Bài luận - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Bài luận - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về xuất khẩu tư bản
và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Họ và tên sinh viên : Phạm Thị Huyền
Mã sinh viên : 11222946 Số thứ tự : 19
Lớp học phần : 02
Lớp chuyên ngành : Pohe 5- Quản trị Kinh doanh thương mại Khóa : 64
Giáo viên hướng dẫn : Thầy Nguyễn Văn Thuân lOMoAR cPSD| 44879730 1
Hà Nội- Tháng 1, năm 2023 POHE 5 - QUẢN
TRỊ KINH DOANH THƯ ƠNG MẠI
A. LỜI CẢM ƠN 3 B. GIỚI
THIỆU 3
Trình bày vấn đề
C. NỘI DUNG I.
Vật chất và ý thức 3 1.
Quan niệm về vật chất của triết học 4 Mác- Lênin 2.
Quan niệm về ý thức của triết học 5 Mác- Lênin
II. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức 1.
Vai trò của vật chất với ý thức 6 2.
Vai trò của ý thức với vật chất 8
III. Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của
Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 1.
Nguyên nhân áp dụng 9 2.
Các nội dung đã vận dụng, kết quả đạt được 10 và những
mặt hạn chế cần khắc phục 3.
Giải pháp trong tương lai 13
D. KẾT LUẬN 14
B À I T Ậ P L Ớ N M Ô N T R I Ế T H Ọ C 2
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730 A. LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin gửi lời cảm ơn đến trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã đưa môn Kinh
tế chính trị Mác- Lênin vào trong chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến giảng viên bộ môn –cô Nguyễn Thị Thanh Hiếu đã chỉ bảo, dạy dỗ và sửa đổi cho em
những sai sót mà em mắc phải trong quá trình học. Trong thời gian được theo học cô, em đã
học thêm nhiều kiến thức bổ ích, sửa đổi và phát huy tinh thần làm việc hiệu quả, nghiêm túc.
Đây là những điều rất cần thiết cho quá trình học tập và làm việc sau này của em.
Bộ môn Kinh tế chính trị Mác- Lênin là môn học thú vị, vô cùng hữu ích đối với mỗi sinh
viên. Tuy nhiên, vì khả năng của bản thân và thời gian tiết học còn hạn chế, mặc dù đã cố gắng
nhưng chắc chắn những hiểu biết và kỹ năng về môn học này của em vẫn còn nhiều thiếu sót.
Do đó bài luận của em khó có thể tránh khỏi những sai lầm và chưa chuẩn xác, kính mong cô
xem xét và góp ý giúp bài luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. B. GIỚI THIỆU
Những thành tựu của công cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian qua đã và đang tạo ra thế
và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào thời kì phát triển mới. Nhiều
tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa đó được tạo ra. Quan hệ của nước ta với
các nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập
với cộng đồng thế giới tăng thêm.
Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngay càng cao, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy
nhiên do ưu thế về vốn và công nghệ, thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến cho các
nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất
phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng và nhà nước ta cần tiếp tục
tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng
vai trò then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Chính vì vậy tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất và ý 3 lOMoAR cPSD| 44879730
thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng nó vào nền kinh tế thị trường giúp cho công cuộc xây dựng
nền kinh tế nước ta ngày càng đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc. C.NỘI DUNG
I. Vật chất và ý thức
1. Quan niệm về vật chất của triết học Mác- Lênin
Rút kinh nghiệm của những nhà triết học đi trước, đặc biệt kế thừa những tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã định nghĩa vật chất như sau:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Như vậy theo Lênin, vật chất là “một phạm trù triết học”. Tức định nghĩa nó với khái
niệm rộng nhất, chung nhất để phân biệt nó với các dạng vật chất trong các ngành khoa
học cụ thể với những biểu hiện đặc trưng như có sinh ra và mất đi, có giới hạn. Ngược
lại, vật chất trong quan điểm của Lênin tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra
cũng không mất đi. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu
hình của chủ nghĩa duy vật là đồng nhất vật chất với những hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Mặt khác, vật chất là “thực tại khách quan”, đây là thuộc tính cơ bản nhất để phân biệt
vật chất với ý thức. Vật chất là tất cả những gì có thật không phụ thuộc vào cảm xúc và
độc lập với ý thức con người, dù cho con người có nhận thức hay không nhận thức được
nó. Qua đó, vật chất sinh ra và biến đổi các đặc điểm hình thái của con người.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác. Vật chất đã được các giác quan
cùa con người “ chép lại, chụp lại và phản ánh”. Từ đó, mà sự tồn tại của vật chất là tất
yếu dù con người có nhu cầu đối với nó hay không.
Với định nghĩa này Lênin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học, đó là xác
định được vật chất, khẳng định vật chất có trước và sinh ra ý thức, nhấn mạnh sự phản
ánh vật chất trong ý thức của con người. Đồng thời, định nghĩa này đã bác bỏ các quan
niệm của chủ nghĩa duy tâm, thuyết ”bất khả tri”,... khắc phục được những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất. Mang ý nghĩa to lớn đối với các khoa học cụ 4
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
thể, giúp các nhà khoa học yên tâm trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức
mới của vật thể ở trong thế giới vật chất.
Đi sâu vào nghiên cứu, triết học Mác- Lênin đã đưa ra những quan điểm đúng đắn về đặc
điểm của vật chất như sau:
- Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
- Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không vận động.
- Vật chất vận động trong không gian và thời gian.
- Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của dạng vật chất cụ thể và là
hình thức tồn tại của vật chất. .
2. Quan niệm về ý thức của triết học Mác- Lênin
Kiên định trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cùng với những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội, triết học Mác-Lênin đã khẳng định bản
chất phản ánh vật chất của ý thức và rút ra vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
“Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan và óc người”
Để hiểu ý thức là gì, chúng ta cần phải tìm hiểu về nguồn gốc của nó. Theo theo chủ nghĩa
duy vật Mácxít khẳng định, ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Trong đó nguồn gốc tự nhiên có 2 yếu tố không thể tách rời, luôn tồn tại song song với
nhau là não người và thế giới khách quan. Về phần não người, đây là dạng vật chất có tổ
chức có nhất trong giới tự nhiên và là cơ quan duy nhất sinh ra ý thức. Bộ não càng hoàn
thiện thì ý thức của con người càng hoạt động mạnh mẽ, phong phú và sâu sắc. Mặt khác,
thế giới khách quan với vai trò là cái sinh ra hình ảnh trong bộ não người, đã tự khẳng định
nguồn gốc tự nhiên thứ hai của ý thức. Có thể nói, quan hệ giữa ý thức và thế giới khách
quan là mối quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện.
Nhưng sự phát triển của giới tự nhiên mới chỉ tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh,
hay còn gọi là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Còn hoạt động thực tiễn của loài người như
lao động và ngôn ngữ mới trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. Thông qua lao động- 5 Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
quá trình mà con người sử dụng công cụ lao động tác động và tự nhiên và tạo ra các sản
phẩm để thỏa mãn nhu cầu, mà cấu trúc cơ thể và bộ não người phát triển. Đồng thời, nhờ
có lao động mà con người ngày càng phát hiện được các thuộc tính của tự nhiên, giúp cho
thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động và
biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những
hiện tượng ấy, tác động vào bộ não người và tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức
nói riêng và ý thức nói chung. Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang
tính xã hội đã làm loại sinh nhu cầu truyền đạt kinh nghiệm và giao tiếp giữa các thành
viên trong xã hội. Chính từ nhu cầu đó, cơ quan ngôn ngữ trong bộ não người được hình
thành và hoàn thiện dần.
Áp dụng thực tiễn và rút ra những lý luận khách quan, chủ nghĩa duy vật đã khẳng định
những bản chất cơ bản của hình thức như sau:
Một là, thừa nhận đối tượng nhận thức là hiện thực khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người.
Hai là, khẳng định con người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Không có
cái gì là con người không nhận thức được, chỉ có những cái con người chưa được tìm hiểu.
Ba là, thừa nhận nhận thức là một quá trình biện chứng, tích cực và tự giác sáng tạo. Quá
trình ấy diễn ra theo một trình tự từ chưa biết gì đến biết sâu sắc, từ biết ít đến biết nhiều,
từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Cuối cùng là, coi thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận
thức. thực tiễn là động lực, mục đích của ý thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ
biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có trước và quyết định ý thức, song ý thức
không hoàn toàn thụ động mà có tính độc lập tương đối, tác động ngược trở lại vật chất.
1. Vai trò của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nêu ra rằng: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc và quyết định ý thức vì: 6
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người nên chỉ khi có
con người mới có ý thức. Sâu xa hơn, trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người lại là kết quả của quá trình phát triển và là sản phẩm của thế giới vật
chất. Chúng ta biết rằng, con người xuất hiện trên trái đất này mới chỉ vỏn vẹn 6 triệu năm,
trong khi đó quan điểm về thế giới vật chất hay là vô cùng, vô tận không do ai sinh ra, cũng
không ai làm mất đi, chúng ta không thể biết được điểm khởi đầu của thế giới vật chất cũng
như khi nào nó kết thúc. Chính vì vậy, các lý lẽ trên đã khẳng định rằng vai trò của vật chất
với ý thức được thể hiện ở chỗ vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau và nguồn gốc
của ý thức là vật chất.
Mặt khác, triết học Mác- Lênin cũng khẳng định mọi sự biến đổi của ý thức do vật chất
quyết định. Tức là, khi vật chất thay đổi thì sớm muộn gì ý thức cũng thay đổi theo. Điều
này lý giải cho câu hỏi tại sao khi não bộ con người bị ảnh hưởng thì đời sống tinh thần sẽ
bị rối loạn và hơn thế khi não bộ càng phát triển thì những hình ảnh trong ý thức con người
sẽ càng thêm phong phú, sản sinh ra sự sáng tạo và tri thức. Đời sống xã hội ngày càng văn
minh và khoa học ngày càng phát triển đã góp phần chứng minh điều đó. trong quá khứ,
khi loài người còn sống bày đàn, dựa vào thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn giản và
không phức tạp. Cùng với bước tiến của đời sống vật chất, ý thức của con người ngày càng
mở rộng, không chỉ hiểu biết về hiện tại mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá
khứ và dự kiến những điều xảy ra trong tương lai. Sự vận động biến đổi không ngừng của
thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức con người.
Hơn thế nữa, dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là lăng kính phản ánh hiện thực khách
quan, phản ánh thế giới vật chất, nội dung của ý thức do vật chất quyết định.
Tức là, có vật chất luôn vận động và phát triển được nhìn nhận và phản ánh vào ý thức thì
ý thức mới có nội dung. Khi con người càng lao động và tìm hiểu sâu vào các thuộc tính
của tự nhiên thì tri thức và tư duy của con người sẽ ngày càng phát triển và sâu sắc hơn, từ
mông muội, ngu si cho đến văn minh, hiểu biết.
Cuối cùng, vật chất còn quyết định bản chất của ý thức. Con người không nhìn nhận vật
chất như là soi gương, chụp ảnh hay chỉ nhận định vật chất một cách cảm tính. Con người
đã lao động và có những hoạt động thực tiễn để khám phá thế giới vật chất, đấy chính là cơ
sở để hình thành, phát triển ý thức. Qua hoạt động vật chất ấy mà ý thức con người có sự
phản ánh và sáng tạo. Hiểu biết về thế giới vật chất để sáng tạo và thay đổi những điều 7 Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
xung quanh nhằm thỏa mãn mục đích của con người, đồng thời vận dụng sự sáng tạo của
bản thân để vận dụng vào việc khám phá những điều chưa biết.
2. Vai trò của ý thức với vật chất
Trong quá trình khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, chủ
nghĩa mác Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò, tính độc lập của nhân tố tinh thần.
Có thể nói, ý thức có tác động mạnh mẽ ngược trở lại vật chất. Điều này được thể hiện rõ
ràng trên những khía cạnh sau:
Đầu tiên, vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò
con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp hay tác động gì đến thế giới hiện thực mà
phải thông qua các hoạt động thực tiễn. Tuy vậy, mọi hoạt động này phải chịu ý thức chỉ
đạo. Nên ta có thể khẳng định rằng vai trò của ý thức không phải là tạo ra hay trực tiếp biến
đổi thế giới vật chất, mà là trang bị cho con người những hiểu biết, những tri thức về thực
tại khách quan, để con người có thể xác định mục tiêu và tìm cách hoàn thiện mục tiêu ấy.
Bên cạnh đó, ý thức có tính năng động sáng tạo nên thông qua chỉ đạo thực tiễn của con
người, ý thức có thể tác động trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức
độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan và các điều kiện
khách quan. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Tức là, ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hành động do tư tưởng chỉ đạo.
Cụ thể, nếu ý thức phản ánh đúng đối tượng vật chất thì nó có thể dự báo hoặc đưa ra những
lý luận định hướng đúng đắn, góp phần động viên, cổ vũ khai thác mọi tiềm năng sáng tạo,
khiến cho sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Mặt khác, ý thức sẽ tác động tiêu cực
đến vật chất khi nó phản ánh không đúng hoặc phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự thật. Điều
này đã được chứng minh qua suốt chiều dài lịch sử hay trong quá trình phát triển của nhân
loại. Như là những tư tưởng duy tâm tôn giáo hay sự bá quyền của các tư tưởng sai lệch
trong quá khứ đã kìm hãm sự phát triển và hạn chế năng lực thực tiễn của con người, gây
ra những tổn thất to lớn chúc cả xã hội.
Hơn thế nữa, tính độc lập tương đối của ý thức còn thể hiện ở chỗ ý thức có thể thay đổi
nhanh chậm hoặc đi song hành với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm 8
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
so với thế giới vật chất. Ý thức ở đây đã có đời sống riêng, một quy luật vận động riêng,
không phụ thuộc một cách cứng nhắc vào vật chất.
Ta có thể khẳng định rằng, khi xã hội càng phát triển thì vai trò có ý thức càng to lớn. Đặc
biệt, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì nhu cầu về tính
năng động và sáng tạo của ý thức càng tăng cao. Chúng ta không thể thụ động trong quá
trình tìm kiếm tri thức vì tốc độ phát triển đáng kinh ngạc của xã hội ngày nay.
III. Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của Đảng ta trong
quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
1. Nguyên nhân áp dụng
Sau thắng lợi của của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước độc lập thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam đã có sự thay đổi lớn: từ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chuyển sang
khôi phục, ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Điều này đã đặt ra yêu
cầu cấp bách cho các nhà lãnh đạo là tìm ra những chủ trương, chính sách phù hợp để thúc
đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Tuy vậy, do ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém và
những định hướng chưa đúng đắn đã khiến cho nền kinh tế của nước ta tăng trưởng rất
chậm chạp. Như là, Đại hội đảng lần thứ IV đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch những năm
1976- 1980 vượt ngoài khả năng của kinh tế lúc đó, nhất là về việc xây dựng nền công
nghiệp nặng mặc cho cơ cấu kinh tế nhiều mặt còn mất cân đối. Hay như, đại hội Đảng lần
thứ V vẫn chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trệ trong nền
kinh tế, lại phạm những sai lầm mới trong việc phân phối các sản phẩm. Điều này còn xuất
phát từ thói quan liêu bao cấp, và sự nóng vội trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa khiến
cho lực lượng sản xuất bị kiềm hãm và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
Tình hình trên cho thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức( chủ trương chính sách sai lầm)
đến vật chất( nền sản xuất và kinh tế của nước ta thời đó). Theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, khẳng định rằng nếu ý thức tiêu cực thì sớm muộn cũng sẽ bị thay thế và đào thải.
Vì vậy trước tình hình khủng hoảng kinh tế- xã hội, Đảng và nhà nước ta quyết tâm thay
đổi, đi sâu vào nghiên cứu, đặc biệt đổi mới tư duy kinh tế bằng cách vận dụng mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức của chủ nghĩa Mác- Lênin. 9 Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
2. Các nội dung đã vận dụng, kết quả đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục.
Tại đại hội đảng lần thứ VI( 1986), Đảng ta đã rút ra những bài học và quyết định xây dựng
một là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó là tiếp thu quan điểm của Lênin:” chúng ta không hề coi lý luận của Mác như
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chị
đặt nền móng cho môn khoa học mà người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”. Trên tinh thần đó, Đảng đã có
một nhận thức mới trong việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần không gắn
liền với chủ nghĩa tư bản. Đây chính là sự thay đổi của ý thức tác động đến vật chất theo chiều hường tích cực.
Mặt khác, ta nhận định rằng Đảng đã vận dụng rất tốt mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức trong việc xây dựng kinh tế thị trường trong nền kinh tế của nước ta hiện
nay. Vậy kinh tế thị trường là gì? Hiểu đơn giản rằng, đây là một mô hình kinh tế mà trong
đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện dưới dạng hình thái hàng hóa và dịch vụ, với
nhiều thành phần tham gia, vận động theo cơ chế thị trường. Chính cơ chế thị trường đã
kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo ra điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã
hội và phát triển kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao
động xã hội . Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng
là một nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do, việc bố trí lại cơ cấu kinh
tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế hay như vật chất phải đi đôi với ý thức.Sau
đây, chúng ta sẽ cùng nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường trong quá trình
vận dụng quy luật vật chất và ý thức của nước ta.
Kiên trì với đường lối của Đảng, trong năm năm đầu tiên công cuộc đổi mới của đất nước(
1986- 1990) đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Nền kinh tế có những
chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội
được huy động tốt hơn, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. So với
trước đây thì mức độ khủng hoảng đã giảm bớt, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng
được phát huy... Cơ chế thị trường đã bắt đầu được thực hiện, một số loại thị trường được 10
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và xí nghiệp quốc
doanh. Do đó thị trường hàng tiêu dùng đã dồi dào hơn, đa dạng hơn, thị trường xuất nhập
khẩu bắt đầu được mở rộng, phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, nguồn
vốn nhà nước còn thiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, lạm phát tăng cao. Bên
cạnh đó, nền kinh tế còn có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so với tổng cung. Tuy
còn những hạn chế nhất định, nhưng những thành tựu bước đầu chính là những tiêu chuẩn
để đảng ta đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh hơn.
Đúng như theo chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định, vật chất quyết định ý thức, khi vật
chất thay đổi thì sớm muộn gì ý thức cũng thay đổi theo, hay sự vận hành của cơ chế thị
trường chắc chắn sẽ tác động rất lớn với vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế
của đất nước ta trong thời kỳ đó. Do đó, sự quản lý của nhà nước phải có vai trò định hướng,
dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản
xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Đồng thời, còn phải kiểm soát chặt chẽ và xử lý
các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, đảm bảo sự công bằng trong việc phát triển.
Như vậy, sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình
thường, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, nhưng
vẫn có tác dụng làm cho nền kinh tế phát triển theo một hướng đã định, đảm bảo nền kinh
tế của nước ta là nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là quá trình
ý thức thông qua các hoạt động thực tiễn, tác động vào vật chất và trang bị cho ta những
kiến thức để hoàn thành được mục tiêu của bản thân.
Để quản lý tốt nền kinh tế đất nước, nhà nước ta đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện
các công cụ quản lý vĩ mô, sao cho lực lượng sản xuất có cơ hội phát huy hết khả năng của
mình, đưa nền kinh tế thị trường phát triển ổn định hơn trong những năm 1991-1995. Hệ
thống chủ thể thị trường của các thành phần kinh tế đã thay thế hoàn toàn các cơ sở kinh tế
hoạt động dưới thời bao cấp. Các nhân tố thị trường hình thành và phát huy tác dụng thực
sự thay thế cho các quyết định hành chính. Do đó, các loại hình thị trường phát triển một
cách nhanh chóng, từ tiêu dùng thông thường cho đến các thị trường dịch vụ hay xuất nhập
khẩu. Trên thực tế thị trường đã có sự biến đổi về chất. Tình trạng khan hiếm hàng hóa
trong thời kỳ chiến tranh và bao cấp đã hoàn toàn chấm dứt, lần đầu tiên nền kinh tế thị
trường của nước ta có sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm,
lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất 11 Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
lượng tăng cao, thị trường xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Có thể kể đến như, tăng kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỷ USD, vượt mức kế hoạch đề ra là 12- 15 tỷ hay tổng sản
phẩm trong nước GDP tăng bình quân 8,2%... Tuy nhiên, nhìn chung, thị trường còn thô
sơ, nhỏ hẹp, phân tán, chất lượng chưa cao và tính tự phát còn nghiêm trọng. Thị trường
nông thôn còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán còn chưa xuất hiện, tệ nạn buôn lậu
và gian lận thương mại còn nhiều. Nhưng vẫn có thể khẳng định rằng, nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, nhờ sự rút ra kinh nghiệm
và có những đường lối đúng đắn hơn của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Rõ
ràng là, đảng+ sản Việt Nam đã ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp luật duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới, tiến hành đổi
mới nền kinh tế và chính trị để đổi mới đời sống nhân dân.
Giai đoạn năm 1996 đến nay là giai đoạn mà nền kinh tế thị trường nước ta gặp rất nhiều
khó khăn. Tổng cung vượt xa tổng cầu trong tình hình tổng cung và tổng cầu để giảm mạnh,
trên thị trường xuất hiện những cơn sốt lạnh trên diện rộng, kéo dài và gây tổn hại nặng nề.
Nhiều mặt hàng công nghiệp có số lượng tồn kho lớn như giấy 16.000 tấn, thép 400.000
tấn… Mặc dù cho tới những năm sau chính phủ nó có những chủ trương kích cầu nhưng
mọi chuyện vẫn không được giải quyết. Điều này có nguyên nhân không nhỏ từ các điều
kiện khách quan gây ra, tuy nhiên cũng không thể phủ nhận được những nguyên nhân do
chủ quan gây ra. những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế tuy đã đi đúng hướng nhưng còn
chậm, đặc biệt là trong công tác quản lý kinh tế, chưa theo kịp sự vận động của lực lượng
sản xuất, chưa có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Tuy thị trường trong
nước gặp nhiều khó khăn nhưng thị trường xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi nổi, trong
đó xuất khẩu thì tăng mạnh, nhập khẩu thì giảm. Thị trường các yếu tố sản xuất khác như
thị trường lao động mới đang hình thành, thị trường bất động sản vẫn chưa được khai thông,
thị trường chứng khoán mới được thành lập. trên từng địa bàn, thị trường cũng chưa thực
sự thông suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu phí bất hợp lý, thậm chí ờ một số nơi còn
bị chính quyền sở tại dùng biện pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất ở địa phương.
Có thể khẳng định rằng, công cuộc đổi mới do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã bước đầu
được cụ thể hóa, đi vào chiều sâu và được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, hăng hái thực
hiện. Đảng đang ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn sáng tạo phương pháp luận
triết học mác lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng một
đường lối đúng đắn và phát triển kinh tế thị trường nàng rất rõ ràng. Tuy vậy, nước ta còn 12
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730
vấp phải rất nhiều khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì giữ vững lòng tin, quyết tâm
khắc phục và luôn bắt kịp với tình hình thực tế biến đổi từng ngày.
3. Giải pháp trong tương lai
Tuy kinh tế thị trường ra đời trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nhưng bên cạnh những mặt
tiêu cực nó còn có rất nhiều mặt tích cực. Có thể khẳng định rằng, mô hình kinh tế thị
trường là mô hình chung cho cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Muốn sử dụng nó
một cách hiệu quả thì không chỉ phát huy những tác dụng tích cực mà nó đem lại cho nền
kinh tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối đa những mặt tiêu cực mà nó gây ra.
Vì vậy, khi một nền kinh tế áp dụng theo mô hình kinh tế thị trường thì cần phải có những
giải pháp thiết thực để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển một cách nhanh chóng và vững mạnh.
Một là, Sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn và những thủ tục hành chính chưa
hợp lý hay còn gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân, gây phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên rào cản khiến cho sự phát triển đất nước
gặp khó khăn. Ví dụ như luôn công khai minh bạch trong việc thu hút vốn đầu tư và có
những chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp mới để tạo môi trường thuận lợi
cho họ phát triển trong tương lai.
Hai là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, không để sự phát
triển mất cân đối gây ảnh hưởng tới sự phát triển nước. Việc đầu tiên chính là phát triển
đồng bộ cơ sở hạ tầng và các phương thức giao dịch hiện đại để các loại thị trường khác
nhau được vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Bà là, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Đối với
doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thúc đẩy đổi
mới và nâng cao trình độ công nghệ, đồng thời phải giám sát chặt chẽ không để thất thoát,
lãng phí vốn và tài sản nhà nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cũng
cần được quan tâm, phát triển nguồn lực, mở rộng thị trường và nâng cao mức thu nhập
cho người lao động. Nhà nước còn cần hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế
hợp tác xã, kinh tế hộ trang trại trong nông nghiệp. Và đặc biệt, là tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu. 13 Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com) lOMoAR cPSD| 44879730 D.KẾT LUẬN
Xây dựng nền kinh tế thị trường theo phương hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự
nghiệp rất khó và phức tạp, đây là một cuộc kháng chiến trường kỳ của đảng, cuối nhà nước
và toàn nhân dân. trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động
và khó khăn trong xã hội rồi đến nước ta đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững lòng tin
để thích ứng kịp thời và đưa ra những biện pháp thích hợp trong tình hình thực tế đầy biến động.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức. chúng ta phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa mối quan hệ biện chứng giữa
đường lối chỉ đạo và sự phát triển có nền kinh tế thị trường. Nhất định chúng ta sẽ đưa Việt
Nam trở thành một cường quốc kinh tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về mặt xã
hội. Đây chính là thách thức lớn đối với thế hệ thế trẻ hôm nay.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Triết học Mác- Lênin _ Bộ giáo dục và đào tạo.
- Văn kiện Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX.
- Lý luận Triết học Mác- Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
(https://khotrithucso.com/doc/p/ly-luan-triet-hoc-mac-le-nin-ve-moi-quan-hegiua- vat-chat-314866)
- Tiểu luận, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
(https://www.zun.vn/tai-lieu/de-tai-su-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-nen-kinhte-thi- truong-o-viet-nam-12750/) 14
Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com)