


Preview text:
lOMoAR cPSD| 59769538
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NÔỊ TRUNG TÂM ELEA RNING
BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: TÂM LÝ HỌC TƯ PHÁP
Câu 4. Phân tích đặc điểm tâm lý của người làm chứng trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa hình sự. Về nhận thức -
Tại phiên tòa, nhận thức của người làm chứng đã chủ động hơn so với
khi họ tham gia điều tra. Quá trình cung cấp lời khai tại cơ quan điều tra đã giúp cho
người làm chứng có thể hình dung được những vấn đề cần phải trình bày tại phiên
tòa, họ có thể đã đoán được, Tòa án sẽ đặt ra cho họ những câu hỏi như thế nào và
chuẩn bị trước câu trả lời. Có thể thấy, tại phiên tòa, việc cung cấp chứng cứ của
người làm chứng trở nên chủ động hơn so với giai đoạn điều tra. Lời khai của người
làm chứng là lời khai lặp lại, do vậy, họ trình bày lưu loát và dễ hiểu hơn. -
Tại phiên tòa, người làm chứng có thể cung cấp những thông tin mới.
Quá trình hình thành lời khai của người làm chứng không kết thúc ở giai đoạn điều
tra. Sau khi cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra, người làm chứng vẫn tiếp tục
suy nghĩ về diễn biến của vụ án. Mặt khác, tại phiên tòa, họ có điều kiện nghe lời
khai của các chủ thể khác như: lời khai của bị cáo, người bị hại và của các nhân
chứng khác. Tất cả các yếu tố trên tác động đến trí nhớ của người làm chứng, làm
cho họ có thể cung cấp những thông tin mới so với ở giai đoạn điều tra. -
Lượng thông tin mà người làm chứng cung cấp tại phiên tòa có thể giảm
so với lượng thông tin mà họ đã cung cấp cho cơ quan điều tra. Sau khi cung cấp lời lOMoAR cPSD| 59769538
khai ở cơ quan điều tra, có một số tình tiết có thể được người làm chứng cho là không
quan trọng vì họ thấy điều tra viên không ghi vào biên bản, thì tại phiên toà họ sẽ
không đưa ra các thông tin đó. Đồng thời, do người làm chứng đã đoán được những
điều cần phải trình bày, họ suy nghĩ trước cách diễn đạt. Điều này có thể dẫn đến
những thiếu hụt, sai lệch nhất định trong lời khai của họ. Khi xét hỏi người làm
chứng, Hội đồng xét xử phải tính đến tình tiết này để đặt ra các câu hỏi, và tạo các
điều kiện để họ có thể trình bày hết những gì họ biết, phòng ngừa sự thiếu hụt các
thông tin quan trọng do sai lầm của cơ quan điều tra và sự nhận định chủ quan của người làm chứng.
Về hành vi xử sự
Tại phiên tòa, người làm chứng có thể chịu ảnh hưởng của tác động ngoại cảnh
mà hành vi có những đặc trưng sau: -
Họ có thể thay đổi thái độ khai báo, thay đổi lời khai. Nếu ở giai đoạn
điều tra, người làm chứng không có điều kiện giao tiếp với các chủ thể khác, thì sang
giai đoạn xét xử, họ đã có sự giao lưu tại phòng xử án. Trước khi Hội đồng xét xử
làm việc, các nhân chứng có thể gặp gỡ nhau, hoặc có sự giao tiếp với những người
khác. Thông qua sự giao tiếp đó, những người làm chứng có thể ảnh hưởng đến nhau,
hoặc chịu ảnh hưởng của những người có mặt trong phòng xử án, hoặc chịu ảnh
hưởng của dư luận xã hội mà thay đổi thái độ đối với người phạm tội, từ đó dẫn đến
thay đổi lời khai. Vì vậy, trong các trường hợp nhạy cảm mà xét thấy người làm
chứng có thể có những giao động tâm lý do những ảnh hưởng này, thì Toà án có thể
áp dụng điều 211 Bộ Luật Tố tụng hình sự, bố trí cho người làm chứng đợi trong
phòng cách ly để đảm bảo cho sự ổn định trong tâm lý của họ. -
Do những ức chế về tâm lý dưới ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh,
hành vi của người làm chứng có thể trở nên thụ động. Ở giai đoạn điều tra, người
làm chứng cung cấp thông tin về vụ án trong điều kiện chỉ có họ với điều tra viên.
Do vậy, họ không bị ức chế về tâm lý. Tại phiên toà, việc cung cấp lời khai của người
làm chứng diễn ra trong sự có mặt của đông đảo những người khác. Tính chất công
khai của phiên toà, sự tập trung chú ý của nhiều người... có thể ảnh hưởng xấu đến lOMoAR cPSD| 59769538
việc cung cấp lời khai của người làm chứng, gây ức chế về tư duy, xúc cảm, làm cho
người làm chứng e ngại, rụt rè, không muốn khai báo.
Về trạng thái tâm lý
Tại phiên toà, người làm chứng thường có trạng thái tâm lý căng thẳng hơn so
với ở giai đoạn điều tra, có thể do các nguyên nhân sau: -
Người làm chứng có thể cảm thấy không được an toàn khi khai báo do
sự có mặt của nhiều người và họ có thể sợ bị trả thù; -
Sự có mặt của bị cáo hoặc người bị hại có thể gây đến cho người làm
chứng những xúc cảm trái ngược. làm hình thành những xu thế khác nhau trong tâm
lý người làm chứng. Chẳng hạn, khi bị cáo là ân nhân của người làm chứng thì việc
họ phải cung cấp chứng cứ về hành vi phạm tội trong sự có mặt của bị cáo sẽ có thể
làm cho người làm chứng bị căng thẳng. -
Phản ứng của những người có mặt có thể làm xuất hiện ở người làm
chứng những ức chế trong tâm lý.
Lời khai của ngươì làm chứng tại phiên toà là nguồn chúng cứ quan trọng.Việc
phân tích và hiểu được các biểu hiện tâm lý của người làm chứng, nguyên nhân của
chúng giúp cho người cán bộ xét xử có những tác động phù hợp đến tâm lý người làm chứng.