, giá cả hàng hóa liên quan, số lượng tiêu dùng, các kì vọng.
Để phản ánh sự thay đổi của cầu đối với giá cả, dùng khái niệm hệ co dãn của cầu theo giá lOMoAR cPSD| 58478860
Khi giá cung và giá cầu gặp nhau, sẽ hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả
thị trường. Khi cung và cầu hàng hóa cân bằng nhau, thi số lượng hàng hóa được sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian gọi là “số lượng cân bằng” và giá cả mà số lượng
hàng hóa đó bán trên thị trường gọi là “giá cả cân bằng”.
Như vậy có thể thấy, lý thuyết “giá cả” của A.Marshall là sự kế tục và phát triển
lý thuyết “bàn tay vô hình” của A. Smith. Marshall đã kế tục A. Smith ở điểm: Marshall
tập trung nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh – chính sách kinh tế mà
A. Smith cho rằng phù hợp với trật tự tự nhiên; đánh giá cao vai trò tự điều tiết của thị
trường và coi nhẹ sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Bên cạnh đó ông cũng cho
rằng mối quan hệ giữa người với người phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là điều kiện để
tồn tại thị trường. Ông đã phát triển lý thuyết ở chỗ ông tin tưởng cơ chế thị trường tự
phát đảm bảo cân bằng kinh tế khi giá cả được hình thành một cách tự phát do tác
động của mối quan hệ cung cầu.
Đặc trưng phương pháp luận của Trường phái Tân cổ điển: -
Ủng hộ tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp củanhà
nước vào kinh tế. Tin tưởng chắc chắn vào cơ chế tự điều chỉnh của thị trường; coi
nền kinh tế là một hệ thống tự điều chỉnh theo các quy luật vốn có của nó, luôn đảm
bảo sự cân bằng cung – cầu, làm cho nền kinh tế vận động, phát triển. -
Chuyển sự phân tích kinh tế sang lĩnh vực lưu thông, trao đổi và nhu
cầucon người. Coi nhu cầu con người giữ vai trò quyết định. -
Sử dụng phương pháp phân tích kinh tế vi mô. -
Tích cực áp dụng toán học – một phương pháp phân tích kinh tế học
hiệnđại vào phân tích các hiện tượng, quá trình kinh tế. Sử dụng các công cụ toán học
như công thức, đồ thị, sơ đồ, mô hình vào phân tích kinh tế. Kết hợp các phạm trù
toán học với các phạm trù kinh tế để đưa ra các khái niệm kinh tế mới như “lợi ích
cận biên”, “năng suất cận biên”, “sản phẩm cận biên”, “giá trị cận biên”,… -
Chỉ nghiên cứu các vấn đề kinh tế thuần túy, kinh tế ứng dụng mà
khôngđề cập đến vấn đề chính trị, xã hội.
Như vậy, lý thuyết “giá cả” của A.Marshall đã thể hiện đặc trưng phương pháp
luận của trường phái tân cổ điển: -
Marshall tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong quan hệ trao đổi lưuthông
chứ không quan tâm đến quá trình sản xuất. lOMoAR cPSD| 58478860 -
Ông đưa ra các phạm trù kinh tế mới: cung, cầu, giá cung, giá cầu, hệ
sốco dãn của cầu,…là sự phối hợp các phạm trù toán học và kinh tế học để giải thích quy luật kinh tế. -
Ông đã biết sử dụng công cụ toán học trong phân tích kinh tế: đồ thị,công thức. -
Để xây dựng mô hình cung – cầu thị trường Marshall đi sâu vào phântích
tâm lí, hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất từ đó rút ra kết luận cho toàn nền
kinh tế. Như vậy ông đã áp dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu. -
Theo ông giá trị là phạm trù siêu hình, vô nghĩa, chỉ có giá cả là phạm
trùthiết thực và cụ thể vì thế nhà kinh tế không đề cập tới phạm trù giá trị. -
Việc phân tích mối quan hệ cung cầu dưới góc độ hành vi của ngườ
muavà người bán đều mong muốn đạt được lợi ích tốt nhất cho mình mà không quan
tâm đến nền sản xuất, bối cảnh lịch sử xã hội nói chung đã thể hiện tâm lí chủ quan
cá biệt, cá nhân trong phân tích kinh tế. Câu 3.
Lý thuyết trường phái Keynes vừa có sự kế thừa lại vừa thể hiện khuynh hướng
đối lập với trường phái Tân cổ điển. Kế thừa:
Cũng giống như trường phái Tân cổ điển, Keynes hướng sự chú ý phân tích kinh
tế vào lĩnh vực trao đổi, lưu thông, cung cẩu (như thu nhập, tiết kiệm, sản lượng nền kinh tế,…)
Ông cũng tích cực sử dụng công thức toán học trong phân tích kinh tế
(công thức mô hình, đại lượng, hàm số, đồ thị,…)
Về cơ bản trong phương pháp Keynes vẫn dựa vào tâm lý chủ quan giống với
các nhà kinh tế học cổ điển khi đưa ra các khuynh hướng. Đối lập:
Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô, tức là phân tích kinh tế xuất
phát từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng
nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng. Còn trường
phái Tân cổ điển áp dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu, từ sự phân tích kinh
tế trong các xí nghiệp rút ra kết luận chung cho toàn xã hội. lOMoAR cPSD| 58478860
Keynes dựa vào tâm lý xã hội, tâm lý chung, tâm lý của số đông (đưa ra các
phạm trù khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm là các phạm trù tâm lý số đông, tâm lý xã
hội). Còn các nhà kinh tế trường phái Tân cổ điển sử dụng tâm lí chủ quan cá nhân cá
biệt trong phân tích như lợi ích giới hạn, năng suất giới hạn,…
Keynes nhấn mạnh bàn tay hữu hình của nhà nước trong điều tiết kinh tế. Theo
ông, muốn có cân bằng, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế. Trong khi đó trường
phái Tân cổ điển tiếp tục kế thừa trường phái cổ điển Anh, đề cao cơ chế tự phát của
thị trường, coi nhẹ sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường
tự phát sẽ đảm bảo cân bằng kinh tế.