Bài tập lớn KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU

Bài tập lớn KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
***
BÀI TẬP LỚN: HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC LÊ-NIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Họ và tên: Nguyễn Quỳnh Anh
Mã SV: 11200253
Lớp tín chỉ: LLNL1106
Số thứ tự: 03
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 1
lOMoARcPSD| 44820939
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về sản xuất hàng hoá .................................... 2
1.1. Sản xuất hàng h ............................................................................................. 2
1.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 2
1.1.2. Điều kiện ra đời ............................................................................................. 2
1.1.3. Ưu điểm của sản xuất hàng hoá ..................................................................... 2
1.1.4. Ưu thế sản xuất hàng hoá .............................................................................. 3
1.2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá .......................................................................... 3
1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 3
1.2.2. Ưu điểm .......................................................................................................... 3
1.2.3. Nhược điểm .................................................................................................... 4
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay ....................................................................... 5
2.1. Thực trạng về phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam ................................. 5
a. Khu vực nông, lâm, thủy sản: .............................................................................. 5
b. Khu vực công nghiệp và xây dựng: ...................................................................... 5
c. Khu vực thương mại và dịch vụ: .......................................................................... 5
d. Đánh giá thực trạng: ............................................................................................ 5
2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay ............................ 6
3. Nguyên nhân của thực trạng ................................................................................... 8
3.1. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần .............................................. 8
3.2. Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở” .............................................. 9
3.3. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và công nghệ đang ở mức kém.......................... 9
3.4. Nền kinh tế nhiều thành phần cần có người dẫn đầu.................................... 10
4. Giải pháp đề xuất để khắc phục hiện trạng ......................................................... 11
4.1. Đối với nhà nước .............................................................................................. 11
4.2. Đối với doanh nghiệp và người lao động ........................................................ 14
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 15
lOMoARcPSD| 44820939
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi giới thiệu và khái quát về chủ đề muốn làm sáng tỏ, em xin phép được
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Nguyễn Thị Thanh Hiếu- giảng viên học phần Kinh tế
Chính trị, người đã truyền đạt những kiến thức bổ ích một cách dễ tiếp thu nhất về
các luận của Kinh tế Chính trị Mác-Lênin - chính sở để em thể hoàn thành
bài luận này một cách tốt nhất. Đồng thời, sử dụng vốn kinh nghiệm kỹ năng của
mình, đã ớng dẫn cũng như tạo điều kiện cho những tân sinh viên như chúng em
hội được thhiện bản thân, vận dụng kiến thức vào thực tế chứ không chỉ đơn
giản là trong lý thuyết, sách vở.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, kinh tế thị trường cũng đóng vai trò chủ đạo, ảnh
hưởng không nhỏ đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Sau hơn 10 năm hoàn
toàn đổi mới, đứng trước những thử thách khó khăn, tình hình vô cùng khó khăn, phức
tạp, nhưng Đảng nhân dân Việt Nam không những đứng yên, còn vùng dậy lập
nhiều thắng lợi. Nguyên nhân bản của thắng lợi này do Đảng Nhà nước ta đã
kiên quyết chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự chỉ đạo của Nhà nước và định
hướng hội chủ nghĩa. Đây bước ngoặt quan trọng thể hiện quyết định sáng suốt
của Đảng nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất nước. Nhìn lại
những năm thực hiện tái cấu, có thể thấy, trong một thời gian dài, các nước hội
chủ nghĩa (kể cả nước ta) nhận thức chưa đúng về vai trò của sản xuất hàng hóa và kinh
tế thị trường.
Mặt tiêu cực của kinh tế hàng hóa, phủ nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó,
chúng ta không thể xây dựng động lực. ra sức mở rộng sản xuất, tình hạn chế ứng
dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, năng suất sản xuất tăng chậm, gây ra sự lộn xộn,
chia cắt trong quá trình phân phối lưu thông, đẩy nền kinh tế vào tình trạng ngừng
hoạt động, trì trệ.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang bước vào thời đẩy mạnh công nghiệp
hoá và hiện đại hoá và rất nhiều hiệp định thương mại được kí kết giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới. Đây một hội lớn với đất nước còn non trẻ như Việt Nam song
cũng đối mặt rất nhiều khó khăn, thử thách đòi hỏi công nghệ, thuật cao, phát triển
nguồn nhân lực, năng suất lao động … Nhận thấy tầm quan trọng của kinh tế chính trị
đối với sinh viên, em, một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để góp phần
nhỏ vào toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát ra khỏi tình cảnh m
phát triển, “thực hiện dân giàu, ớc mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh”, muốn
tìm hiểu thêm về thực trạng sinh viên trước vấn đề sản xuất hàng hóa hiện nay, em quyết
định chọn đề tài “Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóa liên hệ
với thực tiễn ở Việt Nam” làm bài tiểu luận của mình.
lOMoARcPSD| 44820939
2
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về sản xuất hàng hoá.
1.1. Sản xuất hàng hoá.
1.1.1. Khái niệm.
Kinh tế chính trị Mác -nin đã giải thích làm rõ khái niệm về sản xuất hàng
hóa, nó được xác định là một kiểu tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế mà ở đó, con
người sản xuất ra các vật phẩm không để phục vụ cho bản thân, ngược lại , nhằm để
phục vụ cho người khác với mục đích mang về một lợi ích khác. Hay nói ngắn gọn, sản
xuất hàng hóa là một hoạt động trao đổi và mua bán.
1.1.2. Điều kiện ra đời
Từ thời xa xưa, hội loài người đã xuất hiện sau khi trải qua giai đoạn tự
cung tự cấp thì con người mới tiến đến nền sản xuất hàng hóa nhờ vào hai yếu tố:
Thứ nhất, do có sự phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động
hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Do sự phân công lao động hội n việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Khi phân công lao động hội, m i người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản
phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải nhiều loại sản phẩm
khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau.
Phân công lao động hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao
đổi sản phẩm.
Thứ hai, sự tách biệt tương đ Āi về mt kinh tế gia nhng người sản xuất.
Những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau.
Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng
hoá.
1.1.3. Ưu điểm của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá gồm các đặc trưng cơ bản sau:
Sản xuất ng hóa sản xuất để trao đổi, mua bán: Sản xuất hàng hóa là kiểu
tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kỳ đầu của lịch sử
loài người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính nhân, vừa mang tính
xã hội: Tính chất nhân thể hiện đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi
nhân người làm ra hoặc người trực tiếp sở hữu liệu sản xuất trên danh
nghĩa. Tính chất hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu
của những người khác trong hội. Tính chất nhân đó thể phù hợp hoặc
không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính mâu thuẫn bản của sản xuất
hàng hóa.
Mục đích của sản xuất hàng hóa giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị
sử dụng.
lOMoARcPSD| 44820939
3
1.1.4. Ưu thế sản xuất hàng hoá.
Tác dụng vào sức sản xuất củahội, mở đường cho lực lượng sản xuất không
ngừng phát triển:
Trong sản xuất tự cấp tự túc m i người tự sản tự tiêu, cho nên chính nhu cầu tiêu
dùng sản phẩm của họ hạn chế sức sản xuất, dù còn nhiều đến mấy nhưng chỉ làm đủ ăn
đủ dùng. Như vậy nhu cầu hạn hẹp của từng chủ thể kinh tế hạn chế sức sản xuất mặc
nguồn lực vẫn còn. không trao đổi nên khi công cụ trong tay chỉ lựa chọn
được một số ngành nghề nhất định. Nhưng trong kiểu tổ chức sản xuất hàng hóa chỉ cần
có ý tưởng sản xuất có sức lao động thì tất cả những nguồn lực khác có thể tìm kiếm hết
trên thị trường, không giới hạn nguồn lực để đổ vào sản xuất, cả nhu cầu tiêu thụ sản
phẩm cả nguồn lực đầu vào sản xuất đều không bị giới hạn, sản xuất của hội được
giải phóng dẫn tới lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Thúc đẩy quá trình hội hóa sản xuất: sản xuất hàng hóa phá vỡ tính chất tự
cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Phát huy hết lợi thế về tự
nhiên, xã hội và công nghệ của mọi cá nhân, mọi thể chế, mọi vùng, mọi nơi để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc dân
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: hội ngày càng phát triển, nhu cầu của
con người ngày càng gia tăng cả về lượng chất, sản xuất hàng hóa giúp cho
họ nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện
đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
1.2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
1.2.1. Khái niệm
Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nền kinh tế sự phân công lao động, trao
đổi hàng hoá, dịch vụ giữa người với người. Có thể hiểu một cách đơn giản, A sản xuất
được nhiều gạo, B sản xuất được nhiều rau, A đổi gạo cho B để lấy rau ngược lại.
Điều này hoàn toàn trái ngược với nền kinh tế tự cung tự cấp, nơi mọi người tự sản xuất
sản phẩm và tiêu dùng.
Nền kinh tế hàng hóa là sự phát triển cao hơn một bậc so với nền kinh tế tự cung
tự cấp. Nền kinh tế tự cung tự cấp không sự trao đổi hàng hóa, ai làm bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu. Sản xuất hàng hoá tồn tại tiếp tục phát triển ở nhiều hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Do đó, nền kinh tế hàng hóa
nhiều ưu điểm và là một loại hình hoạt động kinh tế tiên tiến hơn nhiều. So với sản xuất
tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa sản xuất theo chiều sâu, hợp tác chặt chẽ hơn. Để
trao đổi và mua bán được, ta cần sản xuất hàng hóa, điều này làm thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Từ đó mà sản xuất hàng hóa đem lại giá trị, lợi nhuận.
1.2.2. Ưu điểm
So với nền kinh tế tự nhiên còn dấu vết ở nước ta, nền kinh tế hàng hoá có những
ưu điểm sau:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên sở của phân công lao động hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên,
lOMoARcPSD| 44820939
4
hội, thuật của từng người, từng sở sản xuất cũng như từng vùng, từng
địa phương.
Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng
tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc.
Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của m i ngành, m i
địa phương làm cho năng suất lao động hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội
được đáp ứng đầy đủ hơn.
Khi sản xuất trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì còn khai thác
được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, qui sản xuất không còn bị giới hạn
bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của m i cá nhân, gia đình, m i
sở, m i vùng, m i địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và
nguồn lực của hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học - kĩ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng a, sự tác động của qui luật vốn của sản
xuất và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... Buộc người
sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kĩ
thuật, hợp hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế,
cải tiến hình thức, qui cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ
xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng
giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
1.2.3. Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hoá cũng những nhược điểm, thị trường
chứa đựng nhiều yếu ttự phát, không ổn định làm mất cân đối kép. chạy theo lợi
nhuận, các nhà sản xuất, buôn bán sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu:
Thứ nhất: Đặt lợi nhuận lên hàng đầu, lợi nhuận không giải quyết được cái gọi
là “hàng hóa công cộng”.
Thứ hai: Vấn đề công bằng hội không được bảo đảm, phân hóa hội trầm
trọng, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn.
Thứ ba: Đạo đức băng hoại, muốn làm giàu bằng mọi giá không còn lương tâm
sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng. Ngoài ra, môi trường sống của con
người cũng bị tàn phá nặng nề.
Do tính tự phát vốn có của nó, nền kinh tế hàng hoá không những không tiến bộ
mà còn kéo theo suy thoái, khủng hoảng xung đột hội, do đó cần sự can thiệp
và quản lý chặt chẽ của nhà nước. Từ đó đảm bảo hiệu quả vận hành thông suốt của thị
trường, tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của phát triển kinh tế,
sửa chữa, khắc phục những khuyết tật cố hữu, trở thành công cụ quan trọng để điều tiết
lOMoARcPSD| 44820939
5
thị trường. như vậy, nhà nước mới thể ngăn chặn tính tự phát đồng thời kích thích
sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa dưới hình thức thương mại.
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng về phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
a. Khu vực nông, lâm, thủy sản:
Năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp ngư nghiệp tăng 2,52%,đóng góp 8,85%
vào mức tăng trưởng chung; thấp hơn mức tăng của các năm 2021 (2,9%) và năm 2022
(3,36%). Trong đó:
Ngành nông nghiệp, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2023 tăng 2,43%
so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá
trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Ngành lâm nghiệp tăng 3,66% lớn hơn so với cùng quý năm trước, nhưng chiếm
tỉ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0.02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị
tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Ngành thủy sản quý I/2023 tăng 2,68% lớn hơn so với quý I năm 2022 (2,54%),
đóng góp 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền
kinh tế.
b. Khu vực công nghiệp và xây dựng:
0,82% mức giảm của giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I/2023 so với
cùng kỳ năm trước, mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2023, làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng
thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37% (làm giảm
0,1 điểm phần trăm). Ngành khai khoáng giảm 5,6% (sản lượng khai thác than giảm
0,5% dầu mỏ thô khai thác giảm 6%) (giảm 0,2 điểm phần trăm). Riêng ngành xây
dựng tăng 1,95%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,28% 1,41% của cùng kỳ năm 2011
2012 trong giai đoạn 2011-2023 (đóng góp 0,12 điểm phần trăm).
c. Khu vực thương mại và dịch vụ:
Khu vực dịch vụ trong quý I/2023 thể hiện sự phục hồi nhờ hiệu quả của các
chính ch kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mcửa nền kinh tế trở lại từ ngày
15/3/2022 khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng du lịch
Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Đóng góp của một số ngành dịch
vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay nsau: Dịch vụ lưu trú
ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; ngành
bán buôn bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho
bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành thông tin truyền thông tăng
1,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
d. Đánh giá thực trạng:
Nhng thành tựu đạt được:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và có xu hướng tăng: Trong quý I năm 2013
tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước chừng tăng 3,32% so với cùng kỳ năm
lOMoARcPSD| 44820939
6
trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý năm 2020 trong giai đoạn
20112023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản tăng 2,52%, đóng
góp
8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp xây dựng giảm 0,4%,
làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%. Kết quả điều
tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo trong quý I năm 2023 cho thấy: 24,3% sdoanh nghiệp đánh giá tình hình
sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV năm 2022; 37,2% số doanh nghiệp
cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 38,5% số doanh nghiệp đánh
giá gặp khó khăn. Dự kiến quý II năm 2023, có 44,1% số doanh nghiệp đánh giá
xu hướng sẽ tốt lên so với quý I năm 2023; 35,3% số doanh nghiệp cho rằng tình
hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 20,6% số doanh nghiệp dự báo khó khăn
hơn. Nhìn chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ng hóa ước
nh đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất
khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của
Chính phủ, bộ ngành địa phương cùng với với sự n lực của các doanh nghiệp
xuất khẩu n cán cân thương mại hàng hóa quý I năm 2023 ước tính xuất siêu
4,07 tỷ USD.
Năng suất lao động tăng: Nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản có mức năng
suất lao động thấp nhất (năm 2015 chỉ bằng 38,5% năng suất chung, bằng 38,5%
năng suất lao động nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thấp nhất trong
21 ngành); đã giảm tỷ trọng số lao động đang làm việc từ mức cao nhất trong 3
nhóm ngành năm 2015 xuống mức thấp nhất trong năm 2022. Các ngành trong
nhóm ngành công nghiệp - xây dựng năng suất lao động cao hơn năng suất
chung, cao gấp nhiều lần năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp
- thủy sản cao hơn năng suất lao động của nhóm ngành dịch vụ, nên tỷ trọng
lao động đang làm việc đã tăng nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tỷ
trọng tăng nhanh nhất. Nhóm ngành dịch vụ mức năng suất lao động cao thứ
hai trong 3 nhóm ngành, cao hơn mức năng suất chung, cao hơn mức năng suất
lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp thủy sản. Tuy nhóm ngành dịch vụ
nhìn chung có quy mô nhỏ, dễ điều chỉnh…, nhưng công nghiệp - xây dựng
ngành kinh tế thực, lại năng suất lao động cao nhất Việt Nam đang trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu đến 2025 công nghiệp
theo hướng hiện đại,
2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Nền kinh tế hàng hóa của nước ta đang theo hướng phát triển từ
hình tự cung tự cấp tự chủ sang việc xây dựng hệ thống các chu i hàng hóa
được sản xuất bằng việc không ngừng trao đổi buôn bán. Tuy nhiên trên đà
phát triển, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và những bất cập trong nhiều
khía cạnh dẫn đến khả năng cạnh tranh kém ở thị trường nước ngoài.
lOMoARcPSD| 44820939
7
Thứ hai: Nguồn lực tổng hợp to lớn của nền kinh tế nhiều thành phần đã h trợ
góp phần nâng tầm nền sản xuất hàng hóa lên một bước tiến mới, góp phần
đưa nền kinh tế Việt Nam vượt khỏi thực trạng yếu kém. Đặc biệt, cơ cấu ngành
theo hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh
tế hàng hóa thu hút một số lượng lớn lao động.
Thứ ba: Nền kinh tế hàng hóa theo cấu ‘mở’ giữa nước ta với các nước trên
thế giới. Việt Nam đang dần hội nhập với ớc ngoài trên mọi lĩnh vực, kể cả
trong nền kinh tế sản xuất, thường xuyên xuất-nhập khẩu hàng hóa để phục vụ
cho người dân, cũng như tạo tiếng vang cho hàng hóa của Việt Nam tầm thế
giới.
Thứ tư: Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo hướng hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Vai trò
của nền kinh tế nhà ớc rất lớn trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của
những ngành kinh tế khác nhau, thúc đẩy chúng phát triển theo hướng XHCN,
quản lý một cách năng suất, hiệu quả và đảm bảo chất lượng để đứng vững trên
thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đặc điểm đầu tiên vẫn được xem nổi bật nhất,
dù cho bước đầu phát triển, nền kinh tế nhiều thành phần đã được công nhận.
Việt Nam bắt đầu phát triển kinh tế ở cả hai mảng công nghiệp, nông nghiệp với
xu hướng đẩy mạnh ng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền phát huy nông nghiệp
một cách toàn diện. Vận hành theo chế quản của nhà nước đphát triển
việc sản xuất theo ớng hội chủ nghĩa. Nhưng hiện tại Việt Nam vẫn còn
nhiều tồn tại chưa được khắc phục, dẫn nền kinh tế chậm phát triển chiều sâu.
Bảng 1: T Āc độ tăng GDP của Việt Nam qua các năm từ 1981-2021
Giai đoạn 1986 – 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo chế thị trường
lOMoARcPSD| 44820939
8
sự quản của Nhà nước. Đỉnh cao nhất của biểu đồ tăng trưởng
năm 1995 với tỷ lệ tăng đạt 9,5%. Và ngược lại, những năm 1986-1987 là
năm có tỷ lệ tăng trưởng GDP rất thấp, ơng ứng chỉ 3,4% và 2,5% – đây
cũng là năm đánh dấu sự kiện mở cửa nền kinh tế (Đại Hội Đảng VI).
Giai đoạn 2000 2007: đây giai đoạn nền kinh tế hàng hóa nước ta
phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. “Năm 2003 tăng 7,3%;
2004: 7,7%; 2005: 8,4%; 2006: 8,2%”. Tốc độ tăng trưởng năm 2007
8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Tăng trưởng kinh tế năm 2007
của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
trong khu vực (Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB thì
năm 2007 kinh tế Trung Quốc tăng 11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-
po tăng 7,5%; Phi-lip-pin tăng 6,6%; In-đô-nê-xi-a tăng 6,2%; Ma-lai-xi-
a tăng 5,6%; Thái Lan tăng 4%). Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát
triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có hội mở rộng thị trường
ra thế giới.
Giai đoạn 2007 nay: Mức tăng trưởng thấp này được lặp lại vào năm
2020 (2,91%) và 2021 (2,58%) do ảnh ởng nghiêm trọng của dịch bệnh
Covid-19. Xen giữa đó nước ta cũng có những thời kỳ tốc độ tăng trưởng
kinh tế bị chậm lại như giai đoạn 1997-1999 do ảnh ởng của khủng
hoảng kinh tế Châu ÁKinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng
trưởng GDP giảm tốc lạm phát kéo dài. Các chính sách đưa ra không
đem lại hiệu quả.
3. Nguyên nhân của thực trạng
3.1. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần
Khái niệm nền kinh tế nhiều thành phần được hiểu rộng rãi là sự tồn tại của nhiều
hình thức quan hệ sản xuất cũng như sự tổng hợp các phương tiện này để tạo ra sự
thống nhất kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong lịch sử, khi đất nước còn trong tình trạng kém phát triển về kinh tế và đột
ngột chuyển sang thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa thì nguồn lực của các hình thức kinh
tế trước đây vẫn còn được hấp thụ, vẫn tồn tại phát triển theo dòng chảy của
hội mới vẫn còn hiệu quả tiềm năng cần được duy trì để h trợ nền kinh tế
trong thời kỳ mới.
Mặt khác, việc khai thác, phát huy các thành phần kinh tế mới là cần thiết để tạo
nền tảng cho những giai đoạn đầu phát triển xã hội chủ nghĩa.
Về mặt thuyết, quan hệ sản xuất phải hoàn toàn phù hợp với trình độ dân số
năng động để đáp ứng sự phát triển kinh tế một cách đồng bộ và có chất lượng cao.
Nhưng thực tế cho thấy Việt Nam bước vào thời kỳ hội chủ nghĩa với sự chuẩn
bị kém về trình độ lao động, có sự phân công lao động rõ ràng giữa các vùng, các ngành
dẫn đến sự phân bổ không đồng đều giữa các thành phần kinh tế, n cạnh đó đòi hỏi
sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
lOMoARcPSD| 44820939
9
Sự đa dạng của các thành phần kinh tế hài hòa với sự bất bình đẳng về lực lượng
sản xuất, giúp phát huy hiệu quả kinh tế nhanh hiệu quả, đồng thời làm phong phú
thêm sự đa dạng của các mặt hàng hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng
tốt nhất nhu cầu tiêu dùng.
3.2. Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở”
Trong khi nhiều quốc gia đang tiếp cận được công nghệ, lao động chân tay vẫn
là hình thức sống bản; Và trong khi họ không ngừng phát huy, tìm tòi, cải tiến công
nghệ hiện đại thì Việt Nam mới chỉ bắt đầu bước vào giai đoạn khởi đầu, sự chênh lệch
không nhỏ về trình độ thời gian đã trở thành rào cản lớn giữa các quốc gia. tất
nhiên, chính phủ nước ta đã nhận thức được vấn đề, tầm quan trọng của việc mở rộng
thị trường ra nước ngoài cũng như giải pháp để sản phẩm của nước ta được tiêu thụ tốt
được biết đến rộng rãi nhất thể. Hội nhập quốc tế xuất nhập khẩu hàng hóa giúp
phát huy tính sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các “cường
quốc năm châu” trong lĩnh vực sản xuất, bên cạnh sự thu hút của giới tinh hoa. Các công
ty, doanh nghiệp thường xuyên nhắc đến sự mới lạ của sản phẩm nước ngoài chạy
theo xu hướng, bởi phần lớn giới trẻ ngày nay đều ưa chuộng phong cách trang trọng,
hiện đại. Không chỉ am hiểu thị trường trong nước, các nhà sản xuất còn phải không
ngừng mở rộng tầm nhìn ra nước ngoài, tìm tòi tạo ra sản phẩm theo nhiều hướng
khác nhau cũng như nâng cao chất lượng, mẫu mã để đáp ứng nhu cầu. Chỉ khi đó mới
tạo được những điều kiện cần thiết để nâng cao uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
3.3. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và công nghệ đang ở mức kém
Từ điểm xuất phát thấp lạc hậu của lịch sử kinh tế nước nhà, việc không ngừng
chạy để bắt kịp nền kinh tế thế giới là không hề dễ, đây cũng là nguyên nhân chính dẫn
đến sự kém phát triển từ cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất cho đến công nghệ sản xuất, điều
đã và đang gây cản trở không hề nhỏ cho tiềm năng phát triển nền sản xuất hàng hóa
Việt Nam hiện nay.
Việc chưa thể nâng cao chất lượng của sở hạ tầng ảnh hưởng đến không chỉ
cuộc sống của con người còn tác động lớn đến quá trình sản xuất, quá nhiều bất
lợi sự cồng kềnh trong các hoạt động sản xuất khi sự h trợ tbên ngoài chưa
thực sự đáp ứng đúng và đủ yêu cầu của công việc.
Trước tiên hãy xét trong chu i quá trình sản xuất, một loại sản phẩm hàng hóa
được hoàn thiện bởi những hoạt động trong một quá trình bao gồm các yêu cầu nhân tố
đầu vào, cách thức sản xuất và đầu ra là kết quả của sản phẩm.
Tất cả vật chất cách thức trong chu i sản xuất nêu trên đều được con người
khai thác bởi một mục đích duy nhất đó phục vụ cho việc phát hành, trao đổi hàng
hóa đó đến thị trường người tiêu dùng.
Để được đầu ra thì cần đầu vào, những yếu tố vật lực, tài lực, nhân lực, công
nghệ và thông tin, đây chúng ta sẽ xét đến nh trạng của yếu tố vật lực khi sở
hạ tầng như giao thông, đường vấn đề; các chủ thể sản xuất sẽ chẳng thể nhận
được sự cung cấp những nguyên vật liệu tốt nhất cho việc sản xuất một sản phẩm nếu
lOMoARcPSD| 44820939
10
như không tuyến đường giao thông đảm bảo cho quá trình vận chuyển từ nơi cung
cấp đến nơi có nhu cầu.
Việc này gây ảnh hưởng không chỉ đến chất lượng sản phẩm, đọng trong việc
luân chuyển cũng tiêu tốn thời gian sản xuất hàng hóa, cũng như năng suất và cường độ
của người lao động.
Và chính những bất cập này khiến cho kết quả đầu ra của quá trình là sản phẩm
đã hoàn thiện chưa chắc được tung ra thị trường đúng thời điểm, đúng số lượng để đáp
ứng người mua, mà đặc biệt là quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
Để đạt được kết quả mong muốn thì không thể chỉ cải thiện một nhân ttác động,
phải dung hòa tất cả các yếu tố liên quan khác sao cho quá trình sản xuất đạt được
hiệu quả nhất.
Trong khi sở hạ tầng được coi như những yếu tố bên ngoài tác động lên việc
sản xuất thì cơ sở vật chất và công nghệ, kỹ thuật lại tạo nên sự ảnh hưởng từ bên trong.
Khi một tổ chức sở hữu những máy móc, thiết bị tân tiến tương đương với việc
họ chiếm được ưu thế cạnh tranh trên thị trường, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật h
trợ không hề ít cho người sản xuất trong việc tăng năng suất và cường độ lao động.
Kết hợp việc sự dụng công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm được nâng cao
một cách đáng kể, hàng hóa ngày một tinh vi, hình dáng đầy nghệ thuật bao bắt
mắt sẽ dễ dàng tiếp cận người tiêu dùng.
3.4. Nền kinh tế nhiều thành phần cần có người dẫn đầu
Sự đa dạng phong phú về kết cấu của mọi lĩnh vực luôn tạo ra một động lực
lớn để không ngừng đổi mới, thúc đẩy qtrình phát triển một cách mạnh mẽ trong
phạm vi của nó. Nhưng tất cả sự vận động cũng luôn luôn tồn tại tính hai mặt, mặt trái
của sự đa thành phần kinh tế đây chính tạo nên trở ngại lớn trong việc thống nhất
‘mớ h n độn’ các hình thức kinh tế đó, làm sao để kết hợp chúng một cách hài hòa mà
không gây ra xung đột để thể tận dụng một cách triệt để tiềm năng của các thành
phần đó.nhiên là mọi hệ thống luôn cần một người đứng đầu điều hành quản
lý để đưa nó về đúng quỹ đạo, đồng thời khai thác và định hướng con đường phát triển
đầy triển vọng nhất cho mạng lưới đó, nếu không, nó sẽ như rắn mất đầu và mạng lưới
cũng biến thành ‘mạng nhện’. Nhìn nhận trước được những bất cập nêu trên, từ lúc
chuyển đổi sang hình thức hội chủ nghĩa, kinh tế nhà ớc đã sớm được tín nhiệm
trở thành nhà lãnh đạo đầy tiềm năng cho nền kinh tế nước nhà.
Không phải tự nhiên mà kinh tế nhà nước lại được tin tưởng giao quyền nắm vai
trò chủ đạo mà do chỉ có nhà nước mới đủ khả năng để ổn định chính trị và xã hội cũng
như đảm bảo lợi ích của người n trong quá trình vận động của kinh tế ớc nhà.
Không ngừng tăng trưởng kinh tế nói chung quy lại vẫn là để phục vụ cuộc sống nhân
dân sao cho tốt nhất, đầy đủ và thuận tiện nhất. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân,
luôn tập trung cao độ vào sự phát triển của từng cá nhân, đến hội nhóm và cuối cùng là
cả tập thể.
Hãy tham khảo dụ thực tế để hiểu rõ được vai trò thiết yếu của thành phần kinh
tế nhà nước trong tình hình hiện tại. Mức giá cả của một hàng hóa được ước tính bởi ba
lOMoARcPSD| 44820939
11
yếu tố chính giá trị hàng hóa, giá trị của tiền tệ quy luật cung-cầu trên thị trường,
ngoài ra còn phụ thuộc vào sự tác động của quan hệ cạnh tranh. Nhìn chung thì giá tăng
dẫn đến cung tăng, cầu giảm và ngược lại. Nó sẽ gây ra những hậu quả hết sức nghiêm
trọng khi một hệ thống kinh tế không thể kiểm soát được giá cả thị trường, mức nghiêm
trọng được kể đến thể làm xuất hiện thặng hay khan hiếm trầm trọng kéo dài.
Trong trường hợp này nói riêng, chính sách kiểm soát giá trần và giá sàn của chính phủ
được xem là hướng giải quyết hợp lý nhất. Để mức giá tăng không quá cao, chính sách
giá trần sđược áp dụng sao cho giá cả hàng hóa không được cao hơn giá trần, và ngược
lại đối với giá sàn.
4. Giải pháp đề xuất để khắc phục hiện trạng
Các giải pháp sau đây hướng tới mục tiêu phát triển nền sản xuất hàng hóa lên
một tầm cao mới, tuy nhiên không nên tập trung tăng sản lượng một cách ạt vẫn
phải kết hợp với việc cân bằng lượng sản xuất để tránh tình trạng dư thừa hoặc khan
hiếm xảy ra và tránh những ảnh hưởng đã được nêu trên.
4.1. Đối với nhà nước
Duy trì nền kinh tế ‘mở’ và nền kinh tế nhiều thành phần: Đây là những ưu điểm
lớn khi nhà nước đã sớm nhận ra và áp dụng hai giải pháp này cho hướng khắc
phục việc sản xuất hàng hóa. Việt Nam có những thế mạnh riêng mà cực kỳ phù
hợp cho quá trình mở rộng thị trường hàng hóa thể kể đến như vị trí địa
thuận lợi cho giao thương hay lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ. Các yếu tố này
cùng phù hợp cho định hướng xuất khẩu hàng hóa ra những thị trường lớn
hơn. Tập trung đào tạo lực lượng lao động trình độ cao: Để phù hợp với tình
hình phát triển mạnh của quốc tế mục tiêu hướng ra những thị trường lớn hơn,
nhà nước ta nên có những chính sách tập trung vào việc đào tạo các lĩnh vực lao
động phức tạp thay vì lao động giản đơn, thậm chí phải chú trọng hơn vào những
ngành nghề, cấp bậc thuộc lao động phức tạp có trình độ cao, hạn chế dồn công
sức vào những thành phần đào tạo chất lượng kém. Ví dụ như bậc học cao đẳng,
trung cấp vẫn còn phổ biến ở ớc ta. Theo báo điện tử Thừa Thiên Huế, tổng số
học sinh sinh viên cả hai bậc đào tạo trung cấp cao đẳng hệ chính quy tốt
nghiệp đợt này là 235 người, cụ thể ở bậc cao đẳng: xuất sắc chỉ đạt 5,6%, giỏi
14,2% trong khi đó, khá đạt 66,8%; riêng trung cấp 100% chỉ mức khá. Thực
tế cho thấy đến những sinh viên đạt loại khá, giỏi ở những trường đại học kể cả
lớn, nhỏ cũng chưa chắc đã đáp ứng đủ yêu cầu của việc làm sau khi ra trường
và tất nhiên bậc cao đẳng, trung cấp gần như được xem là dư thừa.
Kiểm soát lạm phát giá cả: Thực trạng lạm phát đang diễn ra theo xu hướng
ngày một phát triển nước ta với tính hai mặt, thể vừa thúc đẩy vừa kìm
hãm nền kinh tế theo nhiều khía cạnh, tất nhiên, cũng gây ra không ít ảnh hưởng
đến đời sống nhân dân cùng nền sản xuất hàng hóa. Cho nên, nhà nước
ta cần kiểm soát n bằng mức độ lạm phát đến một mức độ phù hợp nhất
định sao cho vừa nâng cao nền sản xuất hàng hóa của nước nhà, vừa đảm bảo ổn
định cuộc sống nhân dân. Có thể hình dung lạm phát khi vẫn còn được phân loại
lOMoARcPSD| 44820939
12
vào cấp độ hợp lý mà chưa gây tác hại cho người dân hay rủi ro cho nền kinh tế
như sau: Số liệu thực tế cho thấy mức giá của gạo vào năm 2018 18000
VND/1kg nhưng giá của cùng một loại gạo đó vào năm 2021 lại
25000VND/1kg, đồng tiền tuy đã bị mất giá nhưng ảnh hưởng chưa quá lớn. Tuy
nhiên nhiều trường hợp vì một vài lí do nào đó mà giá cả đột ngột tăng nhanh,
tăng mạnh khiến cho xã hội chưa kịp thích ứng và gây ra tình trạng người dân đổ
dồn đi thu mua hàng hóa, tích trữ ng hóa, vàng bạc, bất động sản hạn chế
cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Gần đây, chiến tranh Nga-Ukraina diễn
ra đã làm cho nguồn cung cấp dầu khổng lồ từ Nga được ước tính 10 triệu
thùng dầu m i ngày bị đọng khi các chuyến hàng từ Nga qua Ukraina bị
gián đoạn, kết quả gây ra sự thiếu hụt về xăng dầu dẫn đến giá xăng dầu tăng
mạnh. Tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolime công bố giá xăng dầu vào tháng
12/2021 dao động từ 15000VND-23000VND/lít (Bảng 2), nhưng sau khi chiến
tranh giữa Nga-Ukraina xảy ra vào ngày 24/2/2022, giá xăng dầu vào tháng
3/2022 tăng giá nhanh lên đến từ 21000VND-30000VND/lít (Bảng 3) gây tác
động mạnh mẽ đến đời sống sinh hoạt, việc đi lại của người lao động dẫn đến
ảnh hưởng không ít tới quá trình sản xuất:
Bảng 2: Hà Nội, ngày 10.12.2021, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam điều
chỉnh giá xăng dầu theo mức giá mới
Tập trung nhiều vào phát triển các vùng kinh tế trọng điểm: 24 vùng kinh tế trọng
điểm ở nước ta đều sở hữu những đặc trưng thế mạnh riêng rất thuận lợi cho phát
triển các ngành nghề kinh tế của từng vùng và cả đất nước, đi kèm theo đó là sự
cải thiện được nền sản xuất hàng hóa nói riêng. Vì m i vùng trọng điểm đều hội
tụ những điểm mạnh riêng về nhiều mặt như đất đai, thời tiết, nguồn lực, vị trí
địa lý... nên có tiềm năng rất lớn thu hút các nhà đầu tư tập trung vào sự tiến bộ
trong ơng lai của vùng đó. Việc tập trung vốn nguồn lực vào những bộ phận
tiềm năng sẵn từ trước sẽ đẩy mạnh tiến độ phát triển của từng vùng trọng
điểm để không ngừng vươn tầm ra nhiều thị trường lớn hơn, đồng thời, mở rộng
lOMoARcPSD| 44820939
13
và khai phá thêm nhiều lĩnh vực sản xuất hàng hóa để biến chúng trở thành một
trong những điểm mạnh của vùng kinh tế nói riêng, kết quả ng tỷ trọng trong
tổng GDP của quốc gia, từ đó tạo ra tốc độ phát triển nhanh cho cả nước cũng
như h trợ các vùng khác. Tình hình dịch bệnh rất căng thẳng vừa qua đã khiến
rất nhiều lực lượng lao động, nhiều nhất là lao động giản đơn ở các vùng kinh tế
trọng điểm (vùng phía Bắc và phía Nam) trở về quê để tránh dịch và không có ý
định quay trở lại, việc sản xuất hàng hóa trong khoảng thời gian này đã và đang
bị đình trệ khá lâu, ảnh hưởng nhiều tới tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này.
Theo khảo sát bộ của Bộ LĐTBXH, trong khoảng từ tháng 7 đến đầu tháng
10, có khoảng 324.000 người trở về từ Nội, 292.000 người về từ Thành phố
Hồ Chí Minh 450.000 người trở về từ các tỉnh, thành khác phía Nam. Nhà
nước ta nên chiến dịch để kêu gọi thu hút các nguồn lao động trở lại các
vùng kinh tế trọng điểm để khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực, ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất.
Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật cải tiến nền hành
chính quốc gia y dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ công cụ
rất quan trọng trong quản nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Nó tạo hành
lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sẳn xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ
thể làm giàu trên cơ stuân thủ pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng
cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo hướng đoạn tuyệt
với chế bao cấp, thay thế bộ máy quản theo chế tập trung chuyển sang
quản theo phương thức công nghiệp chế thị trường để đảm bảo điều kiện
cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta.
Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ nhằm phát triển nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
chỉ thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất,
đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần đẩy mạnh công tác nghiên
cứu, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học cách mạng – công nghệ vào sản
xuất và lưu thông, đảm bảo hàng hóa đủ sức cạnh tranh.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường Trong xu
hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển phải hòa nhập kinh tế trong nước với kinh tế thế giới (mở rộng
thị trường ngoài nước, hợp tác đầu với nước ngoài…) Muốn vậy, phải đa dạng
hóa phương thức, đa dạng hóa đối tác, cần quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có
lợi, không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế
độ chính trị - hội. Đồng thời, triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước
trong quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên
đất nước, tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, xây dựng phát triển thị trường hướng ngoại
lOMoARcPSD| 44820939
14
phải dựa trên thị trường trong nước làm cơ sở, phải mặt hàng mũi nhọn khả
năng cạnh tranh nhờ vào thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi người ta chỉ nhập khẩu
những gì là thế yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất
cái thị trường cần chứ không phải cái bản thân có.
4.2. Đối với doanh nghiệp và người lao động
Ngày nay, tiền lương trở thành vật liệu trung gian cho việc tính toán này và được
coi một hình thức trả công để đắp cho công việc của người sản xuất. Tuy nhiên,
trong các doanh nghiệp, sở sản xuất hiện nay, nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao
động người sử dụng lao động về vấn đề tiền lương đã tạo ra bất lợi rất lớn, cản trở,
đình trệ sản xuất hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Theo báo Dân Việt, lao động chỉ chiếm
khoảng 15% dân số khoảng 27% lực ợng lao động hội, nhưng đóng góp hơn
75% ngân sách hơn 65% GDP của đất nước. Lao động chỉ chiếm khoảng 15% dân
số khoảng 27% lực lượng lao động hội, nhưng đóng góp hơn 75% ngân sách
hơn 65% GDP của đất ớc. 000 người lao động trên toàn quốc cho thấy:Nếu không
tính làm thêm giờ, lương bản của công nhân viên chức chỉ trung bình 4,92 triệu
đồng/tháng. Nhưng mức lương trung bình thấp hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến
tinh thần động lực làm việc của đại bộ phận lực ợng lao động, từ đó làm giảm năng
suất cũng như cường độ làm việc. Đồng thời, người lao động cũng cần nhận thức được
vai trò của mình trong việc thúc đẩy sản xuất nguyên liệu của đất ớc, phối hợp với
các nhà sản xuất để giải quyết vấn đề tiền lương và có trách nhiệm trong công việc.
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở nước
ta là một quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa mang tính chiến ợc lâu dài. Trong thời
kỳ chuyển biến của nền kinh tế nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta còn
phải đối mặt với nhiều thách thức, cản trở. Khó khăn đặt ra đây nước ta xây dựng
nền kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại nhiều yếu kém, năng suất
lao động thấp. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, ta thkhẳng định kinh
tế thị trường Việt Nam sẽ được phát triển theo ớng XHCN. Đó sự định hướng
của xã hội mà sự đúng đắn của thể hiện ở kết quả dân giàu ớc mạnh. Xã hội không
còn chế độ người bóc lột người. Nền kinh tế phát triển ngày càng cao trên sở nền
khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại, sự phân công lao động hợp lý, xây
dựng phát triển sở hạ tầng với kế hoạch phát triển lâu dài. Định hướng XHCN nêu
trên không chỉ phản ánh nguyện vọng tưởng của Đảng ta, Nhà ớc và nhân dân
ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hóa
của lịch sử. Việc chuyển biến theo xu thế phát triển chung của thế giới với sự bắt kịp
thời đại ớc ngoặt lớn tạo đà phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, trên con đường
phát triển này chúng ta còn phải n lực mới thể đạt nhiều thành tựu lớn hơn. Có như
thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
lOMoARcPSD| 44820939
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo Trình KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
2. Báo cáo ngành (2020). Các ngành sản xuất hàng đầu tại Việt Nam. BáoVietnamcredit
3. Cơ sở hạ tầng (2021). thttps://www.invert.vn/co-so-hatang-ar2406
4. Lý tưởng (2022). Nền kinh tế nhiều thành phần
5. Tin xuất nhập khẩu (2022).Tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam.
6. Phương Thoa (2022). Giải pháp nào để thu hút lao động quay trlại m việc tạivùng
kinh tế trọng điểm. Báo An ninh tiền tệ
7. Vấn đề tiền lương ở Việt Nam (2022). Báo jobpro
8. Nguyệt Tạ (2022). Lương thấp lao động không dám lập gia đình, vay để chi tiêu.Báo
danviet
9. Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm
10.Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam Petrolimex
| 1/17

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH ***
BÀI TẬP LỚN: HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Họ và tên: Nguyễn Quỳnh Anh Mã SV: 11200253
Lớp tín chỉ: LLNL1106 Số thứ tự: 03 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 1 lOMoAR cPSD| 44820939
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về sản xuất hàng hoá .................................... 2
1.1. Sản xuất hàng hoá ............................................................................................. 2
1.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 2
1.1.2. Điều kiện ra đời ............................................................................................. 2
1.1.3. Ưu điểm của sản xuất hàng hoá ..................................................................... 2
1.1.4. Ưu thế sản xuất hàng hoá .............................................................................. 3
1.2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá .......................................................................... 3
1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 3
1.2.2. Ưu điểm .......................................................................................................... 3
1.2.3. Nhược điểm .................................................................................................... 4
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay ....................................................................... 5
2.1. Thực trạng về phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam ................................. 5
a. Khu vực nông, lâm, thủy sản: .............................................................................. 5
b. Khu vực công nghiệp và xây dựng: ...................................................................... 5
c. Khu vực thương mại và dịch vụ: .......................................................................... 5
d. Đánh giá thực trạng: ............................................................................................ 5
2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay ............................ 6
3. Nguyên nhân của thực trạng ................................................................................... 8
3.1. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần .............................................. 8
3.2. Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở” .............................................. 9
3.3. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và công nghệ đang ở mức kém.......................... 9
3.4. Nền kinh tế nhiều thành phần cần có người dẫn đầu.................................... 10
4. Giải pháp đề xuất để khắc phục hiện trạng ......................................................... 11
4.1. Đối với nhà nước .............................................................................................. 11
4.2. Đối với doanh nghiệp và người lao động ........................................................ 14
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 15 lOMoAR cPSD| 44820939 LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi giới thiệu và khái quát về chủ đề muốn làm sáng tỏ, em xin phép được
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Thanh Hiếu- giảng viên học phần Kinh tế
Chính trị, là người đã truyền đạt những kiến thức bổ ích một cách dễ tiếp thu nhất về
các lý luận của Kinh tế Chính trị Mác-Lênin - chính là cơ sở để em có thể hoàn thành
bài luận này một cách tốt nhất. Đồng thời, sử dụng vốn kinh nghiệm và kỹ năng của
mình, cô đã hướng dẫn cũng như tạo điều kiện cho những tân sinh viên như chúng em
có cơ hội được thể hiện bản thân, vận dụng kiến thức vào thực tế chứ không chỉ đơn
giản là trong lý thuyết, sách vở.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, kinh tế thị trường cũng đóng vai trò chủ đạo, ảnh
hưởng không nhỏ đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Sau hơn 10 năm hoàn
toàn đổi mới, đứng trước những thử thách khó khăn, tình hình vô cùng khó khăn, phức
tạp, nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam không những đứng yên, mà còn vùng dậy lập
nhiều thắng lợi. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi này là do Đảng và Nhà nước ta đã
kiên quyết chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự chỉ đạo của Nhà nước và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt quan trọng thể hiện quyết định sáng suốt
của Đảng và nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất nước. Nhìn lại
những năm thực hiện tái cơ cấu, có thể thấy, trong một thời gian dài, các nước xã hội
chủ nghĩa (kể cả nước ta) nhận thức chưa đúng về vai trò của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường.
Mặt tiêu cực của kinh tế hàng hóa, phủ nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó,
chúng ta không thể xây dựng động lực. ra sức mở rộng sản xuất, vô tình hạn chế ứng
dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, năng suất sản xuất tăng chậm, gây ra sự lộn xộn,
chia cắt trong quá trình phân phối và lưu thông, đẩy nền kinh tế vào tình trạng ngừng hoạt động, trì trệ.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hoá và hiện đại hoá và rất nhiều hiệp định thương mại được kí kết giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới. Đây là một cơ hội lớn với đất nước còn non trẻ như Việt Nam song
cũng đối mặt rất nhiều khó khăn, thử thách đòi hỏi công nghệ, kĩ thuật cao, phát triển
nguồn nhân lực, năng suất lao động … Nhận thấy tầm quan trọng của kinh tế chính trị
đối với sinh viên, em, một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để góp phần
nhỏ vào toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát ra khỏi tình cảnh kém
phát triển, “thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, muốn
tìm hiểu thêm về thực trạng sinh viên trước vấn đề sản xuất hàng hóa hiện nay, em quyết
định chọn đề tài “Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ
với thực tiễn ở Việt Nam” làm bài tiểu luận của mình. 1 lOMoAR cPSD| 44820939
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về sản xuất hàng hoá.
1.1. Sản xuất hàng hoá. 1.1.1. Khái niệm.
Kinh tế chính trị Mác Lê-nin đã giải thích và làm rõ khái niệm về sản xuất hàng
hóa, nó được xác định là một kiểu tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế mà ở đó, con
người sản xuất ra các vật phẩm không để phục vụ cho bản thân, ngược lại , nhằm để
phục vụ cho người khác với mục đích mang về một lợi ích khác. Hay nói ngắn gọn, sản
xuất hàng hóa là một hoạt động trao đổi và mua bán.
1.1.2. Điều kiện ra đời
Từ thời xa xưa, xã hội loài người đã xuất hiện và sau khi trải qua giai đoạn tự
cung tự cấp thì con người mới tiến đến nền sản xuất hàng hóa nhờ vào hai yếu tố:
Thứ nhất, do có sự phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã
hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Khi có phân công lao động xã hội, m i người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản
phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm
khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau.
Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
Thứ hai, sự tách biệt tương đ Āi về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau.
Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
1.1.3. Ưu điểm của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá gồm các đặc trưng cơ bản sau:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán: Sản xuất hàng hóa là kiểu
tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kỳ đầu của lịch sử
loài người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính
xã hội: Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi
cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh
nghĩa. Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu
của những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc
không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng. 2 lOMoAR cPSD| 44820939
1.1.4. Ưu thế sản xuất hàng hoá.
Tác dụng vào sức sản xuất của xã hội, mở đường cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển:
Trong sản xuất tự cấp tự túc m i người tự sản tự tiêu, cho nên chính nhu cầu tiêu
dùng sản phẩm của họ hạn chế sức sản xuất, dù còn nhiều đến mấy nhưng chỉ làm đủ ăn
đủ dùng. Như vậy nhu cầu hạn hẹp của từng chủ thể kinh tế hạn chế sức sản xuất mặc
dù nguồn lực vẫn còn. Vì không trao đổi nên khi có công cụ gì trong tay chỉ lựa chọn
được một số ngành nghề nhất định. Nhưng trong kiểu tổ chức sản xuất hàng hóa chỉ cần
có ý tưởng sản xuất có sức lao động thì tất cả những nguồn lực khác có thể tìm kiếm hết
trên thị trường, không giới hạn nguồn lực để đổ vào sản xuất, cả nhu cầu tiêu thụ sản
phẩm cả nguồn lực đầu vào sản xuất đều không bị giới hạn, sản xuất của xã hội được
giải phóng dẫn tới lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất: sản xuất hàng hóa phá vỡ tính chất tự
cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Phát huy hết lợi thế về tự
nhiên, xã hội và công nghệ của mọi cá nhân, mọi thể chế, mọi vùng, mọi nơi để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc dân
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của
con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp cho
họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện
đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
1.2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá. 1.2.1. Khái niệm
Nền kinh tế sản xuất hàng hoá là nền kinh tế có sự phân công lao động, và trao
đổi hàng hoá, dịch vụ giữa người với người. Có thể hiểu một cách đơn giản, A sản xuất
được nhiều gạo, B sản xuất được nhiều rau, A đổi gạo cho B để lấy rau và ngược lại.
Điều này hoàn toàn trái ngược với nền kinh tế tự cung tự cấp, nơi mọi người tự sản xuất sản phẩm và tiêu dùng.
Nền kinh tế hàng hóa là sự phát triển cao hơn một bậc so với nền kinh tế tự cung
tự cấp. Nền kinh tế tự cung tự cấp không có sự trao đổi hàng hóa, ai làm bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu. Sản xuất hàng hoá tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Do đó, nền kinh tế hàng hóa có
nhiều ưu điểm và là một loại hình hoạt động kinh tế tiên tiến hơn nhiều. So với sản xuất
tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa sản xuất theo chiều sâu, hợp tác chặt chẽ hơn. Để
trao đổi và mua bán được, ta cần sản xuất hàng hóa, điều này làm thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Từ đó mà sản xuất hàng hóa đem lại giá trị, lợi nhuận. 1.2.2. Ưu điểm
So với nền kinh tế tự nhiên còn dấu vết ở nước ta, nền kinh tế hàng hoá có những ưu điểm sau:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, 3 lOMoAR cPSD| 44820939
xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng
tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc.
Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của m i ngành, m i
địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội
được đáp ứng đầy đủ hơn.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác
được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, qui mô sản xuất không còn bị giới hạn
bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của m i cá nhân, gia đình, m i cơ
sở, m i vùng, m i địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và
nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học - kĩ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của qui luật vốn có của sản
xuất và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... Buộc người
sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kĩ
thuật, hợp lí hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế,
cải tiến hình thức, qui cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ
xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và
giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
1.2.3. Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hoá cũng có những nhược điểm, thị trường
chứa đựng nhiều yếu tố tự phát, không ổn định làm mất cân đối kép. Vì chạy theo lợi
nhuận, các nhà sản xuất, buôn bán sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu:
Thứ nhất: Đặt lợi nhuận lên hàng đầu, lợi nhuận không giải quyết được cái gọi
là “hàng hóa công cộng”.
Thứ hai: Vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, phân hóa xã hội trầm
trọng, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn.
Thứ ba: Đạo đức băng hoại, muốn làm giàu bằng mọi giá không còn lương tâm
sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng. Ngoài ra, môi trường sống của con
người cũng bị tàn phá nặng nề.
Do tính tự phát vốn có của nó, nền kinh tế hàng hoá không những không tiến bộ
mà còn kéo theo suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội, do đó cần có sự can thiệp
và quản lý chặt chẽ của nhà nước. Từ đó đảm bảo hiệu quả vận hành thông suốt của thị
trường, tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của phát triển kinh tế,
sửa chữa, khắc phục những khuyết tật cố hữu, trở thành công cụ quan trọng để điều tiết 4 lOMoAR cPSD| 44820939
thị trường. Có như vậy, nhà nước mới có thể ngăn chặn tính tự phát đồng thời kích thích
sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa dưới hình thức thương mại.
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng về phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
a. Khu vực nông, lâm, thủy sản:
Năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và ngư nghiệp tăng 2,52%,đóng góp 8,85%
vào mức tăng trưởng chung; thấp hơn mức tăng của các năm 2021 (2,9%) và năm 2022 (3,36%). Trong đó:
• Ngành nông nghiệp, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2023 tăng 2,43%
so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá
trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
• Ngành lâm nghiệp tăng 3,66% lớn hơn so với cùng quý năm trước, nhưng chiếm
tỉ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0.02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị
tăng thêm của toàn nền kinh tế.
• Ngành thủy sản quý I/2023 tăng 2,68% lớn hơn so với quý I năm 2022 (2,54%),
đóng góp 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
b. Khu vực công nghiệp và xây dựng:
0,82% là mức giảm của giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I/2023 so với
cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2023, làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng
thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37% (làm giảm
0,1 điểm phần trăm). Ngành khai khoáng giảm 5,6% (sản lượng khai thác than giảm
0,5% và dầu mỏ thô khai thác giảm 6%) (giảm 0,2 điểm phần trăm). Riêng ngành xây
dựng tăng 1,95%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,28% và 1,41% của cùng kỳ năm 2011 và
2012 trong giai đoạn 2011-2023 (đóng góp 0,12 điểm phần trăm).
c. Khu vực thương mại và dịch vụ:
Khu vực dịch vụ trong quý I/2023 thể hiện rõ sự phục hồi nhờ hiệu quả của các
chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ ngày
15/3/2022 khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch
Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Đóng góp của một số ngành dịch
vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Dịch vụ lưu trú và
ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; ngành
bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho
bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng
1,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
d. Đánh giá thực trạng:
Những thành tựu đạt được:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và có xu hướng tăng: Trong quý I năm 2013
tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước chừng tăng 3,32% so với cùng kỳ năm 5 lOMoAR cPSD| 44820939
trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý năm 2020 trong giai đoạn
20112023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp
8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%,
làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%. Kết quả điều
tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo trong quý I năm 2023 cho thấy: Có 24,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình
sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV năm 2022; 37,2% số doanh nghiệp
cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 38,5% số doanh nghiệp đánh
giá gặp khó khăn. Dự kiến quý II năm 2023, có 44,1% số doanh nghiệp đánh giá
xu hướng sẽ tốt lên so với quý I năm 2023; 35,3% số doanh nghiệp cho rằng tình
hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 20,6% số doanh nghiệp dự báo khó khăn
hơn. Nhìn chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước
tính đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất
khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của
Chính phủ, bộ ngành và địa phương cùng với với sự n lực của các doanh nghiệp
xuất khẩu nên cán cân thương mại hàng hóa quý I năm 2023 ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD.
Năng suất lao động tăng: Nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản có mức năng
suất lao động thấp nhất (năm 2015 chỉ bằng 38,5% năng suất chung, bằng 38,5%
năng suất lao động nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thấp nhất trong
21 ngành); đã giảm tỷ trọng số lao động đang làm việc từ mức cao nhất trong 3
nhóm ngành năm 2015 xuống mức thấp nhất trong năm 2022. Các ngành trong
nhóm ngành công nghiệp - xây dựng có năng suất lao động cao hơn năng suất
chung, cao gấp nhiều lần năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp
- thủy sản và cao hơn năng suất lao động của nhóm ngành dịch vụ, nên tỷ trọng
lao động đang làm việc đã tăng và nhóm ngành công nghiệp - xây dựng có tỷ
trọng tăng nhanh nhất. Nhóm ngành dịch vụ có mức năng suất lao động cao thứ
hai trong 3 nhóm ngành, cao hơn mức năng suất chung, cao hơn mức năng suất
lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp thủy sản. Tuy nhóm ngành dịch vụ
nhìn chung có quy mô nhỏ, dễ điều chỉnh…, nhưng công nghiệp - xây dựng là
ngành kinh tế thực, lại có năng suất lao động cao nhất và Việt Nam đang trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu đến 2025 có công nghiệp
theo hướng hiện đại,…
2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Nền kinh tế hàng hóa của nước ta đang theo hướng phát triển từ mô
hình tự cung tự cấp và tự chủ sang việc xây dựng hệ thống các chu i hàng hóa
được sản xuất bằng việc không ngừng trao đổi và buôn bán. Tuy nhiên trên đà
phát triển, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và những bất cập trong nhiều
khía cạnh dẫn đến khả năng cạnh tranh kém ở thị trường nước ngoài. 6 lOMoAR cPSD| 44820939
Thứ hai: Nguồn lực tổng hợp to lớn của nền kinh tế nhiều thành phần đã h trợ
và góp phần nâng tầm nền sản xuất hàng hóa lên một bước tiến mới, góp phần
đưa nền kinh tế Việt Nam vượt khỏi thực trạng yếu kém. Đặc biệt, cơ cấu ngành
theo hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh
tế hàng hóa thu hút một số lượng lớn lao động.
Thứ ba: Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu ‘mở’ giữa nước ta với các nước trên
thế giới. Việt Nam đang dần hội nhập với nước ngoài trên mọi lĩnh vực, kể cả
trong nền kinh tế sản xuất, thường xuyên xuất-nhập khẩu hàng hóa để phục vụ
cho người dân, cũng như tạo tiếng vang cho hàng hóa của Việt Nam ở tầm thế giới.
Thứ tư: Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Vai trò
của nền kinh tế nhà nước là rất lớn trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của
những ngành kinh tế khác nhau, thúc đẩy chúng phát triển theo hướng XHCN,
quản lý một cách năng suất, hiệu quả và đảm bảo chất lượng để đứng vững trên
thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đặc điểm đầu tiên vẫn được xem là nổi bật nhất,
dù cho ở bước đầu phát triển, nền kinh tế nhiều thành phần đã được công nhận.
Việt Nam bắt đầu phát triển kinh tế ở cả hai mảng công nghiệp, nông nghiệp với
xu hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền phát huy nông nghiệp
một cách toàn diện. Vận hành theo cơ chế quản lý của nhà nước để phát triển
việc sản xuất theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng hiện tại Việt Nam vẫn còn
nhiều tồn tại chưa được khắc phục, dẫn nền kinh tế chậm phát triển chiều sâu.
Bảng 1: T Āc độ tăng GDP của Việt Nam qua các năm từ 1981-2021
• Giai đoạn 1986 – 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường 7 lOMoAR cPSD| 44820939
có sự quản lý của Nhà nước. Đỉnh cao nhất của biểu đồ tăng trưởng là
năm 1995 với tỷ lệ tăng đạt 9,5%. Và ngược lại, những năm 1986-1987 là
năm có tỷ lệ tăng trưởng GDP rất thấp, tương ứng chỉ 3,4% và 2,5% – đây
cũng là năm đánh dấu sự kiện mở cửa nền kinh tế (Đại Hội Đảng VI).
• Giai đoạn 2000 – 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. “Năm 2003 tăng 7,3%;
2004: 7,7%; 2005: 8,4%; 2006: 8,2%”. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là
8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Tăng trưởng kinh tế năm 2007
của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
trong khu vực (Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB thì
năm 2007 kinh tế Trung Quốc tăng 11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-
po tăng 7,5%; Phi-lip-pin tăng 6,6%; In-đô-nê-xi-a tăng 6,2%; Ma-lai-xi-
a tăng 5,6%; Thái Lan tăng 4%). Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát
triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới.
• Giai đoạn 2007 – nay: Mức tăng trưởng thấp này được lặp lại vào năm
2020 (2,91%) và 2021 (2,58%) do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh
Covid-19. Xen giữa đó nước ta cũng có những thời kỳ tốc độ tăng trưởng
kinh tế bị chậm lại như giai đoạn 1997-1999 do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế Châu Á… Kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng
trưởng GDP giảm tốc và lạm phát kéo dài. Các chính sách đưa ra không đem lại hiệu quả.
3. Nguyên nhân của thực trạng
3.1. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần
Khái niệm nền kinh tế nhiều thành phần được hiểu rộng rãi là sự tồn tại của nhiều
hình thức và quan hệ sản xuất cũng như sự tổng hợp các phương tiện này để tạo ra sự
thống nhất kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong lịch sử, khi đất nước còn trong tình trạng kém phát triển về kinh tế và đột
ngột chuyển sang thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa thì nguồn lực của các hình thức kinh
tế trước đây vẫn còn và được hấp thụ, vẫn tồn tại và phát triển theo dòng chảy của xã
hội mới vì nó vẫn còn hiệu quả và tiềm năng cần được duy trì để h trợ nền kinh tế trong thời kỳ mới.
Mặt khác, việc khai thác, phát huy các thành phần kinh tế mới là cần thiết để tạo
nền tảng cho những giai đoạn đầu phát triển xã hội chủ nghĩa.
Về mặt lý thuyết, quan hệ sản xuất phải hoàn toàn phù hợp với trình độ dân số
năng động để đáp ứng sự phát triển kinh tế một cách đồng bộ và có chất lượng cao.
Nhưng thực tế cho thấy Việt Nam bước vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa với sự chuẩn
bị kém về trình độ lao động, có sự phân công lao động rõ ràng giữa các vùng, các ngành
dẫn đến sự phân bổ không đồng đều giữa các thành phần kinh tế, bên cạnh đó đòi hỏi
sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. 8 lOMoAR cPSD| 44820939
Sự đa dạng của các thành phần kinh tế hài hòa với sự bất bình đẳng về lực lượng
sản xuất, giúp phát huy hiệu quả kinh tế nhanh và hiệu quả, đồng thời làm phong phú
thêm sự đa dạng của các mặt hàng hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng
tốt nhất nhu cầu tiêu dùng.
3.2. Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở”
Trong khi nhiều quốc gia đang tiếp cận được công nghệ, lao động chân tay vẫn
là hình thức sống cơ bản; Và trong khi họ không ngừng phát huy, tìm tòi, cải tiến công
nghệ hiện đại thì Việt Nam mới chỉ bắt đầu bước vào giai đoạn khởi đầu, sự chênh lệch
không nhỏ về trình độ và thời gian đã trở thành rào cản lớn giữa các quốc gia. Và tất
nhiên, chính phủ nước ta đã nhận thức được vấn đề, tầm quan trọng của việc mở rộng
thị trường ra nước ngoài cũng như giải pháp để sản phẩm của nước ta được tiêu thụ tốt
và được biết đến rộng rãi nhất có thể. Hội nhập quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hóa giúp
phát huy tính sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các “cường
quốc năm châu” trong lĩnh vực sản xuất, bên cạnh sự thu hút của giới tinh hoa. Các công
ty, doanh nghiệp thường xuyên nhắc đến sự mới lạ của sản phẩm nước ngoài và chạy
theo xu hướng, bởi phần lớn giới trẻ ngày nay đều ưa chuộng phong cách trang trọng,
hiện đại. Không chỉ am hiểu thị trường trong nước, các nhà sản xuất còn phải không
ngừng mở rộng tầm nhìn ra nước ngoài, tìm tòi và tạo ra sản phẩm theo nhiều hướng
khác nhau cũng như nâng cao chất lượng, mẫu mã để đáp ứng nhu cầu. Chỉ khi đó mới
tạo được những điều kiện cần thiết để nâng cao uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.
3.3. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và công nghệ đang ở mức kém
Từ điểm xuất phát thấp và lạc hậu của lịch sử kinh tế nước nhà, việc không ngừng
chạy để bắt kịp nền kinh tế thế giới là không hề dễ, đây cũng là nguyên nhân chính dẫn
đến sự kém phát triển từ cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất cho đến công nghệ sản xuất, điều
mà đã và đang gây cản trở không hề nhỏ cho tiềm năng phát triển nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Việc chưa thể nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến không chỉ
cuộc sống của con người mà còn tác động lớn đến quá trình sản xuất, có quá nhiều bất
lợi và sự cồng kềnh trong các hoạt động sản xuất khi mà sự h trợ từ bên ngoài chưa
thực sự đáp ứng đúng và đủ yêu cầu của công việc.
Trước tiên hãy xét trong chu i quá trình sản xuất, một loại sản phẩm hàng hóa
được hoàn thiện bởi những hoạt động trong một quá trình bao gồm các yêu cầu nhân tố
đầu vào, cách thức sản xuất và đầu ra là kết quả của sản phẩm.
Tất cả vật chất và cách thức trong chu i sản xuất nêu trên đều được con người
khai thác bởi một mục đích duy nhất đó là phục vụ cho việc phát hành, trao đổi hàng
hóa đó đến thị trường người tiêu dùng.
Để có được đầu ra thì cần đầu vào, là những yếu tố vật lực, tài lực, nhân lực, công
nghệ và thông tin, ở đây chúng ta sẽ xét đến tình trạng của yếu tố vật lực khi mà cơ sở
hạ tầng như giao thông, đường sá có vấn đề; các chủ thể sản xuất sẽ chẳng thể nhận
được sự cung cấp những nguyên vật liệu tốt nhất cho việc sản xuất một sản phẩm nếu 9 lOMoAR cPSD| 44820939
như không có tuyến đường giao thông đảm bảo cho quá trình vận chuyển từ nơi cung
cấp đến nơi có nhu cầu.
Việc này gây ảnh hưởng không chỉ đến chất lượng sản phẩm, ứ đọng trong việc
luân chuyển cũng tiêu tốn thời gian sản xuất hàng hóa, cũng như năng suất và cường độ của người lao động.
Và chính những bất cập này khiến cho kết quả đầu ra của quá trình là sản phẩm
đã hoàn thiện chưa chắc được tung ra thị trường đúng thời điểm, đúng số lượng để đáp
ứng người mua, mà đặc biệt là quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
Để đạt được kết quả mong muốn thì không thể chỉ cải thiện một nhân tố tác động,
mà phải dung hòa tất cả các yếu tố liên quan khác sao cho quá trình sản xuất đạt được hiệu quả nhất.
Trong khi cơ sở hạ tầng được coi như những yếu tố bên ngoài tác động lên việc
sản xuất thì cơ sở vật chất và công nghệ, kỹ thuật lại tạo nên sự ảnh hưởng từ bên trong.
Khi một tổ chức sở hữu những máy móc, thiết bị tân tiến tương đương với việc
họ chiếm được ưu thế cạnh tranh trên thị trường, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật h
trợ không hề ít cho người sản xuất trong việc tăng năng suất và cường độ lao động.
Kết hợp việc sự dụng công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm được nâng cao
một cách đáng kể, hàng hóa ngày một tinh vi, hình dáng đầy nghệ thuật và bao bì bắt
mắt sẽ dễ dàng tiếp cận người tiêu dùng.
3.4. Nền kinh tế nhiều thành phần cần có người dẫn đầu
Sự đa dạng và phong phú về kết cấu của mọi lĩnh vực luôn tạo ra một động lực
lớn để không ngừng đổi mới, thúc đẩy quá trình phát triển một cách mạnh mẽ trong
phạm vi của nó. Nhưng tất cả sự vận động cũng luôn luôn tồn tại tính hai mặt, mặt trái
của sự đa thành phần kinh tế ở đây chính là tạo nên trở ngại lớn trong việc thống nhất
‘mớ h n độn’ các hình thức kinh tế đó, làm sao để kết hợp chúng một cách hài hòa mà
không gây ra xung đột để có thể tận dụng một cách triệt để tiềm năng của các thành
phần đó. Và dĩ nhiên là mọi hệ thống luôn cần một người đứng đầu điều hành và quản
lý để đưa nó về đúng quỹ đạo, đồng thời khai thác và định hướng con đường phát triển
đầy triển vọng nhất cho mạng lưới đó, nếu không, nó sẽ như rắn mất đầu và mạng lưới
cũng biến thành ‘mạng nhện’. Nhìn nhận trước được những bất cập nêu trên, từ lúc
chuyển đổi sang hình thức xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đã sớm được tín nhiệm
trở thành nhà lãnh đạo đầy tiềm năng cho nền kinh tế nước nhà.
Không phải tự nhiên mà kinh tế nhà nước lại được tin tưởng giao quyền nắm vai
trò chủ đạo mà do chỉ có nhà nước mới đủ khả năng để ổn định chính trị và xã hội cũng
như đảm bảo lợi ích của người dân trong quá trình vận động của kinh tế nước nhà.
Không ngừng tăng trưởng kinh tế nói chung quy lại vẫn là để phục vụ cuộc sống nhân
dân sao cho tốt nhất, đầy đủ và thuận tiện nhất. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân,
luôn tập trung cao độ vào sự phát triển của từng cá nhân, đến hội nhóm và cuối cùng là cả tập thể.
Hãy tham khảo ví dụ thực tế để hiểu rõ được vai trò thiết yếu của thành phần kinh
tế nhà nước trong tình hình hiện tại. Mức giá cả của một hàng hóa được ước tính bởi ba 10 lOMoAR cPSD| 44820939
yếu tố chính là giá trị hàng hóa, giá trị của tiền tệ và quy luật cung-cầu trên thị trường,
ngoài ra còn phụ thuộc vào sự tác động của quan hệ cạnh tranh. Nhìn chung thì giá tăng
dẫn đến cung tăng, cầu giảm và ngược lại. Nó sẽ gây ra những hậu quả hết sức nghiêm
trọng khi một hệ thống kinh tế không thể kiểm soát được giá cả thị trường, mức nghiêm
trọng được kể đến có thể làm xuất hiện thặng dư hay khan hiếm trầm trọng kéo dài.
Trong trường hợp này nói riêng, chính sách kiểm soát giá trần và giá sàn của chính phủ
được xem là hướng giải quyết hợp lý nhất. Để mức giá tăng không quá cao, chính sách
giá trần sẽ được áp dụng sao cho giá cả hàng hóa không được cao hơn giá trần, và ngược lại đối với giá sàn.
4. Giải pháp đề xuất để khắc phục hiện trạng
Các giải pháp sau đây hướng tới mục tiêu phát triển nền sản xuất hàng hóa lên
một tầm cao mới, tuy nhiên không nên tập trung tăng sản lượng một cách ồ ạt mà vẫn
phải kết hợp với việc cân bằng lượng sản xuất để tránh tình trạng dư thừa hoặc khan
hiếm xảy ra và tránh những ảnh hưởng đã được nêu trên.
4.1. Đối với nhà nước
Duy trì nền kinh tế ‘mở’ và nền kinh tế nhiều thành phần: Đây là những ưu điểm
lớn khi nhà nước đã sớm nhận ra và áp dụng hai giải pháp này cho hướng khắc
phục việc sản xuất hàng hóa. Việt Nam có những thế mạnh riêng mà cực kỳ phù
hợp cho quá trình mở rộng thị trường hàng hóa có thể kể đến như vị trí địa lý
thuận lợi cho giao thương hay lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ. Các yếu tố này
vô cùng phù hợp cho định hướng xuất khẩu hàng hóa ra những thị trường lớn
hơn. Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao: Để phù hợp với tình
hình phát triển mạnh của quốc tế và mục tiêu hướng ra những thị trường lớn hơn,
nhà nước ta nên có những chính sách tập trung vào việc đào tạo các lĩnh vực lao
động phức tạp thay vì lao động giản đơn, thậm chí phải chú trọng hơn vào những
ngành nghề, cấp bậc thuộc lao động phức tạp có trình độ cao, hạn chế dồn công
sức vào những thành phần đào tạo chất lượng kém. Ví dụ như bậc học cao đẳng,
trung cấp vẫn còn phổ biến ở nước ta. Theo báo điện tử Thừa Thiên Huế, tổng số
học sinh sinh viên cả hai bậc đào tạo trung cấp và cao đẳng hệ chính quy tốt
nghiệp đợt này là 235 người, cụ thể ở bậc cao đẳng: xuất sắc chỉ đạt 5,6%, giỏi
14,2% trong khi đó, khá đạt 66,8%; riêng trung cấp 100% chỉ ở mức khá. Thực
tế cho thấy đến những sinh viên đạt loại khá, giỏi ở những trường đại học kể cả
lớn, nhỏ cũng chưa chắc đã đáp ứng đủ yêu cầu của việc làm sau khi ra trường
và tất nhiên bậc cao đẳng, trung cấp gần như được xem là dư thừa.
Kiểm soát lạm phát và giá cả: Thực trạng lạm phát đang diễn ra theo xu hướng
ngày một phát triển ở nước ta với tính hai mặt, nó có thể vừa thúc đẩy vừa kìm
hãm nền kinh tế theo nhiều khía cạnh, tất nhiên, cũng gây ra không ít ảnh hưởng
đến đời sống nhân dân cùng nền sản xuất hàng hóa. Cho nên, nhà nước
ta cần kiểm soát và cân bằng mức độ lạm phát đến một mức độ phù hợp nhất
định sao cho vừa nâng cao nền sản xuất hàng hóa của nước nhà, vừa đảm bảo ổn
định cuộc sống nhân dân. Có thể hình dung lạm phát khi vẫn còn được phân loại 11 lOMoAR cPSD| 44820939
vào cấp độ hợp lý mà chưa gây tác hại cho người dân hay rủi ro cho nền kinh tế
như sau: Số liệu thực tế cho thấy mức giá của gạo vào năm 2018 là 18000
VND/1kg nhưng giá của cùng một loại gạo đó vào năm 2021 lại là
25000VND/1kg, đồng tiền tuy đã bị mất giá nhưng ảnh hưởng chưa quá lớn. Tuy
nhiên có nhiều trường hợp vì một vài lí do nào đó mà giá cả đột ngột tăng nhanh,
tăng mạnh khiến cho xã hội chưa kịp thích ứng và gây ra tình trạng người dân đổ
dồn đi thu mua hàng hóa, tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và hạn chế
cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Gần đây, chiến tranh Nga-Ukraina diễn
ra đã làm cho nguồn cung cấp dầu khổng lồ từ Nga được ước tính là 10 triệu
thùng dầu m i ngày bị ứ đọng khi mà các chuyến hàng từ Nga qua Ukraina bị
gián đoạn, kết quả gây ra sự thiếu hụt về xăng dầu dẫn đến giá xăng dầu tăng
mạnh. Tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolime công bố giá xăng dầu vào tháng
12/2021 dao động từ 15000VND-23000VND/lít (Bảng 2), nhưng sau khi chiến
tranh giữa Nga-Ukraina xảy ra vào ngày 24/2/2022, giá xăng dầu vào tháng
3/2022 tăng giá nhanh lên đến từ 21000VND-30000VND/lít (Bảng 3) gây tác
động mạnh mẽ đến đời sống sinh hoạt, việc đi lại của người lao động dẫn đến
ảnh hưởng không ít tới quá trình sản xuất:
Bảng 2: Hà Nội, ngày 10.12.2021, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam điều
chỉnh giá xăng dầu theo mức giá mới
Tập trung nhiều vào phát triển các vùng kinh tế trọng điểm: 24 vùng kinh tế trọng
điểm ở nước ta đều sở hữu những đặc trưng thế mạnh riêng rất thuận lợi cho phát
triển các ngành nghề kinh tế của từng vùng và cả đất nước, đi kèm theo đó là sự
cải thiện được nền sản xuất hàng hóa nói riêng. Vì m i vùng trọng điểm đều hội
tụ những điểm mạnh riêng về nhiều mặt như đất đai, thời tiết, nguồn lực, vị trí
địa lý... nên có tiềm năng rất lớn thu hút các nhà đầu tư tập trung vào sự tiến bộ
trong tương lai của vùng đó. Việc tập trung vốn và nguồn lực vào những bộ phận
có tiềm năng sẵn từ trước sẽ đẩy mạnh tiến độ phát triển của từng vùng trọng
điểm để không ngừng vươn tầm ra nhiều thị trường lớn hơn, đồng thời, mở rộng 12 lOMoAR cPSD| 44820939
và khai phá thêm nhiều lĩnh vực sản xuất hàng hóa để biến chúng trở thành một
trong những điểm mạnh của vùng kinh tế nói riêng, kết quả tăng tỷ trọng trong
tổng GDP của quốc gia, từ đó tạo ra tốc độ phát triển nhanh cho cả nước cũng
như h trợ các vùng khác. Tình hình dịch bệnh rất căng thẳng vừa qua đã khiến
rất nhiều lực lượng lao động, nhiều nhất là lao động giản đơn ở các vùng kinh tế
trọng điểm (vùng phía Bắc và phía Nam) trở về quê để tránh dịch và không có ý
định quay trở lại, việc sản xuất hàng hóa trong khoảng thời gian này đã và đang
bị đình trệ khá lâu, ảnh hưởng nhiều tới tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này.
Theo khảo sát sơ bộ của Bộ LĐTBXH, trong khoảng từ tháng 7 đến đầu tháng
10, có khoảng 324.000 người trở về từ Hà Nội, 292.000 người về từ Thành phố
Hồ Chí Minh và 450.000 người trở về từ các tỉnh, thành khác phía Nam. Nhà
nước ta nên có chiến dịch để kêu gọi và thu hút các nguồn lao động trở lại các
vùng kinh tế trọng điểm để khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực, ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất.
Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải tiến nền hành
chính quốc gia Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ
rất quan trọng trong quản lý nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Nó tạo hành
lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sẳn xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có
thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng
cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo hướng đoạn tuyệt
với cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo cơ chế tập trung chuyển sang
quản lý theo phương thức công nghiệp và cơ chế thị trường để đảm bảo điều kiện
cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta.
Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ nhằm phát triển nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất,
đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần đẩy mạnh công tác nghiên
cứu, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học cách mạng – công nghệ vào sản
xuất và lưu thông, đảm bảo hàng hóa đủ sức cạnh tranh.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường Trong xu
hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển phải hòa nhập kinh tế trong nước với kinh tế thế giới (mở rộng
thị trường ngoài nước, hợp tác đầu tư với nước ngoài…) Muốn vậy, phải đa dạng
hóa phương thức, đa dạng hóa đối tác, cần quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có
lợi, không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội. Đồng thời, triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước
trong quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên
đất nước, tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại 13 lOMoAR cPSD| 44820939
phải dựa trên thị trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả
năng cạnh tranh nhờ vào thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi người ta chỉ nhập khẩu
những gì là thế yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất
cái thị trường cần chứ không phải cái bản thân có.
4.2. Đối với doanh nghiệp và người lao động
Ngày nay, tiền lương trở thành vật liệu trung gian cho việc tính toán này và được
coi là một hình thức trả công để bù đắp cho công việc của người sản xuất. Tuy nhiên,
trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hiện nay, nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao
động và người sử dụng lao động về vấn đề tiền lương đã tạo ra bất lợi rất lớn, cản trở,
đình trệ sản xuất hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Theo báo Dân Việt, lao động chỉ chiếm
khoảng 15% dân số và khoảng 27% lực lượng lao động xã hội, nhưng đóng góp hơn
75% ngân sách và hơn 65% GDP của đất nước. Lao động chỉ chiếm khoảng 15% dân
số và khoảng 27% lực lượng lao động xã hội, nhưng đóng góp hơn 75% ngân sách và
hơn 65% GDP của đất nước. 000 người lao động trên toàn quốc cho thấy:Nếu không
tính làm thêm giờ, lương cơ bản của công nhân viên chức chỉ trung bình 4,92 triệu
đồng/tháng. Nhưng mức lương trung bình thấp hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến
tinh thần và động lực làm việc của đại bộ phận lực lượng lao động, từ đó làm giảm năng
suất cũng như cường độ làm việc. Đồng thời, người lao động cũng cần nhận thức được
vai trò của mình trong việc thúc đẩy sản xuất nguyên liệu của đất nước, phối hợp với
các nhà sản xuất để giải quyết vấn đề tiền lương và có trách nhiệm trong công việc. KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở nước
ta là một quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa mang tính chiến lược lâu dài. Trong thời
kỳ chuyển biến của nền kinh tế nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta còn
phải đối mặt với nhiều thách thức, cản trở. Khó khăn đặt ra ở đây là nước ta xây dựng
nền kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại nhiều yếu kém, năng suất
lao động thấp. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, ta có thể khẳng định kinh
tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo hướng XHCN. Đó là sự định hướng
của xã hội mà sự đúng đắn của nó thể hiện ở kết quả dân giàu nước mạnh. Xã hội không
còn chế độ người bóc lột người. Nền kinh tế phát triển ngày càng cao trên cơ sở nền
khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại, sự phân công lao động hợp lý, xây
dựng phát triển cơ sở hạ tầng với kế hoạch phát triển lâu dài. Định hướng XHCN nêu
trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân
ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hóa
của lịch sử. Việc chuyển biến theo xu thế phát triển chung của thế giới với sự bắt kịp
thời đại là bước ngoặt lớn tạo đà phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, trên con đường
phát triển này chúng ta còn phải n lực mới có thể đạt nhiều thành tựu lớn hơn. Có như
thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó. 14 lOMoAR cPSD| 44820939
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo Trình KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
2. Báo cáo ngành (2020). Các ngành sản xuất hàng đầu tại Việt Nam. BáoVietnamcredit
3. Cơ sở hạ tầng (2021). từ https://www.invert.vn/co-so-hatang-ar2406
4. Lý tưởng (2022). Nền kinh tế nhiều thành phần
5. Tin xuất nhập khẩu (2022).Tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam.
6. Phương Thoa (2022). Giải pháp nào để thu hút lao động quay trở lại làm việc tạivùng
kinh tế trọng điểm. Báo An ninh tiền tệ
7. Vấn đề tiền lương ở Việt Nam (2022). Báo jobpro
8. Nguyệt Tạ (2022). Lương thấp lao động không dám lập gia đình, vay để chi tiêu.Báo danviet
9. Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm
10.Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam Petrolimex 15