lOMoARcPSD| 59769538
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO E-LEARNING
BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ 1. Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực
của quy phạm pháp luật xung đột
1. Bảo lưu trật tự công cộng
- Nội dung: Pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng, được quy
phạm xung đột dẫn chiếu tới, nếu việc áp dụng dẫn tới hậu quả trái với những
nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội, phong tục tốt đẹp và pháp luật của nước sở
tại (nước tiến hành áp dụng pháp luật nước ngoài).
- Đây là vấn đề đôi khi bắt gặp trong quá trình áp dụng pháp luật ớc
ngoài. Hậu quả là, pháp luật nước ngoài (một hoặc một số quy phạm nhất định)
sẽ không được áp dụng.
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759
BLDS 2005“…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với
các nguyên tắc bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Như vậy,
trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp một số VBPL khác. Tuy nhiên,
việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với những quy
định liên quan trái với trật tự công mà không phải phủ nhận toàn bộ hthống
pháp luật nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đbảo lưu trật tcông cộng trong pháp
Quốc tế đó việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước
quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công
ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tư pháp quốc tế điều chỉnh những QHDS có yếu tố
lOMoARcPSD| 59769538
nước ngoài, dẫn đến việc thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ
việc. Các quy phạm xung đột chỉ đưa ra những nguyên tắc chung để chọn luật áp
dụng giữa những hệ thống pháp luật liên quan không trực tiếp quy định cách
giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn
chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn
chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường
trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài quy
định trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công
cộng”.
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp
dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. Quy phạm xung đột
dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được
áp dụng bởi trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó vô nghĩa, hay chính là
việc chọn một hệ thống pháp luật không áp dụng được trên thực tế. Điều đó làm
quy phạm xung đột mất hiệu lực.
dụ: Khi đăng kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) nam
công dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công nhận chế độ
hôn nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định của
pháp luật về HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ yếu
tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Việt Nam thành viên quy định khác với quy định của Luật
này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả
việc công nhận anh B quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng
quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả quan thẩm
quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài nội dung vi phạm “các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ công nhận
chế độ hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HNGĐ), do
vậy, trong trường hợp này quan thẩm quyền của Việt Nam thể từ chối
lOMoARcPSD| 59769538
không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam, do
tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ quy định: “… dẫn chiếu về việc áp dụng
pháp luật nước ngoài tpháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó
không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này”.
Hậu quả của bảo lưu trật tự công quan tài phán sẽ không áp dụng pháp
luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột
áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác
trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tcông quốc gia thì sẽ áp dụng ngay
pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột.
dụ: quan thẩm quyền skhông áp dụng pháp luật nước ngoài quy định
công nhận hôn nhân đa thê.
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba
a. Dẫn chiếu ngược
- Khái niệm: hiện tượng quy phạm xung đột của nước này dẫn
chiếu đến pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại
quy phạm xung đột dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật của nước dẫn chiếu ban
đầu.
- Cách giải quyết hiện tượng này là áp dụng pháp luật nước dẫn chiếu
ban đầu.
Việt Nam, Theo Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật
nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp
luật Cộng hoà XHCN Việt Nam.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn chiếu
ngược trở lại dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận Việt Nam.
Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các quy phạm xung đột cũng có giới hạn
và nhìn chung các quy phạm xung đột của pháp quốc tế là thống nhất. Đa phần
phụ thuộc vào cách giải thích ý chí của tòa án thụ vụ việc. Chấp nhận dẫn
chiếu cũng tôn trọng ý chí của nhà lập pháp nước ngoài đã xây dựng nên quy
lOMoARcPSD| 59769538
phạmy. Nếu không chấp nhận dễ gây khó khăn trong việc thụ lý giải quyết vụ
ciệc của tòa án.
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược dẫn chiếu đến pháp luật
nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo tư pháp quốc tế
các nước trên thế giới. Còn riêng trong tư pháp quốc tế của Việt Nam, thì vấn đề
này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu.
b. Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba
- Khái niệm: hiện tượng quy phạm xung đột của một nước dẫn chiếu
tới pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại quy
phạm xung đột tiếp tục dẫn chiếu tới pháp luật của nước thứ ba.
- u ý: Hiện tượng dẫn chiếu ngược dẫn chiếu đến pháp luật của
nước thứ ba chỉ xảy ra trong pháp quốc tế của những nước quy định việc dẫn
chiếu đến pháp luật của một nước dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của
nước đó (bao gồm cả quy phạm xung đột và thực chất).
Theo quy định tại khoản 3 điều 676 Luật dân sự 2015 quy định:” Trường
hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp
luật Việt Nam”. Ví dụ như doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và thành
lập tại Pháp. Vậy pháp luật Pháp pháp luật điều chỉnh năng lực pháp luật dân
sự của doanh nghiệp A. Nhưng theo pháp luật Pháp, vấn đề này được điều chỉnh
bởi pháp luật nơi doanh nghiệp trụ sthực tiễn trong thực tế thì doanh
nghiệp A trụ sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Pháp dẫn đến pháp luật Bỉ. Vậy hiện
tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thừ ba có thể xảy ra ở Việt Nam.
3. Lẩn tránh pháp luật
- Khái niệm: hiện tượng đương sự trong quan hệ đã dùng các thủ đoạn
như thay đổi quốc tịch, nơi trú, nơi thực hiện hành vi, thay đổi tính chất của tài
sản v.v. nhằm hướng sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột tới một hệ thống pháp
luật khác có lợi hơn cho mình.
lOMoARcPSD| 59769538
Mỗi quốc gia đều hệ thống quy phạm xung đột riêng, vậy, tuy cùng
một vụ việc nhưng cách giải quyết các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận thấy
hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả năng s
gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ stìm cách tránh để không phải chịu
sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó hướng đến một hệ thống pháp luật
khác lợi hơn trên sở vận dụng các quy phạm xung đột sao cho có lợi nhất.
Đây chính sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong tư pháp
quốc tế. Để tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi cho mình áp dụng hệ thống
pháp luật lợi hơn, chủ thể của quan hệ này thường áp dụng các thủ đoạn như:
di chuyển trụ sở, thay đổi nơi trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành
bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,…
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường
đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp
luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện tượng “lẩn
tránh pháp luật” trong pháp quốc tế hầu như chưa có, nhưng trong các VBPL
đã quy định về vấn đề này như: Luật HNGĐ 2014, Nghị định 126/2014 /NĐ – CP
hay Điều 758 BLDS quy định vQHDS yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy
định này cũng chỉ mới được thể hiện một vài khía cạnh, chưa đưa ra được cơ sở
pháp lý chung để xử hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ yếu tố
nước ngoài.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59769538
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO E-LEARNING
BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ 1. Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực
của quy phạm pháp luật xung đột
1. Bảo lưu trật tự công cộng -
Nội dung: Pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng, dù được quy
phạm xung đột dẫn chiếu tới, nếu việc áp dụng dẫn tới hậu quả trái với những
nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội, phong tục tốt đẹp và pháp luật của nước sở
tại (nước tiến hành áp dụng pháp luật nước ngoài). -
Đây là vấn đề đôi khi bắt gặp trong quá trình áp dụng pháp luật nước
ngoài. Hậu quả là, pháp luật nước ngoài (một hoặc một số quy phạm nhất định)
sẽ không được áp dụng.
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759
BLDS 2005“…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Như vậy,
trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở một số VBPL khác. Tuy nhiên,
việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với những quy
định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ nhận toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong Tư pháp
Quốc tế đó là việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước có
quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công
ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tư pháp quốc tế điều chỉnh những QHDS có yếu tố lOMoAR cPSD| 59769538
nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ
việc. Các quy phạm xung đột chỉ đưa ra những nguyên tắc chung để chọn luật áp
dụng giữa những hệ thống pháp luật liên quan mà không trực tiếp quy định cách
giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn
chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn
chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường
trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy
định trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công cộng”.
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp
dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. Quy phạm xung đột
dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được
áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là
việc chọn một hệ thống pháp luật không áp dụng được trên thực tế. Điều đó làm
quy phạm xung đột mất hiệu lực.
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam
công dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công nhận chế độ
hôn nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định của
pháp luật về HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu
tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật
này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả
việc công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng
quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm
quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ công nhận
chế độ hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HNGĐ), do
vậy, trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối lOMoAR cPSD| 59769538
không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam, do
tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ có quy định: “… dẫn chiếu về việc áp dụng
pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó
không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này”.
Hậu quả của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp
luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột
mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là
trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay
pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột.
Ví dụ: cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định
công nhận hôn nhân đa thê.
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba a. Dẫn chiếu ngược -
Khái niệm: Là hiện tượng quy phạm xung đột của nước này dẫn
chiếu đến pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại
có quy phạm xung đột dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật của nước dẫn chiếu ban đầu. -
Cách giải quyết hiện tượng này là áp dụng pháp luật nước dẫn chiếu ban đầu.
Ở Việt Nam, Theo Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật
nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp
luật Cộng hoà XHCN Việt Nam.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn chiếu
ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận ở Việt Nam.
Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các quy phạm xung đột cũng có giới hạn
và nhìn chung các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế là thống nhất. Đa phần
phụ thuộc vào cách giải thích và ý chí của tòa án thụ lý vụ việc. Chấp nhận dẫn
chiếu cũng là tôn trọng ý chí của nhà lập pháp nước ngoài đã xây dựng nên quy lOMoAR cPSD| 59769538
phạm này. Nếu không chấp nhận dễ gây khó khăn trong việc thụ lý giải quyết vụ ciệc của tòa án.
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật
nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo tư pháp quốc tế
các nước trên thế giới. Còn riêng trong tư pháp quốc tế của Việt Nam, thì vấn đề
này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu.
b. Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba -
Khái niệm: là hiện tượng quy phạm xung đột của một nước dẫn chiếu
tới pháp luật của một nước khác. Pháp luật của nước được dẫn chiếu tới lại có quy
phạm xung đột tiếp tục dẫn chiếu tới pháp luật của nước thứ ba. -
Lưu ý: Hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của
nước thứ ba chỉ xảy ra trong tư pháp quốc tế của những nước quy định việc dẫn
chiếu đến pháp luật của một nước là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của
nước đó (bao gồm cả quy phạm xung đột và thực chất).
Theo quy định tại khoản 3 điều 676 Luật dân sự 2015 có quy định:” Trường
hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp
luật Việt Nam”. Ví dụ như doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và thành
lập tại Pháp. Vậy pháp luật Pháp là pháp luật điều chỉnh năng lực pháp luật dân
sự của doanh nghiệp A. Nhưng theo pháp luật Pháp, vấn đề này được điều chỉnh
bởi pháp luật nơi doanh nghiệp có trụ sở thực tiễn và trong thực tế thì doanh
nghiệp A có trụ sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Pháp dẫn đến pháp luật Bỉ. Vậy hiện
tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thừ ba có thể xảy ra ở Việt Nam.
3. Lẩn tránh pháp luật
- Khái niệm: Là hiện tượng đương sự trong quan hệ đã dùng các thủ đoạn
như thay đổi quốc tịch, nơi cư trú, nơi thực hiện hành vi, thay đổi tính chất của tài
sản v.v. nhằm hướng sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột tới một hệ thống pháp
luật khác có lợi hơn cho mình. lOMoAR cPSD| 59769538
Mỗi quốc gia đều có hệ thống quy phạm xung đột riêng, vì vậy, tuy cùng
một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận thấy
hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả năng sẽ
gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để không phải chịu
sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và hướng đến một hệ thống pháp luật
khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các quy phạm xung đột sao cho có lợi nhất.
Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong tư pháp
quốc tế. Để tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi cho mình và áp dụng hệ thống
pháp luật có lợi hơn, chủ thể của quan hệ này thường áp dụng các thủ đoạn như:
di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành
bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,…
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường và
đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp
luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện tượng “lẩn
tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế hầu như chưa có, nhưng trong các VBPL
đã quy định về vấn đề này như: Luật HNGĐ 2014, Nghị định 126/2014 /NĐ – CP
hay Điều 758 BLDS quy định về QHDS có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy
định này cũng chỉ mới được thể hiện một vài khía cạnh, chưa đưa ra được cơ sở
pháp lý chung để xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.