



















Preview text:
MỤC LỤC
BÀI TẬP CHƯƠNG 2: Giám sát ngân sách nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2.1. Tình hình thu chi và cân đối NSNN giai đoạn 2016-2018 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2.2. Giám sát tình hình quản lý nợ công giai đoạn 2016-2021 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2.3. Giám sát cơ cấu nợ công theo các cách phân loại giai đoạn 2017-2021 . . . . .. . . 11
2.3.1. Theo Nợ trong nước, nợ nước ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
2.3.2. Theo nợ chính phủ, Nợ CP bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. . . . . . . 15
BÀI TẬP CHƯƠNG 3: Giám sát tài chính tổ chức tín dụng . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
3.1. Tiêu chí về Vốn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
3.2. Tiêu chí về Chất lượng tài sản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18
3.3. Tiêu chí về Năng lực quản lý điều hành . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
3.4. Tiêu chí về Thu nhập và Lợi nhuận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
3.5. Tiêu chí về Thanh khoản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 25
3.6. Tiêu chí về Mức độ nhảy cảm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27
BÀI TẬP CHƯƠNG 2: Giám sát ngân sách nhà nước
2.1. Tình hình thu chi và cân đối NSNN giai đoạn 2016-2018 ĐVT: % Chỉ tiêu Năm Năm
Năm Chênh lệch 2016- Chênh lệch 2017- 2016 2017 2018 2017 2018 Chênh Tỷ Chênh Tỷ lệch lệ(%) lệch lệ(%) 1. Tăng trưởng thu 10,9 14,3 10,1 3,4 31,19 -4,2 -29,37 NSNN 2. Tăng trưởng thu nội 18 14,1 10,5 -3,9 -21,67 -3,6 -25,53 địa 3. Cơ cấu thu NSNN
- Tỷ trọng thu nội địa 80,5 80,3 80,6 -0,2 -0,25 0,3 0,37 - Tỷ trọng thu từ dầu 3,6 3,8 4,6 0,2 5,56 0,8 21,05 thô
- Tỷ trọng thu cân đối 15,2 15,2 14,2 0 0,00 -1 -0,39 XNK 4. Thu NSNN/GDP 25,1 25,8 25,7 0,7 2,79 -0,1 -0,39 5. Tăng trưởng chi 1,7 4,4 19,3 2,7 158,82 14,9 338,64 NSNN 6. Cơ cấu chi NSNN - Tỷ trọng chi đầu tư 28,2 27,5 25,4 -0,7 -2,48 -2,1 -7,64 phát triển - Tỷ trọng chi thường 63,3 65,1 61,2 1,8 2,84 -3,9 -5,99 xuyên 7. Chi NSNN/GDP 30,22 28,54 29,16 -1,68 -5,56 0,62 2,17 8. Bội chi NSNN/GDP 5,12 2,74 3,46 -2,38 -46,48 0,72 26,28
➢ Tăng trưởng thu NSNN:
Tăng trưởng thu ngân sách nhà nước năm 2017 là 14,3%, năm 2016 là 10,9%, tăng
thêm 3,4% với tỷ lệ tăng tương ứng là 31.19%. Như vậy tăng trưởng thu ngân sách nhà
nước năm 2017 có xu hướng tăng lên so với tăng trưởng thu NSNN năm 2016. Tăng
trưởng thu ngân sách nhà nước năm 2017 là 14,3% còn tăng trưởng thu ngân sách nhà 1
nước năm 2018 là 10,1%. Như vậy so với năm 2017 thì mức độ tăng trưởng của thu ngân
sách nhà nước năm 2018 đang có xu hướng giảm đi cụ thể là giảm 4,2% với mức độ giảm là 29,37%
➢ Tăng thu nội địa:
Tăng trưởng thu nội địa năm 2017 là 14,1%, tăng trưởng thu nội địa năm 2016 là 18%.
Như vậy so với năm 2016 thì mức tăng trưởng thu nội địa năm 2017 đang có xu hướng
giảm đi cụ thể đã giảm 3,9% với tỷ lệ giảm là 21,67%. Tăng trưởng thu nội địa năm 2017
là 14,1% còn tăng trưởng thu nội địa năm 2018 là 10,5%. Như vậy so với năm 2017 thì
mức tăng trưởng thu nội địa năm 2018 đang có xu hướng giảm đi cụ thể đã giảm 3,6%
với tỉ lệ giảm là 25,53%
➢ Cơ cấu thu ngân sách nhà nước:
- Tỷ trọng thu nội địa:
Tỷ trọng thu nội địa năm 2017 là 80,3%, tỷ trọng thu nội địa của năm 2016 là 80,5%.
Như vậy so với năm 2016 thì năm 2017 tỷ trọng thu nội địa đã giảm 0,2% với tỷ lệ giảm
là 0,25%, xu hướng giảm đi nhưng không đáng kể.
Tỷ trọng thu nội địa năm 2017 là 80,3% còn tỷ trọng thu nội địa của năm 2018 là 80,6.
Như vậy so với năm 2017 thì năm 2018 tỷ trọng thu nội địa đã tăng lên cụ thể là tăng 0,3%
với tỷ lệ tăng là 0,37%. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các hoạt động sản xuất -
kinh doanh trong 6 tháng cuối năm 2018; đồng thời làm tốt hơn công tác quản lý thu, quyết
liệt xử lý thu hồi nợ đọng thuế và các khoản kiến nghị truy thu qua công tác thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán. Bên cạnh đó, các địa phương làm tốt công tác đấu giá đất, thu tiền sử
dụng đất, thu hồi nợ đọng của các dự án bất động sản; rà soát chế độ thu nộp, quản lý, sử
dụng một số khoản phí, lệ phí. Nhờ đó, kết quả thu nội địa năm 2018 đã tăng dẫn đến tỷ
trọng cũng tăng đáng kể. Bên cạnh yếu tố dự toán thu năm 2018 ở một số lĩnh vực xây
dựng ở mức cao so với khả năng thực tế, nguyên nhân làm cho các khoản thu nêu trên đạt
thấp chủ yếu do: một số ngành hàng và doanh nghiệp có đóng góp số thu lớn cho NSNN
tăng trưởng thấp hơn dự kiến, thậm chí giảm so với năm trước, một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài lớn đang trong giai đoạn được hưởng chính sách ưu đãi, miễn giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Tỷ trọng thu từ dầu thô:
Tỷ trọng thu từ dầu thô năm 2017 là 3,8%, còn tỷ trọng thu từ dầu thô năm năm 2016
là 3,6%, Như vậy so với năm 2016 thì năm 2017 tỷ trọng thu từ dầu thô đã tăng 0,2% với
tỷ lệ tương ứng tăng 5,56%. Tỷ trọng thu từ dầu thô năm 2017 là 3,8% còn tỷ trọng thu từ
dầu thô năm 2018 là 4,6%. Như vậy so với năm 2017 thì năm 2018 tỷ trọng thu từ dầu thô
đã tăng 0,8% với tỷ lệ tăng là 21,05%.
Về thu từ dầu thô, Ủy ban TCNS nhận thấy, sản lượng khai thác có xu hướng giảm
dần qua các năm, do đó đề nghị Chính phủ báo cáo rõ hơn về sự sụt giảm sản lượng tại
các mỏ khai thác, dự kiến trữ lượng và kế hoạch khai thác trong các năm tiếp theo, tạo căn
cứ xây dựng dự toán sát hơn.
- Tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu: 2
Tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu năm 2017 là 15,2%, còn tỷ trọng thu cân đối
xuất nhập khẩu năm năm 2016 cũng là 15,2%. Tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu năm
2017 là 15,2% còn tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu năm năm 2018 là 14,2%. Như vậy
so với năm 2017 thì năm 2018 tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu năm đã giảm 1% với tỷ lệ giảm là 6,58%.
Đối với thu cân đối từ hoạt động XNK, Chính phủ dự kiến tăng thấp so với ước thực
hiện năm 2018 (0,1%). Đa số ý kiến trong Ủy ban TCNS nhất trí với phương án Chính
phủ trình và cho rằng, mức dự toán này tuy khá thấp nhưng bảo đảm còn dư địa trong quá
trình triển khai thực hiện. Một số ý kiến đề nghị Chính phủ rà soát, tính toán, cân nhắc, có
thể điều chỉnh tăng mức dự toán cho phù hợp với tình hình thực tế.
➢ Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/ GDP:
Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/ GDP năm 2017 là 25,8%, Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/
GDP năm 2016 là 25,1%, Như cậy so với năm 2016 thì năm 2017 tỷ lệ thu ngân sách nhà
nước/ GDP đã tăng 0,7% với tỷ lệ tăng là 2,79%. Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/ GDP năm
2017 là 25,8% còn tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/ GDP năm 2018 là 25,7%. Như cậy so
với năm 2017 thì năm 2018 tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/ GDP đã giảm 0,1% với tỷ lệ giảm là 0,39%.
Trong giám sát ngân sách nhà nước, cơ cấu thu ngân sách nhà nước thể hiện khả năng
đóng góp của từng nguồn qua đó đánh giá được khả năng thu so với tiềm năng, đồng thời
qua đó có chiến lược nuôi dưỡng, khai thác để phát triển nguồn thu trong tương lai một
cách hợp lý. Tuy nhiên việc thu ngân sách nhà nước/GDP đang giảm nhẹ chứng tỏ việc
thúc đẩy nền kinh tế chưa được sử dụng hiệu quả
➢ Tăng trưởng chi ngân sách nhà nước:
Tăng trưởng chi ngân sách nhà nước năm 2017 là 4,4%, Tăng trưởng chi ngân sách
nhà nước năm 2016 là 1,7%, Năm 2017 so với năm 2016 tăng thêm 2,7% với tỷ lệ tăng
khá lớn là 158,82% cho thấy trong năm 2017 chi ngân sách nhà nước có xu hướng tăng
rất nhiều hơn so với chi trong năm 2016.
Tăng trưởng chi ngân sách nhà nước năm 2017 là 4,4% còn tăng trưởng chi ngân sách
nhà nước năm 2018 là 19,3%. Như vậy so với năm 2017 thì mức độ tăng trưởng của chi
ngân sách nhà nước năm 2018 đang có xu hướng tăng lên cụ thể là tăng 14,9% với mức độ tăng là 338,64%
➢ Cơ cấu chi ngân sách nhà nước:
- Tỷ trọng chi đầu tư phát triển:
Tỷ trọng chi đầu tư phát triển năm 2017 là 27,5%, tỷ trọng chi đầu tư phát triển năm
2016 là 28,2%. Như vậy so với năm 2016 thì năm 2017 Tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm
0,7% với tỷ lệ giảm là 2,48%. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển năm 2017 là 27,5% tỷ trọng
chi đầu tư phát triển năm 2018 là 25,4%. Như vậy so với năm 2017 thì năm 2018 Tỷ trọng
chi đầu tư phát triển giảm 2,1% với tỷ lệ giảm là 7,64% 3
Về chi đầu tư phát triển, Chính phủ xây dựng dự toán tăng 7,4% so với dự toán năm
2018. Ủy ban TCNS cơ bản nhất trí với phương án Chính phủ trình về tổng mức. Tuy
nhiên, qua giám sát nhận thấy, việc chuyển nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại các địa
phương còn khá lớn. Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ cần có giải pháp khắc phục vấn đề này.
- Tỷ trọng chi thường xuyên:
Tỷ trọng chi thường xuyên năm 2017 là 65,1%, tỷ trọng chi thường xuyên năm 2016
là 63,3%, Như vậy so với năm 2016 thì năm 2017 tỷ trọng chi thường xuyên đã tăng 1,8%
với tỷ lệ tăng là 2,84%. Tỷ trọng chi thường xuyên năm 2017 là 65,1% còn tỷ trọng chi
thường xuyên 2018 là 61,2%. Như vậy so với năm 2017 thì năm 2018 tỷ trọng chi thường
xuyên đã giảm 3,9% với tỷ lệ giảm là 5,99%.
Về chi thường xuyên, Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ rà soát, cơ cấu lại một số
khoản chi bảo đảm hợp lý, có kế hoạch, biện pháp thực hành tiết kiệm, cắt, giảm những
nhiệm vụ chi không cần thiết, tiết giảm mạnh hơn chi NSNN cho đoàn ra; không bố trí
kinh phí mua sắm trang thiết bị đắt tiền, xe công; giảm mạnh chi cho khánh tiết, hội nghị, hội thảo, lễ hội.
➢ Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước/ GDP:
Chi ngân sách nhà nước/ GDP năm 2017 là 28,54%, chi ngân sách nhà nước/ GDP
năm 2016 là 30,22%, Như cậy so với năm 2016 thì năm 2017 chi ngân sách nhà nước/
GDP đã giảm 1,68% với tỷ lệ giảm là 5,56%. Chi ngân sách nhà nước/ GDP năm 2017 là
28,54% còn chi ngân sách nhà nước/ GDP năm 2018 là 29,16%. Như cậy so với năm 2017
thì năm 2018 chi ngân sách nhà nước/ GDP đã tăng 0,62% với tỷ lệ tăng là 2,17%.
Trong giám sát ngân sách nhà nước, chỉ tiêu này thể hiện mức độ chi ngân sách nhà
nước so với GDP. Mỗi quốc gia đều xác định và duy trì ngưỡng nhất định cho chỉ tiêu này
đảm bảo cho hoạt động của bộ máy chính phủ và chính quyền các cấp, đồng thời duy trì
đầu tư thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, tùy
thuộc vào chính sách tài khóa của Chính phủ trong từng thời kỳ thì tỷ lệ này có thể thay
đổi. Qua bảng phân tích ta nhìn thấy được việc chi tiêu của ngân sách/GDP đang tăng điều
này chứng tỏ rằng việc chi ngân sách được đánh giá là chưa hợp lí.
➢ Bội chi ngân sách nhà nước/GDP
Bội chi chi ngân sách nhà nước/GDP năm 2017 là 2,74%, bội chi chi ngân sách nhà
nước/GDP năm 2016 là 5,12%, Như vậy so với năm 2016 thì năm 2017 chi ngân sách nhà
nước/GDP đã giảm 2,38% với tỷ lệ giảm khá đáng kể là 46,48%. Bội chi chi ngân sách
nhà nước/GDP năm 2017 là 2,74%GDP chi ngân sách nhà nước/GDP năm 2018 là 3,46%.
Như vậy so với năm 2017 thì năm 2018 chi ngân sách nhà nước/GDP đã tăng 0,72% với tỷ lệ tăng là 226,28%.
Nhờ công tác chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ bội chi và nợ công, tỷ lệ nợ công đã giảm từ
mức 63,7% cuối năm 2016 xuống còn 61,4% cuối năm 2017; năm 2018 đánh giá khoảng
61,4%GDP. Các biện pháp quản lý nợ công được thực hiện đồng bộ theo hướng tăng kỳ
hạn vay, giảm các loại rủi ro lãi suất, tỷ giá, thanh khoản 4
➢ Dự kiến khung cân đối thu, chi NSNN 2019-2021:
Về thu NSNN: phấn đấu thu NSNN giai đoạn 3 năm tới đạt 4,5 triệu tỷ đồng; tỷ lệ
huy động thu vào NSNN bình quân 23%GDP, từ thuế, phí 20%GDP, tỷ trọng thu nội địa
84%, tỷ trọng thu NSTW 56-57% tổng thu NSNN.
Về chi NSNN: Dự toán chi NSNN giai đoạn 3 năm tới khoảng 5,2-5,3 triệu tỷ đồng.
Trong đó, tỷ trọng chi ĐTPT đạt trên 26% tổng chi NSNN, tỷ trọng chi thường xuyên
giảm dần, đến năm 2021 còn khoảng 63,5% tổng chi NSNN; tiếp tục thực hiện cải cách
tiền lương theo lộ trình. Về bội chi NSNN: Bội chi NSNN năm 2019 là 3,6%GDP, năm
2020 là 3,4%GDP, năm 2021 khoảng 3,4-3,5%GDP.
Các chỉ tiêu nợ công trong giới hạn quy định và có bước cải thiện tích cực, cuối năm
2019 dự kiến nợ công 61,3%GDP, năm 2020 là 60,8%GDP và năm 2021 là 60,6%GDP.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Chính phủ đã đề ra giải pháp và tổ chức triển khai thực
hiện, theo đó, Chính phủ sẽ tập trung vào công tác hoàn thiện thể chế, đảm bảo các cân
đối lớn của nền kinh tế, tăng cường ổn định vĩ mô, bằng cách:
+ Đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo thực hiện các mục tiêu cơ
cấu lại nền kinh tế, phát triển cân đối, theo hướng bền vững, đạt được các chỉ tiêu về tốc
độ tăng trưởng và quy mô GDP nền kinh tế, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu tài chính – ngân sách.
+ Kiên quyết thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại NSNN, nợ công, nhất là giữ mục tiêu
bội chi, nợ công theo kế hoạch tài chính 5 năm, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia,
tăng cường ổn định vĩ mô.
+ Tăng cường quản lý thu, chống thất thu từ đất đai, tài sản công; rà soát, kiến nghị
sửa đổi, tập trung thu về ngân sách các nguồn thu bản chất của NSNN (nguồn thu của các
quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; nguồn thu để lại cho các cơ quan, đơn vị...).
+ Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống thu, trước mắt ưu tiên
các mục tiêu thuận tiện, bình đẳng, minh bạch... góp phần tạo dựng môi trường đầu tư
kinh doanh cạnh tranh, hấp dẫn, đồng thời thu đúng, đủ, kịp thời các nguồn thu của NSNN. Trong đó:
Nghiên cứu sửa đổi Luật quản lý thuế theo hướng bao quát các nguồn thu mới, đẩy
mạnh cải cách thủ tục quản lý thuế; thực hiện quản lý thuế điện tử, hóa đơn điện tử, quản
lý thuế theo phương thức rủi ro; tiến tới áp dụng thanh tra, kiểm tra thuế điện tử...
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hệ thống các chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế, phí;
thu đất đai... hiện nay cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, với hệ thống quản lý thu.
Chính phủ kiên quyết đẩy mạnh đổi mới quản lý chi NSNN đồng bộ với đổi mới
phương thức quản lý tài chính các lĩnh vực, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường; tập trung ngân
sách vào các nhiệm vụ thiết yếu Nhà nước phải bảo đảm; tăng cường cơ chế đấu thầu, đặt 5
hàng, khoán kinh phí theo nhiệm vụ; tăng cường quản lý ngân sách trung hạn gắn với quản
lý nợ công, chi đầu tư công trung hạn; chủ động kiểm soát bội chi.
Sửa đổi Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn; ưu tiên xử lý các bất cập về phân
bổ dàn trải, chậm, giải ngân không đạt kế hoạch, chuyển nguồn kéo dài...; thống nhất quản
lý lĩnh vực chi đầu tư và chi thường xuyên; tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật đầu tư;
phát triển hệ thống quản lý kiểm soát thanh toán vốn đảm bảo bố trí nguồn lực và thực
hiện giải ngân theo tiến độ kỹ thuật của dự án...
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính – ngân sách trên cơ sở hoàn thiện thể chế, chính
sách, đặc biệt là chế tài trong quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài sản công, đầu tư
xây dựng cơ bản; củng cố bộ máy thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; quản lý chặt chẽ NSNN
từ khâu dự toán đến điều hành, quyết toán; thực hiện nghiêm yêu cầu tiết kiệm, chống lãng
phí, phòng chống tham nhũng.
2.2. Giám sát tình hình nợ công giai đoạn 2016-2021 Chỉ tiêu 2016 2017 2018 2019 2020 2021 1. Nợ công/ GDP(%) 63,7 61,4 58,3 55 55,9 43,1 a. Nợ CP / GDP (%) 52,7 51,7 49,9 48 49,9 39,1
b. Nợ CP bảo lãnh / GDP (%) 10,3 9,1 7,9 6,7 5,8 3,8
c. Nợ của chính quyền địa phương/ 1,5 1,1 0,9 0,7 0,7 0,6 GDP (%)
2. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP(%) 44,8 48,9 46 47,1 47,9 38,4
3. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung,
dài hạn của quốc gia so với tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%) 3,9 6,1 7 5,9 5,7 6,2
4. Nghĩa vụ trả nợ của CP/ thu
NSNN(%) (không bao gồm cho vay lại) 20,5 18,3 17,1 17,4 21,2 21,8 6 2016 - 2017
2017 - 2018 2018 - 2019 2019 - 2020 2020 - 2021 Chỉ tiêu GT TL GT TL GT TL GT TL GT TL
1. Nợ công/ GDP(%) -2.3 -3.61% -3.1 -5.05% -3.3 -5.66% 0.9 1.64% -12.8 -22.90% a. Nợ CP / GDP (%)
-1 -1.90% -1.8 -3.48% -1.9 -3.81% 1.9 3.96% -10.8 -21.64% - - - b. Nợ CP bảo lãnh/ -1.2 -11.65% -1.2 -1.2 15.19 -0.9 -2 -34.48% GDP (%) 13.19% % 13.43% c. Nợ của chính - quyền địa phương/ -0.4 -26.67% -0.2 - -0.2 22.22 0 0.00% -0.1 -14.29% GDP (%) 18.18% % 2. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP(%) 4,1
9,15% -2,9 -5,93% 1,1 2,39% 0,8 1,7% -9,5 -19,83% 3. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc gia so với tổng kim
2,2 56,41% 0,9 14,75% -1,1 -15,71% -0,2 -3,39% 0,5 8,77% ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%) 4. Nghĩa vụ trả nợ của CP/ thu NSNN(%)
-2,2 -10,73% -1,2 -6,56% 0,3 1,75% 3,8 21,84% 0,6 2,83% ➢ Tỷ lệ nợ công/GDP
- Giai đoạn 2016-2018:
Trong năm 2016, nợ công so với GDP của Việt Nam là 63,7%, tức là khi thu nhập được
100 đồng thì nợ công chiếm 63,7 đồng. Nhưng đến năm 2017, con số này đã giảm 2,3%
với tỷ lệ giảm 3,61%. Tỷ lệ nợ công so với GDP trong năm 2018 là 58,3%, tức là trong
100 đồng thu nhập thì nợ công chiếm 58,3 đồng. Giai đoạn 2016-2018, Tỷ lệ này giảm
làm giảm áp lực, nghĩa vụ tài chính đối với nền kinh tế đồng thời giảm rủi ro tài chính,
tăng an toàn tài chính quốc gia chứng tỏ khả năng kiểm soát nợ công của Việt Nam tăng
lên và thể hiện nỗ lực rất lớn của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương trong
triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. 7
- Giai đoạn 2018-2021:
Theo Bản tin Nợ công số 15 và Kế hoạch Tài chính Quốc gia giai đoạn 2016-2020 cho
thấy Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam năm 2018 là 58,3%; năm 2019 là 55%; năm 2020
là 55,9% và năm 2021 là 43,1%. Trong giám sát ngân sách nhà nước, chỉ tiêu này cho biết
mức độ nợ công so với quy mô nền kinh tế trong giai đoạn 2018-2021 tuy có xu hướng
giảm nhưng vẫn ở mức cao. Mặc dù quy mô công nợ giảm đi nhưng vẫn ở trong ngưỡng
an toàn theo kế hoạch tài chính Quốc gia 2016-2020 (không quá 65%), đồng thời theo
thông lệ quốc tế (dưới 60%). Trong giai đoạn 2018-2021, Nợ công giảm đi là do giảm áp
lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, giảm rủi ro tài chính thể hiện nỗ lực
của các cấp ngành. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ công/GDP thay đổi là do tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP,
tỷ lệ nợ Chính phủ bảo lãnh/GDP và tỷ lệ nợ chính quyền địa phương/GDP thay đổi.
➢ Nợ chính phủ so với tổng sản phẩm quốc dân
- Giai đoạn 2016-2018:
Giai đoạn 2016-2018, tỷ lệ nợ chính phủ/GDP của Việt Nam đã giảm so với 2017 cụ thể
giảm 3% tỉ lệ giảm là 4,89% và năm 2017 giảm so với 2016 là 2,3% tương ứng tỉ lệ giảm
là 3,61%. Nhìn chung thì giai đoạn này nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép ở
ngưỡng an toàn theo kế hoạch tài chính quốc gia không quá 50%.
- Giai đoạn 2018-2021:
Tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP của Việt Nam năm 2018 là 50%; năm 2019 là 48%; năm 2020
là 49,9% và năm 2021 là 39,1%. Trong giám sát ngân sách nhà nước không thể thiếu chỉ
tiêu này. Năm 2019 so với năm 2018, tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP giảm 2% với tỷ lệ giảm
4%, năm 2020 so với năm 2019 đã tăng 1,9% với tỷ lệ tăng 3,96%. Nhưng đến năm 2021
so với năm 2020, tỷ lệ này giảm 10,8% với tỷ lệ giảm 21,64%. Trong giai đoạn 2018-2021
có xu hướng giảm nhưng vẫn cao và ở trong ngưỡng an toàn theo kế hoạch tài chính Quốc
gia 2016-2020 (không quá 54%), và không quá mức 50% mục tiêu duy trì nợ Chính phủ
giai đoạn 2021-2025. Ngoài ra, Nợ Chính Phủ/GDP giảm đi là do tốc độ tăng của nợ Chính
phủ chậm hơn tốc độ tăng của GDP.
➢ Nợ chính phủ bảo lãnh so với tổng sản phẩm quốc dân
- Giai đoạn 2016-2018:
Giai đoạn 2016-2018 thì nợ chính phủ bảo lãnh/GDP của Việt Nam giảm cụ thể năm 2018
so với năm 2017 giảm 1,2% tỷ lệ giảm là 3,29%. Và năm 2017 so với 2016 giảm 1,2% tỷ
lệ giảm là 11,65%. Nhìn chung thì điều này phù hợp với định hướng phát triển chung trong
việc sử dụng nợ công đó là hạn chế đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước và tập
đoàn kinh tế đi vay. Từ đó làm giảm áp lực nhà nước trong việc xây dựng chiến lược để
trang trải các khoản nợ công.
- Giai đoạn 2018-2021:
Tỷ lệ nợ Chính phủ bảo lãnh/GDP của Việt Nam năm 2018 là 7,9%; năm 2019 là 6,7%;
năm 2020 là 5,8% và năm 2021 là 3,8%. Năm 2019 so với năm 2018, tỷ lệ nợ Chính
phủ/GDP giảm 1,2% với tỷ lệ giảm 15,19%, năm 2020 so với năm 2019 đã giảm 0,9% với
tỷ lệ giảm 13,43%. Nhưng đến năm 2021 so với năm 2020, tỷ lệ này giảm 2% với tỷ lệ 8
giảm 34,48%. Trong giai đoạn 2018-2021, Nợ Chính Phủ bảo lãnh/GDP giảm đi là do tốc
độ tăng của nợ Chính phủ bảo lãnh chậm hơn tốc độ tăng của GDP. Nhìn chung thì giai
đoạn này nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép ở ngưỡng an toàn 50%.
➢ Nợ chính quyền địa phương so với tổng sản phẩm quốc dân
- Giai đoạn 2016-2018:
Nhìn chung thì giảm qua từng năm cụ thể năm 2018 giảm so với năm 2017 là 0,2% tỉ lệ
giảm là 18,18%, còn năm 2017 giảm so với 2016 là 0,4% tỉ lệ giảm là 26,67%. Điều này
có thể thấy rằng nợ chính quyền địa giảm đi là do nhu cầu phát triển kinh tế địa phương
giamr và vốn đầu tư phát triển do Chính phủ cấp đủ chi.
- Giai đoạn 2018-2021:
Tỷ lệ nợ Chính quyền địa phương/GDP của Việt Nam năm 2018 là 0,9%; năm 2019 là
0,7%; năm 2020 là 0,7% và năm 2021 là 0,6%. Năm 2019 so với năm 2018, tỷ lệ nợ Chính
phủ/GDP giảm 0,2% với tỷ lệ giảm 22,22%, năm 2020 so với năm 2019 không thay đổi.
Nhưng đến năm 2021 so với năm 2020, tỷ lệ này giảm 0,1% với tỷ lệ giảm 14,29%. Trong
giai đoạn 2018-2021, Nợ Chính quyền địa phương/GDP giảm đi là do tốc độ tăng của nợ
Chính quyền địa phương chậm hơn tốc độ tăng của GDP. Trong giai đoạn 2018-2021, chỉ
tiêu này có xu hướng giảm đi được đánh giá là một phần thành tích của nước ta trong kiểm
soát mức độ nợ của chính quyền địa phương so với quy mô nền kinh tế.
➢ Tỷ lệ nợ nước ngoài Quốc gia/GDP
- Giai đoạn năm 2016-2018:
Tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2018 có biến động tăng
giảm tại năm 2017 cụ thể thì năm 2018 so với năm 2017 giảm 2,9% tương ứng tỉ lệ giảm
là 5,93%. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giảm là do tốc độ tăng của nợ nước ngoài chậm hơn
tốc độ tăng của GDP. Nhưng năm 2016-2017 thì tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP lại tăng 4,1%
tương ứng tỉ lệ tăng là 9,15% nguyên nhân tăng là do tốc độ tăng trưởng của nợ nước ngoài
Quốc gia nhanh hơn tốc độ tăng của GDP.
- Giai đoạn năm 2018-2021:
Tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam năm 2018 là 0,9%; năm 2019 là 0,7%; năm 2020
là 0,7% và năm 2021 là 0,6%. Năm 2019 so với năm 2018, tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP giảm
0,2% với tỷ lệ giảm 22,22%, năm 2020 so với năm 2019 không thay đổi. Nhưng đến năm
2021 so với năm 2020, tỷ lệ này giảm 0,1% với tỷ lệ giảm 14,29%. Trong giai đoạn 2018-
2021, Nợ Chính quyền địa phương/GDP giảm đi là do tốc độ tăng của nợ Chính quyền địa
phương chậm hơn tốc độ tăng của GDP.
➢ Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc gia/Kim ngạch xuất khẩu
- Giai đoạn năm 2016-2018:
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc gia/Kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn này cơ
bản đều tăng cụ thể năm 2017 tăng so với 2016 là 2,2% tương ứng tỉ lệ tăng 56,41% vì 9
vậy chỉ tiêu này cho biết nghĩa vụ trả nợ nước ngoài Quốc gia bằng 56,41 phần Kim ngạch
xuất khẩu nhận thấy rằng tỷ lệ tăng thì tốc độ nghĩa vụ trả nợ nước ngoài Quốc gia nhanh
hơn tốc độ Kim ngạch xuất khẩu. Năm 2018 so với 2017 tăng 0,9% tương ứng tỉ lệ tăng
là 14,75%, tuy vậy thì tỉ lệ tăng của năm 2016-2017 lại cao hơn tỉ lệ tăng của năm 2017- 2018.
- Giai đoạn 2018-2021:
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc gia so với tổng kim ngạch XK hàng
hóa dịch vụ của Việt Nam giai đoạn này có xu hướng tăng. Năm 2019 là 5,9% ; 2020 là
5,7% và năm 2021 là 6,2%. Cho biết trong giai đoạn 2019-2021 thì nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài trung, dài hạn của quốc gia chiếm lần lượt là 5,9%; 5,7% và 6,2% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của Việt Nam. Trong giai đoạn này thì tỷ lệ này đều
thấp hơn ngưỡng 25% theo Kế hoạch Tài chính Quốc gia năm 2016-2020 và năm 2021-
2025. Cho thấy mức độ rủi ro của nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam thấp tuy nhiên đang có xu hướng gia tăng.
➢ Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/Thu ngân sách
- Giai đoạn 2016-2018
Nghĩa vụ trả nợ CP/ Thu ngân sách( không bao gồm cho vay lại) trong giai đoạn này về
cơ bản là đều giảm. Cụ thể năm 2017 thì nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/Thu ngân sách
nhà nước giảm so với 2016 là 2,2% tương ứng tỉ lệ 10,73% chỉ tiêu này giảm là do tốc độ
tăng của nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ chậm hơn tốc độ tăng của thu ngân sách nhà nước.
Năm 2018 giảm so với năm 2017 là 1,2% tương ứng tỉ lệ giảm là 6,56%. Chỉ tiêu này đã
có xu hướng giảm đi và cả 3 năm đều trong ngưỡng an toàn theo kế hoạch tài chính Quốc
gia 2016-2020 (không quá 25%) và thông lệ quốc tế. Điều này thể hiện nghĩa vụ phải trả
nợ giảm và khả năng trả nợ tăng lên.
- Giai đoạn 2018-2021
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/Thu NSNN của Việt Nam giai đoạn 2019 – 2021 có xu
hướng tăng. Năm 2019 là 17,4%; năm 2020 là 21,2% và năm 2021 là 21,8%. Có thể thấy
giai đoạn này, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ chiếm lần lượt 17,4%; 21,2% và 21,8% trong
tổng thu NSNN của Việt Nam. Trong suốt giai đoạn này, tỷ lệ này đều đảm bảo trong
ngưỡng an toàn của Quốc hội đề ra trong Kế hoạch Tài chính Quốc gia là dưới 25%. Tuy
nhiên tỷ lệ này có xu hướng tăng lên, điều này cho thấy mức độ rủi ro đối với nghĩa vụ trả nợ tăng lên. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn 2016-2021, tỷ lệ nợ công, nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương so với GDP đều giảm đi, giúp giảm áp lực thanh toán nợ công
cho Chính phủ. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài Quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu đã tăng
lên khá nhanh; nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách đã giảm đi. Xu hướng 10
này, một phần phản ánh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chưa được nhanh chóng, làm
hạn chế đóng góp cho tăng trưởng từ nguồn vốn vay; mặt khác, ngân sách nhà nước vẫn
phải chịu chi phí cam kết đối với các khoản vay đã ký kết và chưa giải ngân.
2.3. Giám sát cơ cấu nợ công theo các cách phân loại giai đoạn 2017-2021
2.3.1. Phân loại theo Nợ trong nước, nợ nước ngoài ĐVT: TỶ ĐỒNG 11 ❖ NHẬN XÉT:
Qua bảng trên ta thấy tình hình nợ công của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2016
tới năm 2021 đều tăng. Việc tăng tổng nợ công này là do nợ trong nước và nợ nước ngoài
đều tăng qua các năm. Sự tăng lên của nợ công qua hàng năm là do tác động tiêu cực của
đại dịch Covid 19 và chiến tranh thương mại gây nên những tổn thất lớn cho nền kinh tế.
Cụ thể tăng mạnh nhất là trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2017 ( tăng 12,86%) và
tăng nhanh thứ hai là trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2019 ( tăng 6,62%).
Việt Nam là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch COVID-19, nhưng vẫn bị ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Hầu hết các hoạt động kinh tế đều suy giảm, chỉ
số sản xuất công nghiệp, doanh thu bán lẻ và dịch vụ, vốn đầu tư toàn xã hội, nhập khẩu,
tín dụng mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng ở mức thấp; vốn đầu tư trực nước ngoài đăng ký
và thực hiện đều tăng trưởng âm.
Nghĩa vụ trả nợ khiến dư địa ngân sách đang ngày càng mỏng, nợ công có thể mất
bền vững ngay cả khi có những cú sốc nhẹ. Ngoài ra, tình hình covid diễn biến tiếp tục
phức tạp, phát sinh những ổ dịch mới khiến cho tình hình kinh tế và tăng trưởng khó dự
đoán. Đồng nghĩa với điều này là nghĩa vụ nợ dự phòng có thể làm cho Việt Nam càng thêm dễ tổn thương. ❖ Chi tiết:
Tổng nợ công tăng lên cụ thể do ảnh hưởng của hai nhân tố là nợ trong nước và nợ
nước ngoài. Để làm rõ thêm về tình hình nợ công của Việt Nam giai đoạn 2016-2017 ta
cùng đi sâu vào để tìm hiểu.
- Đối với nợ trong nước
Qua từng năm nợ trong nước đều chiếm trên 50% tổng nợ công. Cụ thể trong giai
đoạn từ năm 2016-2017 nợ trong nước đã tăng thêm 200.131 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 6,9%
(Nợ trong nước năm 2016 là 2.900.914 tỉ đồng, năm 2017 là 3.101.045 tỉ đồng). Năm
2018, nợ trong nước là 3.254.883 tỉ đồng tăng 153.838 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 4,96% so
với năm 2017. Năm 2019, nợ trong nước là 3.345.913 tỉ đồng tăng 91.030 tỉ đồng với tỉ
lệ tăng 2,8% so với năm 2018. Năm 2020, nợ trong nước là 3.553.379 tỉ đồng tăng 207.466
tỉ đồng với tỉ lệ tăng 6,2% so với năm 2019. Năm 2021, nợ trong nước là 3.654.842 tỉ
đồng tăng 101.463 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 2,86% so với năm 2020.
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021 thì tỉ trọng nợ trong nước của năm 2016
là cao nhất ( 58,97%) so với tổng nợ công có thể cho thấy được rằng nền kinh tế của nước
ta đang phải đối diện với không ít khó khăn, hạn chế. Nguyên do bởi:
Cơ cấu nợ đã có sự thay đổi, tuy nhiên đặc điểm danh mục nợ chính phủ vẫn tiềm ẩn
rủi ro; điều kiện vay vốn ODA, ưu đãi nước ngoài kém thuận lợi hơn trước đây. Đặc điểm 12
chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ ghi nhận thách thức kép về điều kiện vay vốn
nước ngoài trở nên đắt đỏ hơn trong khi thị trường vốn trong nước còn chưa thực sự phát
triển. Quy mô thị trường trái phiếu trong nước còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của
các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành TPCP kỳ hạn
dài với mức lãi suất thấp trong trung, dài hạn là tương đối khó khăn.
Việc giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước
ngoài của Chính phủ còn chậm. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu
NSNN có xu hướng tăng nhanh. Trong 5 năm qua, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính
phủ so với thu NSNN diễn biến không đồng đều với xu hướng tăng nhanh vào cuối giai
đoạn. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản TPCP trong nước phát hành trong giai đoạn
trước để cân đối NSNN đã đến hạn trả nợ gốc. Mặt khác, tình hình thu NSNN năm 2020
bị sụt giảm mạnh trước tác động của dịch Covid-19, ước cả năm thu NSNN giảm 12,5%
so với dự toán. Kỳ hạn TPCP chưa đa dạng, việc huy động vốn của Chính phủ gặp một số
áp lực nhất định tại một số thời điểm; thị trường TPCP chưa hình thành đường cong lãi
suất chuẩn đối với kỳ hạn ngắn và còn thiếu nhà đầu tư dài hạn.
Việc thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số
25/2016/QH14 của Quốc hội đã góp phần tái cơ cấu nợ công theo hướng bền vững. Tuy
nhiên, việc tập trung huy động TPCP kỳ hạn dài trong các năm vừa qua có một số khó
khăn, cụ thể như: (i) Trên thị trường TPCP chỉ có các công cụ kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên,
không có lãi suất tham chiếu cho các kỳ hạn ngắn; (ii) Tại thời điểm thị trường có biến
động mạnh không phát hành được kỳ hạn ngắn, để ổn định thị trường...
- Đối với nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài về căn bản cũng tăng đều qua hàng năm trong giai đoạn từ năm 2016
tới năm 2021. Nợ nước ngoài năm 2021 chiếm tỉ trọng lớn nhất ( 46,88%) trong tổng nợ.
Cụ thể đi vào từng năm ta được, năm 2016 nợ nước ngoài là 2.018.647 tỉ đồng, năm 2017
là 2.451.169 tỉ đồng, năm 2017 so với năm 2016 đã tăng lên 432.552 tỉ đồng với tỉ lệ tăng
là 21,43%. Năm 2018, nợ trong nước là 2.548.352 tỉ đồng tăng 91.183 tỉ đồng với tỉ lệ
tăng 3,96% so với năm 2017. Năm 2019, nợ nước ngoài là 2.841.488 tỉ đồng tăng 293.136
tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 11,5% so với năm 2018. Năm 2020, nợ nước ngoài là 3.016.287
tỉ đồng tăng 174.779 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 6,15% so với năm 2019. Năm 2021, nợ nước
ngoài là 3.226.046 tỉ đồng tăng 209.759 tỉ đồng với tỉ lệ tăng là 6,95% so với năm 2020.
Bên cạnh việc vay nợ thì việc trả nợ cũng dần được gia tăng qua các năm, nhưng giai đoạn
năm 2018-2019 việc trả nợ bị giảm đi 220.976 tỉ đồng với tỉ lệ giảm 9,99%. Việc tăng nợ
nước ngoài quốc gia tuy đáp ứng được nhu cầu vốn và huy động nguồn lực cho phát triển
kinh tế- xã hội và tăng trưởng nhưng cũng tác động tới khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia. 13
Về ký kết hiệp định vay nước ngoài, giai đoạn 2016-2021 tổng trị giá ký kết các khoản
vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ ước khoảng hơn 12,7 tỷ USD, trong đó
giai đoạn 2016-2021 đã ký kết hơn 112 hiệp định vay với tổng trị giá hơn 11,9 tỷ USD.
Về rút vốn vay nước ngoài, trong giai đoạn 2016-2021, rút vốn vay ODA, vay ưu đãi nước
ngoài của Chính phủ khoảng 15,9 tỷ USD, tương đương khoảng 360.000 tỷ đồng, bao
gồm vay nước ngoài cho cấp phát ngân sách Trung ương và vay về cho vay lại. Mặt bằng
lãi suất bình quân nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (1,8%/năm) do
gần 98% khoản vay nước ngoài có điều kiện ODA, ưu đãi; kỳ hạn vay bình quân 25 năm,
thời gian ân hạn bình quân 7 năm, đáp ứng yêu cầu về vay dài hạn cho đầu tư phát triển.
Trong những năm qua, việc trả nợ các khoản vay của Chính phủ được tổ chức thực
hiện chặt chẽ và đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và
nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới cam
kết với các nhà đầu tư.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2016-2021, Chính phủ đã tập trung nâng cao chất lượng các
đợt làm việc thường niên của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam khiến chi phí
huy động vốn nước ngoài của cả Chính phủ và doanh nghiệp sẽ giảm đi. Để đạt được kết
quả giữ nguyên hệ số tín nhiệm của Việt Nam, trước hết phải kể đến thành công của Chính
phủ trong việc kiềm chế hiệu quả đại dịch Covid-19 trong nước, qua đó khẳng định tiềm
năng phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hậu đại dịch. Chính phủ cắt giảm mạnh
bội chi và tỷ lệ nợ công, tạo dư địa dự phòng chính sách để ứng phó với rủi ro vĩ mô như
nền kinh tế nước ta đang đối mặt trong năm 2021. ❖ Kết luận
Trong giai đoạn từ năm 2016-2021 ta thấy cả nợ trong nước và nợ nước ngoài đều có
xu hướng tăng lên và nợ trong nước chiếm tỉ trọng lớn hơn so với nợ nước ngoài trong
tổng nợ công. Chính vì thế Chính phủ cần có một số giải pháp cụ thể để công tác quản lý
nợ công được tốt hơn. 14
2.3.2. Theo nợ chính phủ, Nợ CP bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. ĐVT: TỶ ĐỒNG Năm 2017 Năm 2018 Tỷ trọng Tỷ trọng Chỉ tiêu Giá trị (%) Giá trị (%) Tổng nợ công 3.101.046 100% 3.254.884,14 100% Nợ chính phủ 2.587.371 83,44% 2.767.229,12 85,02% Nợ Chính phủ bảo lãnh 455.922,66 14,70% 437.372,30 13,44%
Nợ chính quyền địa phương 57.752,13 1,86% 50.282,72 1,54% Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Tỷ Tỷ Tỷ trọng trọng trọng Chỉ tiêu Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) Tổng nợ công
3.345.914,55 100% 3.553.362,56 100% 3.654.843,71 100% 89,84 Nợ chính phủ
2.897.857,78 86,61% 3.138.602,82 88,33% 3.283.391,87 % Nợ Chính phủ bảo 8,76 lãnh
402.066,16 12,02% 367.823,62 10,35% 320.342,64 % Nợ chính quyền 1,40 địa phương 45.990,61 1,37% 46.936,12 1,32% 51.109,20 %
Cơ cấu nợ công của Việt Nam giai đoạn này đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng nợ chính phủ, giảm tỷ trọng nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương
giữ ở mức ổn định. Điều này được đánh giá là có mức độ rủi ro khá cao ● NỢ CHÍNH PHỦ
Cơ cấu nợ chính phủ trong tổng công nợ tăng lên theo các năm có thể là do bội chi
NSNN, do nhu cầu gia tăng chi đầu tư phát triển và do khó khăn trong việc hoàn trả nợ.
Nợ chính phủ tăng giúp tăng vốn đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu Chính
phủ vẫn đảm bảo được việc thanh toán các khoản nợ đúng hạn thì cơ bản được đánh giá
là hợp lý. Đây cũng là khoản nợ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nợ công của nước ta.
Năm 2019 và 2020, tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP lần lượt là 48% và 50,8%, vượt chỉ
tiêu đề ra trong kế hoạch tài chính – ngân sách giai đoạn 2016 – 2020 (54%).
● NỢ CHÍNH PHỦ BẢO LÃNH
Nợ Chính phủ bảo lãnh giảm đi có thể là do định hướng của Chính phủ trong việc
hỗ trợ các doanh nghiệp, ngân hàng chính sách để thực hiện mục tiêu xã hội. Nợ Chính 15
phủ bảo lãnh giảm đi giúp giảm áp lực thanh toán, kiểm soát việc đảm bảo trả nợ cho Chính phủ.
● NỢ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Nợ chính quyền địa phương giảm đi có thể là do nhu cầu phát triển kinh tế địa phương
giảm và vốn đầu tư phát triển do Chính phủ cấp đủ chi. Cơ cấu nợ Chính quyền địa phương
giảm dần,có thể là do các địa phương đã tự cân đối được thu chi ngân sách hoặc do tăng
khoản vay từ Chính phủ. ● KẾT LUẬN:
Tình hình nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021 có nhiều triển vọng khả
quan, nợ công đã được quản lý, các chỉ tiêu an toàn nợ công được kiểm soát chặt chẽ,
nằm trong giới hạn trần nợ được Quốc hội phê chuẩn trong kế hoạch tài chính quốc gia
5 năm giai đoạn 2016 - 2020 và giai đoạn 2021-2025 góp phần làm tăng dư địa chính
sách tài khóa. Tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro trong danh mục nợ công cần đặc biệt
theo dõi và kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhưng sẽ phải thấy việc quản lý nợ công tốt hơn đạt
được một phần là nhờ việc Luật Quản lý nợ công đi vào cuộc sống, qua đó đã tạo ra
những thay đổi cơ bản về thống nhất chức năng huy động vốn vay nợ công, tăng cường
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nợ công. 16
BÀI TẬP CHƯƠNG 3: Giám sát tài chính tổ chức tín dụng
3.1. Tiêu chí về Vốn Đvt:Tỷ đồng Chênh lệch Chênh lệch 2021 - Năm 2022-2021 2020 Chỉ tiêu Năm 2022 Năm 2021
2020 Tuyệt Tỷ lệ Tuyệt đối (%) đối Tỷ lệ (%) 1. Vốn điều lệ 50.585 50.585 40.220 - - 10.365 25,77% - VTC
143.296 121.989 105.242 21.307 17,47% 16.747 15,91% - Tổng TS theo mức độ RR
1.605.727 1.419.211 1.289.760 186.516 13,14% 129.451 10,04% 2. CAR (%) 8,92%
8,60% 8,16% 0,33% 3,82% 0,44% 5,34%
Vốn điều lệ của BIDV năm 2020 là 40.220 tỷ đồng. Vốn điều lệ năm 2021 đạt 50.585
tỷ đồng, tăng 10.365 tỷ đồng so với năm 2020, giữ vững vị trí đứng đầu trong các ngân
hàng thương mại cổ phần. Năm 2022, vốn điều lệ của BIDV không tăng so với năm 2021
(50.585 tỷ đồng). Theo Nghị định số 86/2019/NĐ-CP quy định mức vốn pháp định của tổ
chức tín dụng. Cụ thể, mức vốn pháp định đối với Ngân hàng thương mại là 3.000 tỷ đồng.
Cả 3 năm mức vốn điều lệ của BIDV đều đảm bảo quy định.
Tỷ lệ an toàn vốn năm 2022 là 8,92%; tăng 0,77% so với năm 2020 và tăng 0,32%
so với năm 2021. Như vậy vào năm 2020, BIDV có khả năng tài trợ được 8,15% tài sản
sau khi điều chỉnh rủi ro bằng nguồn vốn tự có. Đến năm 2021, BIDV có khả năng tài trợ
được 8,6% tài sản sau khi điều chỉnh rủi ro bằng nguồn vốn tự có. Nhưng đến năm 2022,
BIDV có khả năng tài trợ được 8,92% tài sản sau khi điều chỉnh rủi ro bằng nguồn vốn tự
có. Hệ số này tăng cho thấy mức độ đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng đã tăng lên. Theo
quy định của Basel II và Basel III thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đều là 8%. Ta thấy được cả
3 năm tỷ lệ an toàn vốn đều đảm bảo quy định.
Nhìn chung, BIDV đã thực hiện tốt các mục tiêu chiến lực kinh doanh, đảm bảo phát
triển bền vững và thực hiện tốt vai trò dẫn dắt thị trường cũng như tuân thủ chặt chẽ các tỷ
lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo quy định hiện hành của NHNN và tuân thủ quy định
Basel II. Điều này cần được nâng cao và đẩy mạnh hơn nữa. Nâng cao năng lực quản trị
điều hành, năng lực quản lý rủi ro. Tập trung triển khai các phương án tăng vốn điều lệ,
vốn tự có nhằm nâng cao năng lực tài chính, cải thiện hệ số CAR. 17
3.2. Tiêu chí về Chất lượng tài sản Đvt:Tỷ đồng
Chênh lệch 2022 Chênh lệch 2021 - Năm Năm -2021 2020 Chỉ tiêu Năm 2022 2021 2020 Tuyệt Tỷ Tuyệt đối lệ(%) đối Tỷ lệ(%) - Nợ xấu 16.682 12.265
19.600 4.417 36,01% -7.335 -37,42% - Tổng dư nợ
1.713.000 1.461.137 1.269.451 251.863 17,24% 191.686 15,10% 1. Tỷ lệ nợ xấu (%) 0,97% 0,84%
1,54% 0,13% 16,01% -0,70% -45,63% - VCSH 96.781 81.018 74.235 15.763 19,46% 6.783 9,14% 2. Tỷ lệ nợ xấu
trên VCSH (%) 17,24% 15,14% 26,40% 2,10% 13,86% -11,26% -42,66% - DPRRTD 37.326 28.222
18.059 9.104 32,26% 10.163 56,28% 3. Tỷ lệ nợ xấu sau DPRRTD so với VCSH
55,80% 49,97% 50,73% 5,83% 11,67% -0,76% -1,49%
❖ Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng BIDV
Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng BIDV 2021 là 0,84%, cuối năm 2020 là 1,54%. Tỷ lệ nợ xấu
cuối năm 2021 so với cuối năm 2020 giảm đi 0,7% với tỷ lệ giảm là 45,63%, cuối năm
2022 so với cuối năm 2021 lại tăng 0,13% với tỷ lệ tăng tương ứng là 16,01%. Như vậy,
tuy 2021-2022 tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng có xu hướng tăng nhưng nhìn chung tỷ lệ này ở
cả 3 thời điểm cuối năm đều đã đạt chuẩn theo thông tư 02/2018 là <1,6%. Trong đó có
năm 2021 và năm 2022 đạt dưới 1%, là dấu hiệu tốt.
❖ Tỷ lệ nợ xấu so với VCSH:
Tỷ lệ nợ xấu so với VCSH của ngân hàng BIDV cuối năm 2020 là 26,4%, cuối năm 2021
là 15,14%, cuối năm 2020 là 26,4%. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu so với VCSH cuối năm 2021 so
với năm 2020 đã giảm đi 11,26% với tỷ lệ giảm 42,66%, cuối năm 2022 tăng 2,1% với tỷ
lệ tăng tương ứng là 13.86%.Một trong những nguyên nhân biến động và do VCSH của
NH năm 2020-2021 và năm 2021-2022 có sự tăng trưởng lần lượt là 9,14% và 19,64%. Tỷ
lệ này giảm đi đáng kể 42,66% ở năm 2021 là dấu hiệu tốt cho thấy tình hình quản trị nợ
xấu của doanh nghiệp ở giai đoạn này là tích cực.
❖ Tỷ lệ nợ xấu sau dự phòng rủi ro so với VCSH: 18
Tỷ lệ nợ xấu sau DPRR so với VCSH của ngân hàng BIDV năm 2022 là 55,8%, tỷ lệ nợ
xấu sau DPRR so với VCSH của ngân hàng năm 2021 là 49,97%. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu
sau dự phòng rủi ro so với VCSH năm 2022 so với năm 2021 đã tăng đi 5,83% với tỷ lệ tăng 11,67%.
- Nợ xấu của ngân hàng năm 2021 đã giảm đi 37.43% so với cuối năm 2020. Đến cuối
năm 2022 lại tăng 36,01% so với cuối năm 2021. Điều này giúp duy trì tỷ lệ nợ xấu của
BIDV ở mức ổn định, đạt chuẩn thông tư của NHNN.
- Vốn chủ sở hữu của NH năm 2020-2021 và năm 2021-2022 có sự tăng trưởng lần lượt
là 9,14% và 19,64%. Tỷ lệ này giảm đi đáng kể 42,66% ở năm 2021 là dấu hiệu tốt cho
thấy tình hình quản trị nợ xấu của doanh nghiệp ở giai đoạn này là tích cực.
- Dự phòng rủi ro tín dụng năm 2020 có biến động khá lớn khi đến cuối năm 2021 đã
tăng 56,28% so với cuối năm 2020. Đến năm 2022 DPRRTD vẫn tiếp tục tăng khi so
với cuối năm 2021 thì năm 2022 đã tăng là 32,26%. Đây là một tín hiệu tích cực đối
với ngành NH tuy nhiên vẫn là một thử thách lớn đối với ngân hàng nếu không sử dụng
hiệu quả để tạo ấn tượng đối với nhà đầu tư...
❖ Tổng quan: Tiêu chí về mặt chất lượng tài sản của BIDV đc đánh giá là chưa hợp
lý. Trong đó còn nhiều mặt hạn chế như tỷ lệ nợ xấu đang tăng khá nhiều đi cùng là
việc sử dụng vốn chủ và dự phòng rủi ro chưa đạt được yêu cầu cao nhất.
❖ Mục tiêu cũng năm 2023
BIDV quyết tâm phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm với các chỉ tiêu chính: Dư
nợ tín dụng điều hành theo giới hạn tín dụng Ngân hàng Nhà nước giao, dự kiến tăng 12 -
13%; huy động vốn điều hành phù hợp với sử dụng vốn, đảm bảo an toàn, hiệu quả, dự kiến
tăng 11%; kiểm soát tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ở mức ≤1,4%...
Để hoàn thành những mục tiêu đề ra, BIDV quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
năm 2023 như: Chuyển đổi toàn diện hoạt động của hệ thống gắn với ứng dụng công nghệ
thông tin, đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động...
Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng tài sản...; đa dạng hóa sản
phẩm dịch vụ gắn liền với nâng cao chất lượng phục vụ và sự hài lòng của khách hàng. 19