Bài kiểm tra môn chủ nghĩa xã hội khoa học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày khái niệm GCCN ở Việt Nam và nội dung SMLS của GCCN ở Việt Nam. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân
làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI KIỂM TRA MÔN CNXH
Câu 1: Trình bày khái niệm GCCN ở Việt Nam và nội dung SMLS của GCCN ở Việt Nam.
A, Khái niệm GCCN ở Việt Nam:
Quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam. Trong
tác phẩm “Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả
những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công
nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm
nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân”(1). Tuy nhiên, để Người cũng giải
thích, trong số đó, không phải tất cả họ đều là giai cấp công nhân và chỉ ra tiêu chí
căn bản để xác định đó là giai cấp công nhân đúng nghĩa mang đầy đủ “đặc tính”
của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người
viết: “Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy,
hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê
ở các cửa hàng, những cố nông, vân vân..., cũng thuộc về giai cấp công nhân.
Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân”.
Về đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân
Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, đó là: “Đặc tính
cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ
luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ
chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể
thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng
thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc
dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống
nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho
phương thức sản xuất hiện đại.
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai
cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày
càng có trình độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công
nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong
công trường thủ công. Giai cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những
người thợ thủ công thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ
công và cuối cùng đến những nguời công nhân trong công nghiệp hiện đại. "Trong
công trường thủ công và trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng
công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc".
Trong xã hội tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng pháp triển, máy móc
ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho những thợ thủ công
bị phá sản, những người nông dân mất việc làm buộc phải gia nhập vào hàng ngũ
công nhân. Theo sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác
đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp
vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một
phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con
đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại".
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân
không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm
sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là
đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động
làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
"Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân
hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và
chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát
triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiểm ăn từng bữa một,
là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì
thế, học phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường với mức độ như nhau".
Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã đưa ra
định nghĩa: "Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng
việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bẳng lợi nhuận của bất cứ tư bản
nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống
còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến
tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh
không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô
sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX" ... "Giai cấp vô sản là do cuộc cách
mạng công nghiệp sản sinh ra...".
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga XôViết, V.I.Lênin đã
hoàn thiện thêm khái niệm giai cấp công nhân. Theo ông, sự phân chia giai cấp
trong xã hội phải dựa vào địa vị khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ
đối với tư liệu sản xuất, trong tổ chức, quản lý sản xuất và trong phân phối sản
phẩm. Qua thực tiễn cách mạng ở Nga, V.I.Lênin đã làm rõ hơn vai trò của giai cấp
công nhân trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, về cơ bản
giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Địa vị kinh tế và chính trị của họ đã có
những sự thay đổi căn bản.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nửa sau
thế kỷ XX, giai cấp công nhân hiện đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với trước đây.
Xét về phương thức lao động, nếu lao động của người công nhân trọng thế kỷ XIX
chủ yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận
công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy
công nhân có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân
ở các nước tư bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận công
nhân đã có một số tư liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các
công đoạn phụ cho các xí nghiệp chính; một bộ phận nhỏ công nhân đã có cổ phần
trong các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế số cổ phần và tư liệu
sản xuất của giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận
tư liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vần nằm trong tay các nhà tư bản lớn.
Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao
động cho các nhà tư bản,
Xuất phát từ quan niệm cua các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện
nay, có thể nhận định: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là
lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu
của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước
tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản
không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì
lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ".
B, Sứ mệnh lịch sử của GCCN ở Việt Nam
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của
phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột và xây dựng thành công xã hội
mới - chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi
nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc
cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong” và “Thực hiện sự nghiệp giải phóng
thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công
nhân hoàn thành Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt nam hiện nay 124
được sứ mệnh lịch sử của mình. V.I.Lênin cho rằng: “Điểm chủ yếu trong học
thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là
người xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen,
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài, khó
khăn, phức tạp và cần phải trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: giai cấp vô
sản biến thành giai cấp thống trị, chiếm lấy chính quyền nhà nước. Giai đoạn thứ
hai: giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản, để tiến hành cách mạng xã hội trên tất cả các lĩnh
vực. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp
đông đảo quần chúng nhân dân lao động, tiếp thu lý luận khoa học cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin để thành lập nên chính đảng tiên phong của mình và sẵn
sàng đấu tranh khi có thời cơ cách mạng.
Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết
sức quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt
Nam không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực
lượng cách mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm
xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân
tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương sứ mệnh lịch sử lớn lao
không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là lực lượng tiên phong,
đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Để khẳng định hơn nữa về vai trò và vị trí của giai
cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa X của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang
phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ côngnghiệp, hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Giai cấp công nhân nước ta
có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua chính đảng
của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”
Quan niệm trên, tuy chưa phải là định nghĩa, nhưng đã phản ánh được những nội
dung chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là cơ sở để nhận biết, phân
biệt giai cấp công nhân Việt Nam với các giai tầng khác trong cơ cấu xã hội, đồng
thời cũng để phân biệt giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân trên thế
giới. Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897). Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-
1918), giai cấp công nhân Việt Nam mới có 10 vạn người, trình độ các mặt còn hạn
chế. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), giai cấp công nhân
nước ta đã tăng lên 22 vạn người, chiếm 1,2% dân số. Vừa mới ra đời, cùng với
quá trình phát triển đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành một bộ phận
của giai cấp công nhân quốc tế hiện đại, có những đặc điểm chung của giai cấp
công nhân quốc tế, đồng thời do điều kiện lịch sử cụ thể, còn có những đặc điểm
riêng: Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống
yêu nước, đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm; nỗi nhục mất nước cộng với
nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc, nên có tinh thần cách
mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước
giai cấp tư sản Việt Nam; khi mới ra đời dù còn non trẻ do số lượng ít, trình độ hạn
chế, mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán của nông dân; nhưng đã nhanh
chóng trưởng thành, đảm đương vai trò cách mạng trong không khí sục sôi của một
loạt phong trào yêu nước. Các phong trào yêu nước đã cổ vũ tinh thần yêu nước, ý
chí kiên cường cho nhân dân ta, mặc dù đều thất bại do bế tắc về đường lối. Giai
cấp công nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác, nên có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với đông đảo quần chúng
nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm liên minh được
với nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là điều kiện đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Cùng lúc đó
phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, nên giai cấp công nhân Việt
Nam nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân quốc tế, thành lập được chính đảng tiên phong của mình và nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị độc lập giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam. Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công
nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, luôn là lực lượng chủ đạo, đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Câu 2:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư
sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân
làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Đặc trưng của nền dân chủ XHCN: Đặc trưng về chính trị: Dưới sự lãnh đạo
duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân (đảng Mác - Lênin) mà trên mọi
lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện các quyền dân chủ,
làm chủ, quyền con người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích
của nhân dân. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của
nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích
riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của
toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
do Đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, bởi vì, đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ
nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị.Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị
chính trị. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người
làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu
tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng
góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên
nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân
dân chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. V.I.Lênin còn nhấn mạnh
rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cổ đại đa số dân cư, có những
người lao động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào
công việc Nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin đại diễn đạt một cách khái quát về
bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp
triệu lần dân chủ tư sản” Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có
bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Do vây, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất sợ với nền dân chù tư sản ở bản
chất giai cấp (giai cấp công nhân và gia cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ
chế đa nguyên; một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản). Đặc trưng về kinh tế: Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất
chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao
những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động Bản chất kinh
tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát triển sản
xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác – Lênin
về quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết đám bảo
quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong
quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của
người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các
chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất kỳ ai.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại
đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực,kìm hãm...
của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công...
đối với đa số nhân dân. Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và
thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu Đặc trưng về tư
tưởng – văn hóa – xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác –
Lênin - hệ tư tưởng giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức
xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn
hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến
bộ xã hội...mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần; được
nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân
chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện khát vọng
tự do được sáng tạo và phát triển của con người Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã
hội.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng
tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Với
những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực
hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hòa động tự giác của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ
nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần
chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng nâng cao trình độ giác
ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng thực hiện
hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát triển xã hội. Chỉ
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống
lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân
dân. Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về
chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ
nhau mà ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời và phát triển