



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773091
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘIĐỀ KIỂM TRA TỰ LUẬN
NGÀNH LUẬT KINH TẾ Mã môn: EL 24.064 BÀI TẬP TỰ LUẬN
LUẬT TÀI CHÍNH – EL 24.064
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Phạm Thị Ninh Lớp: Luật kinh tế K16 Sinh viên thực hiện: Trịnh Văn Ban Ngày sinh: 26/07/1986 Lớp: ENDVT-116 Ngành đào tạo: Luật Kinh Tế Địa điểm học:
Trường Trung Cấp Vạn Tường
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 09/2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
…………………………………………………………………………………… ĐỀ SỐ 1
Câu 1: Tìm hiểu quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng thu chi ngân
sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam – một số nhận xét và đánh giá. lOMoAR cPSD| 59773091
Câu 2: Giải quyết tình huống sau: Công ty TNHH Hoàn Thành có chức
năng đăng ký kinh doanh trong giấy CNĐKKD là xuất khẩu nông lâm sản. Mỗi
năm, Hoàn Thành xuất khẩu hàng nghìn tấn cà phê cho các thị trường EU, Mỹ,
Hàn Quốc. Trong năm, nhận thấy giá phân bón trong nước tăng cao và để tăng
cường số lượng xuất khẩu nông sản, Hoàn Thành đã ký hợp đồng với đối tác nước
ngoài đổi 100 tấn cà phê để nhập về 250 tấn phân bón hóa học, toàn bộ lô hàng
phân bón hóa học đã cập cảng Sài Gòn. Hải quan cảng Sài Gòn không đồng ý cho
nhập hàng hóa vì Hoàn Thành không có chức năng kinh doanh nhập khẩu phân
bón. Vì vậy, , Hoàn Thành đã ký hợp đồng Ủy thác nhập khẩu lô hàng nói trên
cho công ty Cổ phần X. Khi tiến hành làm thủ tục thông quan, hải quan phát hiện
khối lượng lô hàng nói trên lên đến 300 tấn. Câu hỏi: 1.
Với hoạt động kinh doanh theo chức năng của mình, Hoàn Thành
phải nộp những loại thuế nào? Cơ sở pháp lý? 2.
Có ý kiến cho rằng, vì Hoàn Thành xuất khẩu hàng hóa sang nhiều
thị trường khác nhau nên thuế suất thuế xuất khẩu qua các thị trường này là khác
nhau căn cứ vào quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các quốc gia này. Quan
điểm của anh (chị) về vấn đề này? 3.
Với hành vi xuất 100 tấn cà phê đổi 250 tấn phân bón nhập về Việt
Nam, Hoàn Thành phải nộp những loại thuế gì? Giá tính thuế trong trường hợp
này được xác định như thế nào? Có quan điểm cho rằng vì đây là trường hợp hàng
đổi hàng ngang bằng về giá trị nên không phát sinh nghĩa vụ thuế. Ý kiến của anh chị về vấn đề này? 4.
Công ty X có thể bị xử phạt đối với hành vi khai số lượng hàng hóa
ít hơn thực nhập không? Xác định nghĩa vụ thuế và trách nhiệm pháp lý phát sinh
( nếu có) từ việc nhập khẩu số lượng hàng hóa thực tế nhiều hơn tờ khai hải quan? BÀI LÀM Câu 1: 2 lOMoAR cPSD| 59773091
I. Tìm hiểu quy định pháp luật thu chi ngân sách nhà nước từ các
khoản vay nợ ở Việt Nam.
Khoản 14 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015 của Việt Nam định nghĩa:
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và
thực hiện trong một khoản thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
1. Nội dung quy định của pháp luật về thu ngân sách từ vay nợ trong nước
Nhà nước thực hiện việc vay trong nước thông qua các hình thức khác
nhau như thông qua phát hành công cụ nợ và ký kết thỏa thuận vay. Việc vay có
thể bằng nội tệ, ngoại tệ, vàng hoặc hàng hóa quy đổi sang nội tệ hoặc ngoại tệ
(Điều 19 Luật quản lý nợ công 2009).
1.1. Trái phiếu Chính phủ :
Khoản 17 Điều 3 Luật quản lý nợ công 2009 quy định: Trái phiếu chính
phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân
sách nhà nước hoặc huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư cụ thể. Cụ thể
hơn, Khoản 1 Điều 2 Nghị định 141/2003 giải thích trái phiếu Chính phủ là một
loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát hành, có thời hạn, mệnh giá, lãi suất, xác
nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ gồm:
1.1.1) Tín phiếu Kho bạc
Tín phiếu kho bạc được quy định cụ thể từ Điều 18 đến Điều 21 Nghị định
141/2003. Theo đó, tín phiếu Kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dưới
01 năm do Kho bạc Nhà nước phát hành nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy
động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước trong năm tài chính. lOMoAR cPSD| 59773091
Về phương thức phát hành, tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương
thức đấu thầu. Các đối tượng được tham gia đấu thầu là các tổ chức tín dụng theo
Luật các tổ chức tín dụng; các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư hoạt
động hợp pháp tại Việt Nam, các chi nhánh quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Ngân hàng nhà nước. Khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc hình thành qua kết
quả đấu thầu. Bộ Tài chính có thể ủy thác cho Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng
thương mại nhà nước phát hành, thanh toán tín phiếu Kho bạc.
Về vấn đề sử dụng và thanh toán, toàn bộ khoản vay từ tín phiếu Kho bạc
được tập trung vào ngân sách Trung Ương để sử dụng theo quy định của Luật
Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Trung Ương bảo đảm nguồn thanh toán gốc, lãi
tín phiếu Kho bạc khi đến hạn và chi phí tổ chức phát hành, thanh toán cho tổ
chức nhận ủy thác phát hành.
1.1.2) Trái phiếu Kho bạc
Trái phiếu Kho bạc được quy định từ Điều 22 đến 27 Nghị định 141/2003
. Đây là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 01 năm trở lên, do Kho bạc Nhà
nước phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước theo
dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định.
Về phương thức phát hành, trái phiếu Kho bạc có thế được phát hành thông
qua một trong bốn phương thức: bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, đấu thầu
qua thị trường giao dịch chứng khoán, bảo lãnh phát hành hay đại lý phát hành.
Đối tượng có thể mua trái phiếu kho bạc rộng hơn rất nhiều so với đối
tượng tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc. Bởi chủ thể mua trái phiếu kho bạc
bao gồm cả các chủ thể ở đấu thầu tín phiếu kho bạc (ngoại trừ Ngân hàng Nhà
nước) và các chủ thể khác như: các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của Việt
Nam, các tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, công dân Việt
Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài làm việc, sinh
sống hợp pháp tại Việt Nam. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định các đối tượng trên
nếu mua trái phiếu theo phương thức đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng 4 lOMoAR cPSD| 59773091
khoán thì phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về việc sử dụng và thanh toán tín phiếu kho bạc, toàn bộ tiền thu từ phát
hành trái phiếu Kho bạc đều phải tập trung vào ngân sách Trung Ương để sử dụng
theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Trung Ương bảo
đảm nguồn thanh toán gốc, lãi và phí cho việc tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu Kho bạc.
Tùy từng trường hợp mà tổ chức đứng ra thanh toán khi trái phiếu kho bạc
đến hạn là Kho bạc nhà nước; các tổ chức tín dụng, tài chính nhận được ủy thác
của Bộ Tài Chính (Điều 27 Nghị định 141/2003)
1.1.3) Trái phiếu công trình Trung Ương
Trái phiếu công trình Trung Ương được quy định từ Điều 28 đến Điều 33
Nghị định 141/2003. Đây là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 01 năm trở lên
do Kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách Trung
Ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm.
Khác với hai loại khoản vay ở trên, xuất phát từ mục đích của mình, việc
phát hành trái phiếu công trình trung ương phải đáp ứng các điều kiện sau: -
Công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ. -
Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương
án hoàn trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ trên cơ sở đề án do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng.
Về phương thức phát hành, loại trái phiếu này được phát hành theo 3
phương thức: bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. lOMoAR cPSD| 59773091
Các chủ thể được tham gia mua trái phiếu công trình trung ương cũng
giống như các chủ thể tham gia mua trái phiếu kho bạc.
Về việc sử dụng và thanh toán, các khoản vay từ trái phiếu công trình
Trung Ương được tập trung vào ngân sách trung ương để chi cho công trình đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngân sách Trung Ương bảo đảm việc thanh
toán gốc, lãi và phí đối với trái phiếu công trình Trung Ương. Các tổ chức có thẩm
quyền thanh toán trái phiếu kho bạc khi đến hạn cũng có thẩm quyền tổ chức thanh
toán trái phiếu công trình trung ương khi đến hạn.
1.1.4) Trái phiếu đầu tư
Trái phiếu đầu tư được quy định từ Điều 34 đến Điều 39 Nghị định
141/2003 . Đây là loại trái phiếu Chính phủ, có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do các
tổ chức tài chính nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng được Thủ tướng Chính
phủ chỉ định phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Chính phủ.
Nguyên tắc phát hành trái phiếu đầu tư: -
Phát hành riêng cho từng mục tiêu kinh tế. -
Tổng mức phát hành không vượt quá chỉ tiêu được Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho từng mục tiêu kinh tế hoặc cho từng năm cụ
thể. - Phương án phát hành được Bộ Tài chính thẩm định. -
Mức phát hành, thời điểm phát hành, mệnh giá, kỳ hạn của trái phiếu
do tổ chức phát hành thống nhất với Bộ Tài chính thực hiện. ( Điều 35 Nghị định
141/2003) Phương thức phát hành, đối tượng tham gia mua trái phiếu đầu tư được
thực hiện như trái phiếu công trình Trung Ương.
Về việc sử dụng và thanh toán trái phiếu. Tiền thu từ phát hành trái phiếu
đầu tư phải được theo dõi riêng và chỉ sử dụng cho mục tiêu kinh tế đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Tổ chức có trách nhiệm thanh toán là tổ chức đã phát hành trái phiếu đó. 6 lOMoAR cPSD| 59773091
1.1.5) Trái phiếu ngoại tệ:
Cơ sở pháp lý quy định về trái phiếu ngoại tệ là từ Điều 40 đến 44 Nghị
định 141/2003. Trái phiếu ngoại tệ là loại trái phiếu Chính phủ, có kỳ hạn từ 1
năm trở lên do Bộ Tài chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ.
Phương thức phát hành của trái phiếu ngoại tệ gồm bán lẻ qua hệ thống
Kho bạc Nhà nước và đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước. Chủ thể tham gia mua
trái phiếu ngoại tệ ở mỗi phương thức phát hàn khác nhau là khác nhau. Cụ thể,
chủ thể mua trong phương thức bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nước sẽ giống
với các chủ thể mua trái phiếu kho bạc. Trong khi đó, chủ thể mua ở phương thức
đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước lại chỉ là các tổ chức tín dụng.
Việc phát hành trái phiếu ngoại tệ phải tuân thủ theo ba nguyên tắc. Thứ
nhất, Trái phiếu ngoại tệ được phát hành theo từng đợt. Bộ Tài chính xây dựng
phương án phát hành cụ thể từng đợt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Thứ
hai, khối lượng và cơ cấu phát hành mỗi đợt phải phù hợp với nhu cầu sử dụng
vốn theo các mục tiêu chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Thứ ba, Bộ trưởng Bộ
Tài chính sẽ quyết định thời điểm phát hành, đồng tiền phát hành, mức phát hành,
lãi suất, mệnh giá, kỳ hạn của trái phiếu ngoại tệ.
Về việc sử dụng và thanh toán trái phiếu ngoại tệ. Ngoại tệ thu từ phát
hành trái phiếu được sử dụng cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng Chính
phủ. Ngân sách nhà nước thanh toán (gốc, lãi) trái phiếu ngoại tệ đến hạn. Tuy
nhiên, cơ quan đứng ra tổ chức thanh toán thì Nghị định 141/2003 lại chưa quy định cụ thể.
1.1.6) Công trái xây dựng:
Công trái xây dựng được quy định tại hai điều 45 và 46 Nghị định
141/2003 . Theo đó, nghị định còn dẫn tới một văn bản quy định về loại công trái
này, đó là: pháp lệnh 12/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999 của Ủy
ban thường vụ quốc hội về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc. lOMoAR cPSD| 59773091
Theo hai văn bản pháp luật trên, Công trái xây dựng Tổ quốc do Chính
phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng
những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ
sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
Công trái xây dựng được phát hành dưới hình thức: công trái có ghi tên,
công trái không ghi tên, công trái có in trước mệnh giá, công trái không in trước
mệnh giá. Công trái có hai loại kì hạn là 5 năm và 10 năm.
Chủ thể tham gia mua công trái rất rộng, theo Điều 2 Pháp lệnh 12/1999
thì chủ thể mua có thể là: mọi tổ chức và công dân Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Về việc thanh toán, Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thanh toán công trái;
công trái được thanh toán một lần cả gốc và lãi tại hệ thống Kho bạc nhà nước
hoặc tại các cơ quan, tổ chức khác do Chính phủ quy định.
1.2 . Trái phiếu chính quyền địa phương
Không hoàn toàn giống như mục đích vay của Chính phủ, mục đích vay
của chính quyền địa phương là nhằm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm
vụ chi của ngân sách địa phương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước; và
đầu tư vào các dự án có khả năng hoàn vốn tại địa phương. Theo Điều 38 Luật
quản lý nợ công 2009, nguồn thu từ khoản vay của UBND cấp Tỉnh sẽ thực hiện
thông qua việc phát hành, ủy quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
hoặc vay từ các nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một
năm trở lên, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phát hành hoặc uỷ quyền phát hành
nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương. (Khoản 19 Điều
3 Luật Quản lý nợ công 2009). Trái phiếu chính quyền địa phương được quy định
cụ thể tại Chương V Luật quản lý nợ công 2009 và Chương IV Nghị định 141/2003. Theo đó: 8 lOMoAR cPSD| 59773091
Chủ thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là UBND cấp Tỉnh
hoặc tổ chức được ủy quyền như: Kho bạc Nhà nước, tổ chức tài chính, tín dụng
trên địa bàn phát hành (Điều 40 Luật quản lý nợ công và Điều 56 Nghị định 141/2003)
Đây là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, vì vậy, mục đích
của loại trái phiếu này là huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc vốn đầu
tư của Ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm.
Phương thức phát hành: trái phiếu Chính quyền địa phương được phát
hành theo phương thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành. ( Điều 59 Nghị định 141/2003)
Sử dụng và thanh toán: Các khoản vay từ trái phiếu Chính quyền địa
phương được ghi thu vào ngân sách cấp tỉnh để chi cho công trình đã được phê
duyệt. Ngân sách cấp tỉnh có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi và các chi phí liên
quan đến việc tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu Chính quyền địa phương.
( Điều 62 Nghị định 141/2003)
Điều kiện phát hành trái phiếu chính quyền địa phương:
Luật quản lý nợ công đã có những quy định chi tiết hơn Nghị định
141/2003 . Cụ thể, tương ứng với mỗi mục đích vay là những điều kiện khác nhau:
vay để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa
phương; vay để đầu tư vào các dự án có khả năng hoàn vốn tại địa phương. ( Xem
Điều 39 Luật quản lý nợ công ).
Ngoài ra, hai văn bản luật trên còn quy định các vấn đề khác như: các
trường hợp đình chỉ phát hành; giới hạn tổng số phát hành; đối tượng mua trái
phiếu; lãi suất trái phiếu chính quyền địa phương, trả nợ, v.v..
2. Nội dung quy định của pháp luật về thu ngân sách từ vay ngoài nước lOMoAR cPSD| 59773091
Theo Luật quản lí nợ công năm 2009: Tại khoản 12- Điều 3 quy định; Vay
ngoài nước là các khoản vay ngắn hạn (thời hạn vay đến 01 năm), trung và dài
hạn (thời hạn vay trên 01 năm), có hoặc không phải trả lãi, do Nhà nước, Chính
phủ, doanh nghiệp, các tổ chức khác của Việt Nam vay của các tổ chức tài chính
quốc tế, Chính phủ nước ngoài vùng lãnh thổ, tổ chức cá nhân nước ngoài.Phạm
vi bài viết chỉ đề cập đến hoạt động vay nước ngoài của Chính phủ Việt Nam.
Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), vay thương mại hoặc tín dụng xuất khẩu và vay từ thị trường
vốn quốc tế (dưới hình thức phát hành trái phiếu ra nước ngoài), do cơ quan được
uỷ quyền của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam ký vay dưới danh nghĩa Nhà
nước hoặc Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người cho vay
nước ngoài. Theo đó, hình thức vay nước ngoài của Chính phủ Việt Nam quy định
tại Điều 21- Luật quản lí nợ công; Chính phủ vay thông qua phát hành trái phiếu
quốc tế của chính phủ và thoả thuận vay.
2.1 . Các hình thức vay
Thứ nhất, đối với vay thông qua phát hành trái phiếu quốc tế.
Trái phiếu quốc tế là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có thời hạn, có lãi do
chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành để vay vốn trên thị trường
tài chính quốc tế phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế. Phạm vi bài viết
chỉ đề cập đến trái phiếu do Chính phủ phát hành. Trái phiếu Chính phủ là loại
trái phiếu do Chính phủ uỷ quyền cho Bộ tài chính phát hành. Giá trị tương đương
của mỗi đợt phát hành không dưới 500 triệu USD, việc phát hành trái phiếu quốc
tế của Chính phủ phải có đủ các điều kiện nhất định, quy định cụ thể nhất tại Nghị
định số 53/2009/NĐ- CP ngày 4 tháng 6 năm 2009 về phát hành trái phiếu quốc tế.
Mục đích phát hành trái phiếu quốc chính phủ: là huy động nguồn vốn
cho đầu tư phát triển theo hình thức cho vay lại để thực hiện công trình trọng điểm 10 lOMoAR cPSD| 59773091
quốc gia các dự án đầu tư có hiệu quả cao, có nhu cầu sử dụng vốn bằng ngoại tệ,
huy động vốn để thực hiện cơ cấu lại danh mục nợ của Chính phủ.
Nguyên tắc phát hành: Điều 5- Nghị định 53/2009: chỉ phát hành trái phiếu
để huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm của quốc gia các dự án đầu
tư có hiệu quả, có khả năng trả nợ. Việc phát hành trái phiếu để cơ cấu lại danh
mục nợ cần có phương án rõ ràng đảm bảo hiệu quả hơn so với danh mục hiện tại.
- Sử dụng vốn thu được từ phát hành trái phiếu quốc tế: Tiền bán trái
phiếu chính phủ được phân bổ sử dụng theo đề án phát hành đã được phê duyệt
và tuân thủ các quy định của Luật ngân sách nhà nước, quy chế quản lí vay và trả
nợ nước ngoài của chính phủ.
Thứ hai, đối với hình thức vay thông qua thoả thuận vay – Điều 21 Luật
quản lí nợ công, quy định trình tự thủ tục kí kết và phê duyệt thoả thuận vay nước
ngoài- Điều 10 nghị định Số 79/2010/NĐ- CP
Đối với vay ODA là khoản vay nhân danh nhà nước, chính phủ Việt Nam
từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song phương, tổ chức liên
quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì vận động, xây dựng danh mục yêu cầu tài
trợ vốn ODA, tổ chức đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về vay ODA,
phân bổ vốn ODA cho chương trình, dự án và quản lý nguồn vốn. Việc tổ chức
đàm phán, ký kết thỏa thuận vay cụ thể do Bộ Tài chính chủ trì thực hiện. Trường
hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Chính phủ phân công đàm phán, ký kết
thoả thuận vay thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho Bộ Tài chính thỏa
thuận vay đã được ký kết để Bộ Tài chính tổ chức thực hiện;
Đối với vay không theo điều kiện ODA, (vay ưu đãi vay thương mại),
Bộ Tài chính chủ trì đàm phán, ký kết thoả thuận vay theo quyết định của Chính
phủ. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Chính phủ phân công đàm lOMoAR cPSD| 59773091
phán, ký kết thoả thuận vay thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho Bộ
Tài chính thỏa thuận vay đã được ký kết để Bộ Tài chính tổ chức thực hiện;
Các thoả thuận vay cụ thể được ký kết khi chương trình, dự án đầu tư được Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng vốn vay nước ngoài để
thực hiện và đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư
và các quy định của pháp luật có liên quan hoặc đề án sử dụng vốn vay cho các
mục tiêu khác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và nội dung thoả thuận vay
đã được phê duyệt. Việc ký kết và phê duyệt thỏa thuận khung về vay ODA, thoả
thuận vay cụ thể nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của Luật ký kết,
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; đối với thoả thuận vay cụ thể khác thực
hiện theo quy định sau: Căn cứ kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm và thỏa
thuận khung về vay ODA đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan chủ trì
đàm phán tổ chức đàm phán nội dung thỏa thuận vay với bên cho vay nước ngoài;
Cơ quan chủ trì đàm phán đồng thời xin ý kiến các cơ quan liên quan, trong đó có
ý kiến kiểm tra của Bộ Ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định việc ký kết thỏa thuận vay.
2.2 . Cơ chế tài chính sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ
Quy định tại Điều 22- Luật quản lí nợ công 2009 và cụ thể tại Điều 13
Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 14 tháng 7 năm 2010 về nghiệp vụ quản lí nợ công có nội dung như sau: -
Các chương trình, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và các
dự án thuộc lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và là đối tượng
chi của ngân sách Nhà nước - bao gồm cả trường hợp ngân sách địa phương được
vay lại vốn vay nước ngoài từ ngân sách Trung ương để cấp phát cho chương
trình, dự án thì được cấp phát từ vốn vay nước ngoài theo cơ chế cấp phát vốn ngân sách Nhà nước. -
Các chương trình, dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn toàn 12 lOMoAR cPSD| 59773091
bộ hoặc một phần (bao gồm cả các dự án cơ sở hạ tầng): áp dụng cơ chế cho vay
lại toàn bộ hoặc cho vay lại một phần và cấp phát một phần từ ngân sách Nhà
nước tùy theo khả năng hoàn vốn. -
Đối với khoản vay bằng ngoại tệ hoặc vay bằng hàng hoá không trực tiếp gắn với dự án:
* Vay nước ngoài bằng ngoại tệ:
+ Các khoản vay hỗ trợ ngân sách, phát hành trái phiếu quốc tế được hạch
toán thu ngân sách Nhà nước và được chuyển vào Quỹ ngoại tệ tập trung do Bộ Tài chính quản lý;
+ Ngoại tệ vay hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế được Bộ Tài chính bán
cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để chuyển vào Quỹ dự trữ ngoại hối do Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quản lý và chuyển phần tiền đồng Việt Nam tương
đương về ngân sách Nhà nước;
Các khoản vay hỗ trợ cán cân thanh toán theo thoả thuận hoán đổi tiền tệ
( nguồn ngoại tệ hoán đổi vay từ các ngân hàng Trung ương các nước khác) được
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm hoàn trả
ngoại tệ và thu hồi nội tệ khi đến hạn.
+ Tất cả ngoại tệ vay nước ngoài được sử dụng theo quyết định cụ thể của
Thủ tướng Chính và phù hợp với các tiêu chí của người cho vay.
* Vay nước ngoài bằng hàng hoá:
+ Trường hợp thỏa thuận vay có xác định đối tượng trong nước sử dụng
hàng hoá: Bộ Tài chính quy đổi ra tiền Việt Nam để hạch toán vào ngân sách Nhà
và thực hiện chi cấp phát hoặc cho vay lại đối với đối tượng sử dụng hàng hoá;
+ Trường hợp thoả thuận vay có xác định đối tượng trong nước sử dụng
vốn vay bằng hàng hoá: Bộ Tài chính chủ trì tổ chức việc nhập hàng, bán đấu giá
và nộp tiền vào ngân sách Nhà nước để sử dụng theo quy định của thoả thuận vay; lOMoAR cPSD| 59773091
+ Trường hợp thoả thuận vay không xác định đối tượng sử dụng vốn vay:
Bộ Tài chính chủ trì tổ chức việc nhập hàng, bán đấu giá và nộp tiền vào ngân
sách Nhà nước để sử dụng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
II- MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ CÁC KHOẢN VAY NỢ Ở VIỆT NAM
1. Thực tiễn thu Ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ của Việt Nam
Thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ được xem là giải pháp quan
trọng, chủ yếu để bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách nhà nước không chỉ ở các
nước trên thế giới mà áp dụng cả ở Việt Nam. Những đóng góp của các khoản vay
nợ với nền kinh tế khá rõ ràng: đạt được mức tăng trưởng GDP, hàng loạt công
trình hạ tầng, cầu cống, đường sá, trường học được cải thiện. Số tuyệt đối thu ngân
sách nhà nước tăng đều qua các năm nhưng tỷ lệ thu ngân sách nhà nước so GDP
thì có xu hướng giảm (giảm từ khoảng 27,8% năm 2010 xuống 24 ,3% năm 2015
và 25,7% năm 2019). Trong giai đoạn 2011-2019, tỷ lệ thu ngân sách nhà nước ở
mức trung bình khoảng 24,85% so GDP và nền kinh tế vẫn có mức tăng khoảng
6,3%/năm. Năm 2020 do thiệt hại bởi đại dịch COVID19 nên nền kinh tế Việt
Nam rơi vào giảm sâu và chỉ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 2,9% (mặc dù các
nước trong khu vực đều tăng trưởng âm). Theo đó, thu ngân sách cũng giảm mạnh
song chi ngân sách nhà nước tăng lên do phải chi hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản
xuất và hỗ trợ những người lao động và người dân gặp khó khăn vì đại dịch
COVID-19. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước thay đổi nhiều. Trong tổng thu ngân
sách nhà nước, thì thu trong nước chiếm từ 64 ,7% lên 82,1%. Thu từ doanh
nghiệp nhà nước giảm từ 18,7% năm 2010 xuống 15,7% năm 2015 và xuống tiếp
10,6% năm 2019. Trong khi đó, tỷ lệ thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng liên tục (từ 10,8% năm 2010 lên
13 ,9% năm 2015 và lên 13,6% năm 2019). Tỷ lệ thu từ cân đối hoạt động xuất
nhập khẩu giảm liên tục (từ 21,7% năm 2010 xuống 16,6% năm 2015 và 13,8% năm 2019). 14 lOMoAR cPSD| 59773091
I.1. Nguồn thu từ vay nợ nước ngoài
Trong giai đoạn hiện nay, việc tranh thủ sự hỗ trợ về các nguồn vốn nước
ngoài của cộng đồng tài trợ nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hôi, góp phần
thực hiện mục tiêu tăng trưởng theo các kế hoạch phát triển, phải kể đến ODA và
FDI. Trong đó, ODA ngày càng được chú ý và tìm cách thu hút một cách mạnh
mẽ. Số tiền cam kết viện trợ ODA trong năm 2010 là hơn 8 tỷ USD. Đây là kỷ lục
mới về cam kết ODA cho Việt Nam với mức tăng tới hơn 36% so với kỷ lục cũ
năm 2009 (5,9 tỷ USD, đã bao gồm cam kết muộn của Nhật Bản) và vượt ra ngoài
dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đó (dự báo ODA năm 2010 chỉ tăng từ
10 - 15%). Trong số hơn 8 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết, có 1,4 tỷ USD là
viện trợ không hoàn lại và khoảng 6,6 tỷ USD là nguồn vốn vay ưu đãi. Còn với
FDI, trong tháng 1 năm 2010, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
giải ngân được 400 triệu USD, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm 2009. Đây là mức
tăng khá cao trong tháng đầu tiên của năm 2010
Một nguồn vay nước ngoài cũng không kém phần quan trọng của Chính
Phủ Việt Nam là hình thức vay thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế. Ngày
25/1/2010, tại New York (Mỹ), đợt Giao dịch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc
tế kỳ hạn 10 năm của Chính phủ Việt Nam đã được thực hiện với lãi suất danh
nghĩa (coupon) 6,75%/năm. Lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết, trong đợt giao dịch
này, lợi tức phát hành là 6,95%. Trong tổng số trái phiếu phát hành, 56 % từ các
nhà đầu tư Mỹ, 28% từ các nhà đầu tư Châu Á, và 16% từ các nhà đầu tư Châu
Âu. Về cơ cấu nhà đầu tư, các quỹ đầu tư và công ty quản lý tài sản mua 73%, các
quỹ bảo hiểm và hưu chí mua 10%, ngân hàng 7% và phần còn lại thuộc về các nhà đầu tư khác
Tuy nhiên, do cơ cấu đồng tiền vay nợ của Việt Nam khá đa dạng nên cũng
tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Bên
cạnh đó, danh mục nợ của Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại những bất cập, chẳng
hạn như công tác huy động vốn ODA vẫn còn thụ động, nhiều khoản vay ODA lOMoAR cPSD| 59773091
còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào, phân bổ vốn vay còn dàn
trải, cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế....
1.2. Nguốn thu từ vay trong nước
Trái phiếu Chính phủ là nguồn vay lớn ở trong nước. Tính đến 20 /5/2010,
Kho bạc Nhà nước đã huy động được 26.065 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ. Tuy
nhiên, Bộ Tài chính cho biết, con số trên bằng khoảng 65% yêu cầu nhiệm vụ huy
động 5 tháng đầu năm và bằng 26% nhiệm vụ huy động trái phiếu Chính phủ cả
năm. Như vậy, đặt ra dự toán vay là rất lớn nhưng trên thực tế lại không đạt được
dự toán đó. Nguyên nhân, một phần là do lãi suất của trái phiếu Chính phủ còn
thấp so với lãi suất hiện hành ở các ngân hàng. Đa số người dân coi đây như một
hoạt động công ích, chứ không đứng trên phương diện tìm kiếm lợi ích từ người cho vay
Trong số các nguồn vay từ trái phiếu Chính phủ, việc phát hành trái phiếu
Kho bạc đã đạt được những thành tựu dáng kể. Công tác huy động vốn trong nước
cho bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước và cho đầu tư các công trình giao thông,
thủy lợi, giáo dục, y tế trong tháng 5/2010 có chuyển biến tốt. Kho bạc Nhà nước
đã tổ chức thành công 3 phiên phát hành, huy động được 8.125 tỷ đồng trái phiếu
Kho bạc với kỳ hạn từ 3-5 năm
Tuy nhiên khác với loại trái phiếu trên, tình hình vay nợ từ công trái xây
dựng lại chưa thu được kết quả tốt, một phần là do nhân dân ta chưa quen với hình
thức cho vay này và chưa hiểu được ý nghĩa của nó. Hơn nữa, cũng giống với trái
phiếu chính phủ, mức lãi suất của công trái định ra quá thấp so với lãi suất thông
thường nên không có tác dụng kích thích. Vì vậy, nhiều người chỉ mua với mục
đích đối phó, danh tiếng, đáp ứng đủ trào lưu thi đua của địa phương.
Về trái phiếu ngoại tệ, năm 2009, đứng trước khó khăn về nguồn vốn, lần
đầu tiên, Bộ Tài chính đã phát hành trái phiếu ngoại tệ. Mặc dù trái phiếu ngoại
tệ có kỳ hạn rất ngắn, song phải trả với lãi suất khá cao (3%/năm đối với kỳ hạn
1 năm; 3,2%/năm đối với kỳ hạn 2 năm; 3,6%/năm đối với kỳ hạn 3 năm). Trong 16 lOMoAR cPSD| 59773091
khi đó, vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ODA, thường có kỳ hạn vay rất dài (20
- 30 năm), với lãi suất thấp hơn (trả lãi suất bình quân 2,1% năm 2010) . Nếu so
sánh, mức lãi suất này thấp hơn rất nhiều so với vốn huy động trong nước (huy
động nội tệ phải trả lãi suất trên 10%/năm)1. Tuy nhiên, thực tế cho thấy kênh huy
động bằng trái phiếu ngoại không đạt hiệu quả như mong đợi, khả năng cung ứng
vốn khó đáp ứng nhu cầu phát triển thêm hoặc phát triển dài hạn. Hiện nay, đa
phần việc phát hành trái phiếu ngoại tệ là nhằm mục đích gom ngoại tệ, tăng khả
năng dự trữ ngoại tệ của quốc gia khi cần thiết, nhằm ổn định nền kinh tế mà thôi.
Hơn nữa, cơ quan nhà nước mà đặc biệt là bộ tài chính lại có quan điểm không
nên phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước bởi cách thức này bị đánh giá là một
hoạt động thúc đẩy xu hướng ‘đô la hoá”. Thị trường trong nước phải được phát
triển bằng đồng nội tệ”. Vì vậy, đây cũng là một nguyên nhân khiến nguồn vay từ
pháy hành trái phiếu ngoại tệ lại trầm lắng như hiện nay
2 . Thực trạng chi ngân sách nhà nước
Từ năm 2010 đến 2019, chi ngân sách luôn luôn cao hơn thu ngân sách nhà
nước. Từ mức 109,6% năm 2010 tăng lên 113,1% năm 2019. Riêng năm 2015
chi ngân sách nhà nước bằng 125% thu ngân sách nhà nước. Nói cách khác, ở
nước ta chi nhiều hơn thu. Chi thường xuyên bằng khoảng 62,8% đến 67 ,6% tổng
thu ngân sách nhà nước. Ngân sách dành cho chi sự nghiệp giáo dục luôn tăng, từ
khoảng 11,9% năm 2010 lên 14% năm 2019. Song chi cho sự nghiệp phát triển
khoa học công nghệ còn thấP (chỉ khoảng 0,63% năm 2010 tăng lên 0,74% năm
2019). Nếu cứ chi ngân sách nhà nước như thời gian vừa qua thì không thể tạo ra
nhân tố tăng trưởng tiềm năng (vì đầu tư phát triển nhân lực và phát triển khoa
học công nghệ mới tạo ra những yếu tố cho tăng trưởng lâu dài). Việt Nam với
hơn 2 triệu cán bộ công chức và 8 triệu người ăn lương, đứng đầu các nước
ASEAN (ở Việt Nam cán bộ công chức viên chức chiếm khoảng 4,8% dân số;
tương đương cứ 20 người dân có 1 công chức, viên chức 1
hưởng lương). Vì thế, chi thường xuyên cho khoản lương là rất lớn (ở Thái Lan
cán bộ công chức chiếm khoảng 4,6%, Singapore 2,4%, Indonesia 1,8%, lOMoAR cPSD| 59773091
Philippine 1,2% so tổng dân số). Năm 2018, lao động khu vực công của Việt Nam
có khoảng 5,2 triệu người. Chi NSNN cho đầu tư phát triển cũng bộc lộ nhiều bất
cập. Trong tổng vốn thực hiện của khu vực nhà nước, vốn vay chiếm tỷ trọng
khoảng 29,5% (năm 2019). Tuy vốn vay có giảm cả số tuyệt đối và số tương đối
nhưng vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước.
Đó là mức khá cao. Nó đặt ra nhiều vấn đề phải suy ngẫm.
Trong thời kỳ 2011-2019, chỉ số lôi kéo vốn tư nhân còn hạn chế (tức là 1
đồng vốn đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước mới lôi kéo được 3,62 đồng
vốn tư nhân năm 2011, 3,63 đồng năm 2015 và 4,14 đồng năm 2019). Tỷ lệ đóng
góp của ĐTNSNN vào gia tăng GDP chỉ đạt khoảng 13 -13,6%; trong khi đó tỷ
lệ đóng góp vào tổng vốn đầu tư xã hội chiếm khoảng 17%. Điều này cho thấy
hiệu quả ĐTNSNN còn hạn chế.
3 . Một số giải pháp góp phần hoàn thiện nguồn thu ngân sách từ các
khỏan vay nợ ở Việt Nam
Thứ nhất: Về vấn đề quản lý nguồn vay
Hiện nay, Việt Nam vẫn gặp phải khó khăn trong việc vay và trả nợ. Một
phần là do, việc vay quá tràn lan khiến nguồn thu từ vay nợ chiếm tỷ trọng cao
trong GDP. Mặt khác, Nhà nước lại chưa đề ra mức trần về mức nợ công an toàn
một cách toàn diện. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần có những văn bản pháp luật quy
định cụ thể quy định về ngưỡng an toàn và hạn mức vay phù hợp (bao gồm cả vay
trong nước và vay nước ngoài). Bên cạnh đó, cũng về mặt pháp luật, để tăng cường
hiệu quả quản lý nguồn vay, Nhà nước cũng cần hoàn thiện các chính sách về
quản lý vay, rà soát các khoản vay, quy đinh các chế độ báo cáo đối với tất cả các khoản vay, v.v..
Theo như thực trang ở trên, từ năm 2008 đến nay, mức vay nợ cả trong
nước và nước ngoài không ngừng tăng nhanh. Điều đó đồng nghĩa với việc rủi ro
trong vay nợ, thanh toán nợ, biến động các khoản vay có lãi suất thả nổi.
Chúng ta đang phải vay những khoản vay với đa dạng về đồng tiền, lãi suất khác
nhau. Trong khi đó, việc phân tích dự báo về biến động của các đồng tiền, biến 18 lOMoAR cPSD| 59773091
động của lãi suất trên thị trường thế giới đều chủ yếu dựa vào những dữ liệu trên
thị trường, còn chúng ta vẫn chưa xây dựng được một hệ thống dữ liệu và những
dự báo riêng. Vì thế cơ chế cảnh báo sớm các rủi ro trong vay nợ là rất cần thiết.
Cơ chế cảnh báo đó cần được thiết lập trong một cơ quan có tính chuyên
môn cao – cơ quan về quản lý nợ công. Luật quản lý nợ công năm 2009 đã có hiệu
lực nhưng hầu như mọi việc lại được giao cho Bộ Tài chính nói chung. Còn việc
thành lập một cơ quan riêng, độc lập hay nằm trong bộ tài chính với cơ cấu, chức
năng, quyền hạn như thế nào lại chưa quy định. Cần phải khẳng định, cơ quan
chuyên biệt về quản lý nợ công là mô hình của nhiều quốc gia, chúng ta nên hướng
theo. Nhưng chuyên trách ở đâu, như thế nào phải tính. Có nước tổ chức cơ quan
chuyên quản lý nợ công nằm trong Bộ Tài chính. Có nước thành lập cơ quan kinh
doanh độc lập, hoạt động theo đơn đặt hàng của Chính phủ, hoạt động giống một
doanh nghiệp. Và dù có hay tạm thời chưa có cơ quan chuyên biệt đó, đội ngũ cán
bộ có chuyên môn cao, nhanh nhạy với thị trường là điều hết sức cần thiết.
Thứ hai: Về các khoản vay nợ
Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước
ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả
nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Do đó để có thể phát
triển kinh tế bền vững thì trong dài hạn, Chính phủ cũng cần giảm dần tỷ lệ vay
nợ nước ngoài, đặc biệt là các nguồn vốn dài hạn (các khoản vay ODA bao giờ
cũng đi kèm các điều kiện từ phía Chính phủ các nước cho vay) thay vào đó là
chính sách kích thích tiết kiệm trong nước, và quan trọng hơn cả là sử dụng triệt
để và có hiệu quả nguồn vốn tiết kiệm trong nước. Kênh huy động vốn dài hạn và
hữu hiệu nhất cho Chính phủ đó chính là phát hành trái phiếu Chính phủ.
+ Việc phát hành trái phiếu quốc tế thời gian tới đây phải nhìn nhận lại.
Việc phát hành không thường xuyên như thời gian qua đã ảnh hưởng nhiều đến
chi phí cũng như nguồn vốn vay. Tốt nhất là nên được phát hành thường xuyên
và phải tính toán hiệu quả sử dụng, dùng vào đâu. Chính phủ không phát hành trái lOMoAR cPSD| 59773091
phiếu quốc tế vay thương mại để chi tiêu ngân sách mà chỉ phát hành cho những
dự án đầu tư có hiệu quả.
+ Nghiên cứu để từng bước huy động trái phiếu nói riêng và vay nợ trong
nước nói chung thì cần phù hợp với lãi suất thị trường và mở rộng các ưu đãi của
pháp luật liên quan. Nếu lãi suất của công trái quá thấp so với lãi suất ngân hàng
và lợi tức cổ phần hoặc tỉ lệ lạm phát (tỉ lệ trược giá hàng hóa và dịch vụ) thì người
mua công trái sẽ bị thiệt thòi và không kích thích người dân bỏ vôn cho vay. Bên
cạnh đó, để kích khả năng huy động trái phiếu, phải thực hiện nhiều biện pháp để
tăng mức độ hấp dẫn người khác mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập, đồng thời còn
phải triển khai các biện pháp khác kể cả tuyên truyền, vận động hoặc để tìm cách
khác để huy động tối đa các nguồn tiền trong dân cư nhằm hòan thành kế hoạch vay đã định.
+ Thực hiện chế độ thanh toán các khoản vay một cách song phằng tiền
gốc và tiền lãi theo đúng thời gian quy định. Điều này có tác động rất lớn đến yếu
tố tâm lý và tập quán cho vay của người dân
III. PHẦN KẾT LUẬN
Các khoản thu từ vay nợ hiện đang đóng một phần quan trọng, góp phần
giải quyết sự thâm hụt trong ngân sách nhà nước, cân đối thu-chi, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên việc vay nợ cả trong nước và ngoài nước sẽ
để lại những hậu quả to lớn với nền kinh tế nếu việc sử dụng nguồn vốn này không
đúng mức, đúng mục đích, đảm bảo khả năng hoàn nợ như kìm hãm các hoạt động
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế do phải tăng lãi suất huy động vốn trong nước
hay làm mất khả năng thanh toán quốc tế và dự trữ của quốc gia, vấn đề phụ thuộc
nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế & làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi
trả nợ. Chính vì vậy, việc quản lí các khoản vay trong nước và ngoài nước là hết
sức cần thiết. Chính phủ cần có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn về việc sử
dụng các khoản vay cũng như cần có các biện pháp quản lí và kiểm tra một cách
chặt chẽ nhằm đảm bảo nguồn vốn vay sẽ được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả./. 20