




Preview text:
lOMoAR cPSD| 58569740
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA: QUẢN TRỊ KINH DOANH …….***…… Họ tên: Lê Anh Quân Mã SV: 11225359 Quản trị chất lượng Lớp tín chỉ: QTCL1104(223)_04 Số thứ tự: 27 Giáo viên: Đặng Ngọc Sự
Vào tuần thứ 11 ngày 18/3/2024 lớp đã học về chương 6 cũng như là chương học
cuối cùng của bộ môn quản trị chất lượng. Việc đây là chương học cuối cùng có thể hiểu
được khi văn hoá xuất hiện ở mọi ngóc ngách trên toàn thế giới.
Thuật ngữ văn hoá ban đầu có nguồn gốc từ tiếng Latin “colore”, có nghĩa là tu
dưỡng, bảo vệ, sống đúng cách, là tôn thờ, tôn kính. Theo thời gian, thuật ngữ văn hoá đã
phát triển hơn, vượt qua những gì được coi là tu dưỡng, rèn luyện, ngoan ngoãn và đã trở lOMoAR cPSD| 58569740
thành những gì biểu trưng cho sự tinh hoa, biểu trưng cho sự văn minh và phát triển. Theo
như UNESCO: “Văn hoá là một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần,
vật chất, tri thức, tình cảm, … Khắc hoạ nên bản sắc của một gia đình, cộng đồng xóm
làng, quốc gia, xã hội… Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ giá trị, những truyền thống, tín
ngưỡng …” Cũng như trong giáo trình Quản trị chất lượng bản mới, ở Việt Nam, văn hoá
được hiểu là (1) tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử như kho tang văn hoá dân tộc, văn hoá phương đông, nền văn
hoá cổ; (2) những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần như
phát triển văn hoá, công tác văn hoá; (3) tri thức, kiển thức khoa học như học văn hoá, trình
độ văn hoá; (4) trình độ cao trong sinh hoạt xã hội như sống có văn hoá, ăn nói văn hoá;
và (5) nền văn hoá của thời kỳ cổ xưa được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật
tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau như văn hoá rìu, văn hoá gốm màu, văn hoá Đông Sơn.
Tuy nhiên, em đã được tiếp thu một định nghĩa “xịn” từ thầy mà trong giáo trình
hay trên mạng Internet không hề đề cập: “Văn hoá từ trong ra là tập hợp chuẩn mực
(norms), giá trị (core value), triết lý, phương châm (philosophy spirit), niềm tin
(belief) hay thậm chí là qui chế, chế tài, quy định mà trong đó các thành viên trong
tổ chức tự nguyện tuân thủ hay thậm chí bắt buộc tuân thủ, từ ngoài vào văn hoá tạo
nên những đặc trưng, đặc thù, riêng có để phân biệt giữa người với người, tổ chức
với tổ chức.” Đầu tiên, norms - chuẩn mực là những gì nên tuân thủ giống như trong
thư viện cần đi nhẹ nói khẽ cười duyên hay là việc thầy luôn luôn vào phòng học
đúng giờ cho dù buổi tối thầy có thể thức muộn để xem bóng đá như bao bọn con trai
chúng em. Core value - giá trị cốt lõi là luôn nỗ lực hết mình để mang lại tất cả những
giá trị cho mọi người, nói ngắn gọn là cho người trước, cho mình sau bởi nếu mình
mà vì mình trước thì ai sẽ vì mình? Những người mà đi theo câu nói cho mình trước,
cho người sau là những người nhỏ nhen – vì mình từ những điều nhỏ nhất hay còn
gọi là ích kỉ. Em ấn tượng mãi câu nói của thầy: “Niềm vui của bọn em là niềm vui
của thầy). Niềm vui của em chính là được tiếp thu những bài giảng chất lượng, những
kiến thức “xịn” để tự tin ra trường với cái đầu toàn sạn và theo như góc nhìn của em lOMoAR cPSD| 58569740
đó cũng là niềm vui của thầy khi cho đi những điều thực sự xứng đáng học hỏi, xứng
đáng tiếp thu tại phòng 412, tầng 4, giảng đường A2 tại trường Đại học Kinh tế quốc
dân (Như thầy nói vui là KTQD). Philosophy spirit - triết lý, phương châm là những
gì cần phải làm và thông thường đi với động từ. Ví dụ như là No pain No gain hay
theo nghĩa tiếng Việt là thất bại là mẹ thành công. Thêm vào đó, beliefs là việc người
ta tin vào những gì mà họ cho là tốt đẹp từ đó tạo nên những tôn giáo như đạo Công
giáo có Thiên Chúa, Phật Giáo có Phật, Thiên Chúa giáo có Đức Chúa Jesus Christ,…
hay họ tin vào những thực thể khác như ma quỷ. Ngoài ra, văn hoá cũng có thể bao
gồm quy chế, chế tài, quy định khi dân trí còn thấp mà điển hình cho biểu hiện đó là
chế độ độc tài/ mệnh lệnh, tuy nhiên người lãnh đạo phải thực sự đủ giỏi để có thể
dẫn dắt người dân và những qui chế, chế tài, quy định được gọt giũa sẽ trở thành
những tinh túy của nhân loại trợ giúp nâng cao dân trí, hình thành nền dân chủ như
hiện nay. Khi đã có văn hoá thì lịch sử sẽ hình thành nên những huyền thoại như chủ
tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, …., những truyền thuyết như truyền
thuyết bọc trăm trứng, truyền thuyết Thánh Gióng, sự tích hồ Gươm … và nơi để lưu
giữ những huyền thoại, truyền thuyết chính là phòng truyền thống. Hơn nữa, yếu tố
văn hóa mang trong mình những chức năng mà trong giáo trình đề cập đến:
• Chức năng “biểu tượng”: Mọi văn hoá đều chuyển tải những tri thức và tín
ngưỡng đối với thế giới xung quanh theo cách thức mà thế giới đó vận hành
và biến dổi. Đó chính là niềm tin, là biểu tượng.
• Chức năng xây dựng: Văn hoá được tạo lập và không ngừng được củng cố và
phát triển nhằm tạo ra môi trường thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
• Chức năng hướng dẫn: Bằng cách nhập tâm, văn hoá thúc đẩy các thành viên
trong xã hội, cộng đồng, tổ chức tuân theo những chuẩn mực hành vi đã được tạo lập
• Chức năng gợi ý: Mọi yếu tố văn hoá đều mang những cảm xúc nhất định.
Những cảm xúc mang đầy tình cảm này sẽ hướng mọi người ứng xử theo cảm
xúc, bởi vậy, cách mà chúng ta sống, cách mà chúng ta ứng xử đều có mối
tương tác qua lại đối với văn hoá đó. lOMoAR cPSD| 58569740
Khi đã có định nghĩa của văn hoá, từ đó biết được văn hoá chất lượng là gì? Em hiểu
rằng văn hoá chất lượng là tập hợp các chuẩn mực, giá trị, triết lý, phương châm,
niềm tin thậm chí là quy định mà mọi cá nhân hoặc tổ chức tuân thủ một cách tự
nguyện hoặc bắt buộc để không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm,
dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng. Văn hoá chất lượng chính là cơ sở để
hình thành sự vận hành hay bộ phận marketing của doanh nghiệp, từ đó dành lấy
doanh thu, lợi nhuận, thị phần trong môi trường kinh tế đầy biến động hiện nay, tạo
nên thương hiệu với những đặc trưng, đặc thù, riêng có của mình. Cụ thể hơn, văn
hoá chất lượn giúp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, dung hòa được các mối
quan hệ bên trong của công ty, tạo lập văn hoá cải tiến liên tục, duy trì mối quan hệ
lâu dài với khách hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, tăng lợi nhuận,
tạo uy tín hình ảnh riêng cho doanh nghiệp, tạo ra sự phát triển bền vững.
Tiếp đến chính là mô hình văn hoá chất lượng mà tiêu biểu chính là mô hình
Sáu Giá trị (The Six Values) do học giả John A. Woods đưa ra. Giá trị 1: Chúng ta
“Cùng hội cùng thuyền” – Khách hàng, Nhà cung cấp và Công ty là một . Giá trị 2:
Xóa bỏ khoảng cách giữa cấp trên và cấp dưới. Giá trị 3: Giao tiếp cởi mở trung thực
là yếu tố cơ bản dẫn đến thành công, Giá trị 4: Mọi thông tin đều mở cho mọi người.
Giá trị 5: Tập trung vào quá trình. Giá trị 6: Không có thành công hay thất bại mà là
học tập từ những trải nghiệm. Theo như em cảm nhận, giá trị 1 chi phối toàn bộ các
giá trị còn lại bởi xét về mặt tinh thần, cùng hội, cùng thuyền có nghĩa là chết thì cùng
chết, sống thì cùng sống thể hiện sự gắn kết, sự cùng tồn tại và cùng phát triển của
những người có liên quan liên hệ với nhau. Còn về mặt trách nhiệm, cùng hội, cùng
thuyền có nghĩa là một khi đã có những giao kèo, những thoả thuận với nhau thì cả
hai bên hoặc tất cả các bên liên quan đều có nghĩa vụ phải hoàn thành hoặc thậm chí
hoành thành tốt nhất phần việc của mình. Bởi vậy, tất cả các bên liên quan – nhà cung
ứng, công ty, khách hàng đều nằm trong một quy trình khép kín, có mối quan hệ qua
lại hữu cơ với nhau, không thể tách rời, cần hợp tác tốt nhất để sản phẩm hoặc dịch
vụ phái đạt chất lượng cao nhất. Có một câu liên hệ mà em thấy tâm đắc nhất là “Sự
thống nhất của mục tiêu dẫn tới sự thống nhất của hành động”. Ngoài mô hình Sáu lOMoAR cPSD| 58569740
Giá trị còn có một số mô hình khác: văn hoá chất lượng hồi đáp (Responsive quality
culture), văn hoá chất lượng phản ứng (Reactive quality culture), văn hoá chất lượng
tự sinh (Regenenrative quality culture), văn hoá chất lượng tái hiện (Reproductive
quality culture). Tuy nhiên, các mô hình văn hoá chất lượng kể trên có một số khuyết
điểm khiến chúng không được áp dụng phổ biến như mô hình Sáu Giá trị.
Và khi biết đến văn hoá chất lượng, ta cần phải xây dựng và phát triển nó. Đây
là một công việc không hề dễ dàng cho doanh nghiệp mà cần tiêu tốn nhiều năm, tiền
bạc và công sức để có thể đạt được mục tiêu. Cụ thể hơn, để xây dựng văn hoá chất
lượng cần tới các khâu, nấc của vòng tròn Deming (vòng tròn PDCA) thực hiện theo 4 bước:
• Bước 1: Khởi thủy chương trình xây dựng văn hoá chất lượng. Khi đó, doanh
nghiệp cần trả lời câu hỏi: o Hiện tại tổ chức, doanh nghiệp đang đứng ở đâu?
o Đích đến của tổ chức, doanh nghiệp là gì?
• Bước 2: Bắt tay vào xây dựng văn hoá chất lượng.
• Bước 3: Giám sát và đánh giá việc xây dựng văn háo chất lượng
• Bước 4: Điều chỉnh (nếu cần)
Kết thúc bài giảng, thầy đã cho từng cặp đôi, cặp ba tự xây dựng nên những chuẩn
mực, những giá trị cốt lõi, những triết lý, những niềm tin của chính bọn em tự đúc kết
ra sau bài học, điều này có thể thấy được đây là một định nghĩa “xịn” khi nó trực
diện, dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ áp dụng, dễ hình dung. Cá nhân em thấy việc văn hoá
chất lượng là chương cuối của môn Quản trị chất lượng cũng giống như việc đề dành
“của ngon” đến cuối rồi mới thưởng thức vậy. Đó là cái kết viên mãn cho chương lý
thuyết cuối cùng của môn học.