lOMoARcPSD| 58504431
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----
-----
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CHỦ ĐỀ:
Lớp
:
LLTT1101_13
Nhóm số
:
07
GVHD
:
lOMoARcPSD| 58504431
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC HÌNH 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LUẬN VỀ KINH DOANH CACBON THẤP (LOW
CARBON BUSINESS) 5
1.1. Lý luận chung về nền kinh tế Cacbon thấp 5
1.1.1. Khái niệm về kinh tế Cacbon thấp 5
1.1.2. Xu hướng tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng Cacbon thấp 6
1.2. Lý luận về kinh doanh Cacbon thấp 7
1.2.1. Khái niệm về kinh doanh Cacbon thấp 7
1.2.2. Phạm vi phát thải khí 1,2,3 8
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG KINH DOANH CACBON THẤP TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM 9
2.1. Kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 9
2.1.1. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 9
2.1.2. Một số doanh nghiệp nổi bật trong việc kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 10
2.2. Kinh doanh Cacbon thấp tại Việt Nam 11
2.2.1 Tình hình phát triển kinh tế theo hướng kinh tế Cacbon thấp tại Việt Nam 11
2.2.2. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp tại Việt nam 14
2.2.3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam đến từ việc kinh doanh Carbon thấp 16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆT NAM 20
3.1. Về phía doanh nghiệp 20
3.2. Về phía Nhà nước 20
KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
lOMoARcPSD| 58504431
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
lOMoARcPSD| 58504431
DANH MỤC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
Hình 2.1
Diễn biến TPES giai đoạn 2010 – 2019
12
Hình 2.2
Diễn biến xuất nhập khẩu năng lượng
13
Hình 2.3
Cơ cấu khai thác năng lượng thương mại trong nước
14
Hình 2.4
Lộ trình hướng tới Net Zero của Vinamilk
16
lOMoARcPSD| 58504431
LỜI MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21,
với sự gia tăng nồng đkhí nhà kính, đặc biệt CO từ hoạt động sản xuất tiêuthụ
năng lượng, gây ra hiệu ứng nhà kính, dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh
hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái, đời sống hội và nền kinh tế toàn cầu. Để hạn chế sự
nóng lên của Trái Đất và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, các quốc gia đã cam
kết thực hiện mục tiêu giảm phát thải cacbon thông qua Thỏa thuận Paris 2015. Trong
bối cảnh đó, mô hình kinh doanh cacbon thấp (Low-carbon Business) ra đời như một giải
pháp vừa giúp các doanh nghiệp đạt tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần giảm phát thải
cacbon. nhiều quốc gia, hình kinh doanh này đã chứng minh hiệu quả trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, tăng cường khả năng cạnh tranh và xây dựng thương
hiệu bền vững. Tuy nhiên, Việt Nam, việc áp dụng hình kinh doanh cacbon thấp
còn gặp khó khăn do hạn chế về công nghệ, tài chính và nhận thức của doanh nghiệp. Do
đó, nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quan về lý luận và thực tiễn của mô hình kinh
doanh cacbon thấp trên thế giới Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thúc
đẩy phát triển mô hình này tại Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về mô hình kinh doanh
cacbon thấp thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp trên thế giới ng như ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm các trường hợp áp dụng hình tại một số quốc gia tiên
tiến và các doanh nghiệp trong nước. Đề tài được chia thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về kinh doanh Cacbon thấp (Low-carbon Business)
Chương II: Thực trạng kinh doanh Cacbon trên thế giới và Việt Nam
Chương III: Một số chính sách đề xuất đối với Việt Nam
Bên cạnh đó, Nhóm xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Thị Hoài Thu
đã tận m hướng dẫn cho đề tài của nhóm được hoàn thiện. Do kiến thức và thời gian
hạn, bài viết th nhiều thiếu sót, nhóm rất mong nhận được sự góp ý nhận xét
của cô. Chúng em chân thành cảm ơn cô!
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH CACBON
THẤP (LOW – CARBON BUSINESS)
1.1. Lý luận chung về nền kinh tế Cacbon thấp
1.1.1. Khái niệm về kinh tế Cacbon thấp
Thuật ngữ kinh tế cacbon thấp lần đầu tiên được đưa ra trong Báo cáo Chính sách
Năng lượng của Bộ Thương mại và Công nghiệp Vương Quốc Anh vào năm 2003 có tên
lOMoARcPSD| 58504431
“Our Energy Future - Creating a Low Carbon Economy”, trong đó đã đề cập đến kinh tế
cacbon thấp đặt trọng tâm đặc biệt vào giảm phát thải khí nhà kính nhằm chống biến đổi
khí hậu.
Theo Báo cáo Building a low-carbon economy vào năm 2011 của Regions for
Sustainable Change (RSC), kinh tế cacbon thấp là một nền kinh tế trong đó tăng trưởng
kết quả của việc tích hợp tất cả các khía cạnh của nền kinh tế liên quan đến áp dụng
các công nghệ thực hiện các hoạt động tạo ra lượng khí nhà kính thấp, các giải pháp
hiệu quả năng lượng năng lượng tái tạo, đổi mới công nghệ theo hướng phát thải
cacbon thấp hình thành các cộng đồng, tòa nhà, giao thông, công nghiệp nông
nghiệp sử dụng năng lượng vật liệu hiệu quả cũng như tăng cường xử lý/tái chế chất
thải để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đặc biệt là CO2. Như vậy, kinh tế cacbon thấp
là một nền kinh tế được đặc trưng bởi các hoạt động thải ra lượng CO2 thấp vào bầu khí
quyển.
Theo Báo cáo Towards Green Growth: A Summary for Policy Makers của OECD
vào 2011, các mục tiêu chính của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế cacbon thấp liên
quan đến tăng cường hiệu quả năng lượng, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cũng
như thúc đẩy GDP xanh thông qua đổi mới công nghệ tất cả các lĩnh vực nhằm xác
định các cách thức và công nghệ tạo ra lượng khí nhà kính ít hơn trong khi không ảnh
hưởng đến tăng trưởng. Xét trên khía cạnh này, tăng trưởng xanh - là tăng trưởng kinh tế
nhưng vẫn đảm bảo duy trì các tài sản tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên dịch vụ môi
trường) phúc lợi con người dựa vào, được coi một phương tiện để thực hiện quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế cacbon thấp và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế các-bon thấp sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển trong
tương lai như bảo vệ hệ sinh thái môi trường thông qua chiến lược giảm khí thải trong
sản xuất kinh doanh, mở ra nhiều hội việc làm cho người lao động, đảm bảo an ninh
năng lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong phát triển kinh tế.
1.1.2. Xu hướng tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng Cacbon thấp
Cam kết phát triển nền kinh tế xanh
Khí cacbon sau khi thải ra môi trường chỉ được thực vật động vật hấp thụ một
phần nhỏ, còn phần lớn vẫn tồn tại trong khí quyển gây ra hiệu ứng nhà kính. Ảnh
hưởng của dịch bệnh khiến nhiều quốc gia trên thế giới phải giãn cách hội, điều này
giúp cải thiện chất lượng không khí đáng kể, vì giảm lượng CO2 thải ra môi trường. Tuy
nhiên, dịch bệnh lại khiến nền kinh tế ngưng trệ suy giảm nghiêm trọng. Nhìn chung
hướng đến phát triển nền kinh tế cacbon thấp bền vững song hành với bảo vệ môi trường
vẫn là kim chỉ nam trong tương lai mà các doanh nghiệp cần hướng đến.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu được tổ chức năm 2021 của Liên Hợp
Quốc, hơn 100 quốc gia tham gia đã cam kết thực hiện phát triển kinh tế theo hướng bền
lOMoARcPSD| 58504431
vững, để đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong đó, Liên minh châu Âu
Mỹ đã đưa ra mục tiêu đến năm 2030 cắt giảm khoảng 50% lượng khí thải ra môi trường
so với năm 2005, Trung Quốc đặt mục tiêu năm 2030 sản xuất 25% năng lượng từ các
nguồn năng lượng sạch nói không với điện than. Việt Nam một trong những nước
chịu ảnh hưởng lớn nhất hiện tượng biến đổi khí hậu, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã
công bố tại Hội nghị COP26 những cam kết của Việt Nam trong việc ứng phó với tình
trạng ô nhiễm môi trường đang xu hướng leo thang. Theo đó, Việt Nam đã cam kết
đến năm 2030 giảm 30% lượng phát thải khí, đến năm 2050 sẽ giảm phát thải hoàn toàn.
Tiêu thụ ít cacbon trong sản xuất và tiêu dùng
Phát triển nền kinh tế cacbon thấp smang lại những lợi ích như cải thiện an ninh
nguồn cung, giảm áp lực lên môi trường tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững. Một trong những giải pháp đang được nhiều doanh nghiệp triển
khai đó “xanh hóa" từng khâu trong quy trình sản xuất, cải tiến và thay thế thiết bị
trong quy trình sản xuất để gia tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, sdụng công nghệ
tiên tiến nhất để giảm phát thải. Ngoài ra việc đầu vào các nhà máy sản xuất khí tự
nhiên nhiên liệu sinh khối cũng một trong những định hướng để cân bằng lượng
cacbon giảm khí thải bằng cách trồng nhiều cây xanh sử dụng công nghệ thu giữ
u giữ CO2. Khí tnhiên giải pháp khá hiệu quả, đây được xem nguồn năng
lượng sạch an toàn. Việc sử dụng khí ga tự nhiên sẽ hạn chế phát thải cacbon ra cho
môi trường rất hiệu quả.
1.2. Lý luận về kinh doanh Cacbon thấp
1.2.1. Khái niệm về kinh doanh Cacbon thấp
Kinh doanh cacbon thấp được hiểu doanh nghiệp thay đổi chiến ợc sản xuất
kinh doanh hướng đến phát triển bền vững, bằng việc “xanh hóa” từng khâu trong quy
trình sản xuất, sử dụng năng lượng hiệu quả tăng ờng sử dụng năng lượng tái tạo,
cải tiến và thay thế thiết bị, công nghệ trong quy trình sản xuất, tăng cường xử lý/tái chế
chất thải trong sản xuất để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đặc biệtCO2. Như vậy,
kinh doanh các-bon thấp là một chiến lược của doanh nghiệp trong xu hướng tái cấu trúc
nền kinh tế theo hướng cacbon thấp trong bối cảnh biến đổi khí hậu, được đặc trưng bởi
các hoạt động thải ra lượng CO2 thấp vào bầu khí quyển.
Kinh doanh cacbon thấp đem lại sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển trong
tương lai của chính doanh nghiệp, hội cũng như môi trường hsinh thái. Đối với
doanh nghiệp, việc cắt giảm khí nhà kính trong sản xuất, phân phối thông qua sử dụng
năng lượng hiệu quả, tiết kiệm, sử dụng năng lượng tái tạo sẽ giúp doanh nghiệp giảm
chi phí năng lượng giảm giá thành sản phẩm. Không những thế, xu hướng tiêu dùng hiện
nay trên thế giới tiêu dùng các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường. Chính
vậy, việc kinh doanh các-bon thấp của doanh nghiệp giúp sản phẩm của họ được đón
nhận từ đó tăng doanh số bán hàng, tìm kiếm thị trường mới, nâng cao khả năng cạnh
lOMoARcPSD| 58504431
tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Đối với khách hàng, việc kinh doanh
các-bon thấp của doanh nghiệp giúp khách hàng đạt được mục tiêu các-bon thấp của bản
thân thông qua tiêu dùng sản phẩm. Từ đó tạo tác động lan tỏa tích cực trong xã hội. Đối
với môi trường khí hậu, việc sản xuất phát thải thấp của doanh nghiệp sẽ giúp cải thiện
hệ sinh thái xung quanh cũng như bảo vệ hệ thống khí hậu toàn cầu.
1.2.2. Phạm vi phát thải khí 1,2,3.
Trong kinh doanh cacbon thấp, việc đánh giá giảm thiểu tác động môi trường của
các hoạt động kinh doanh trở n vô cùng quan trọng. Một khái niệm then chốt trong bối
cảnh này là "Phát thải khí Phạm vi 1, 2, 3".
Mọi doanh nghiệp đều chịu trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp đối với việc bức xạ
khí nhà kính như cacbon dioxide, methane, nitrous oxide. Phát thải cacbon được phân
loại thành ba nhóm chính gồm: Phạm vi 1, Phạm vi 2 Phạm vi 3. Mỗi phạm vi ý
nghĩa khác nhau về khnăng kiểm soát giảm thiểu phát thải. Phương pháp phân loại
theo phạm vi giúp đo lường xác định loại khí nhà kính được sản sinh trong suốt quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả lượng phát thải trực tiếp từ doanh nghiệp
và lượng phát thải gián tiếp từ đối tác, nhà cung cấp. Bằng cách đo lường từng phạm vi,
các công ty thể xác định điểm nóng về khí nhà kính tìm giải pháp giảm thiểu chúng:
Phạm vi 1 (Scope 1): Phát thải trực tiếp từ nguồn. Phát thải Phạm vi 1 là lượng khí
nhà kính phát sinh trực tiếp từ các hoạt động do chính doanh nghiệp kiểm soát. dụ,
nếu doanh nghiệp sở hữu hoặc kiểm soát các nguồn phát thải như phương tiện công ty
hoặc quy trình công nghiệp, thì phát thải từ các nguồn này sẽ thuộc về phạm vi 1. Bởi vì
chúng nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp, nên phát thải Phạm vi 1 thường
được sử dụng làm điểm khởi đầu cho bất cứ chiến lược giảm thiểu phát thải nào.
Phạm vi 2 (Scope 2): Phát thải gián tiếp từ sử dụng điện và nhiệt. Phát thải Phạm vi
2 là lượng khí nhà kính phát sinh từ quá trình sản xuất điện,nhiệt các dạng năng lượng
khác mà doanh nghiệp đã mua về sử dụng. Mặc lượng phát thải này không nằm trực
tiếp dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp, song vẫn thể giảm thiểu chúng bằng cách áp
dụng các nguồn năng lượng tái tạo hoặc đề xướng các giải pháp nâng cao hiệu quả năng
lượng.
Phạm vi 3 (Scope 3): Phát thải từ chuỗi cung ứng sản phẩm. Cuối cùng, phát thải
Phạm vi 3 bao gồm tất cả các lượng khí nhà kính gián tiếp khác phát sinh trong chuỗi giá
trị của doanh nghiệp, nhưng không nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp hay sở hữu của doanh
nghiệp. Điển hình nphát thải từ hoạt động vận chuyển hàng a, đi lại làm việc, sử
dụng sản phẩm... quản phát thải. Phạm vi 3 thường quá trình phức tạp nhất, song
cũng mang lại nhiều cơ hội giảm thiểu đáng kể nhất.
Việc hiểu biết về Phạm vi phát thải yếu tố tiên quyết trong xây dựng chiến lược
giảm thiểu tác động môi trường ớng đến phát triển bền vững của doanh nghiệp.
lOMoARcPSD| 58504431
Phân chia theo ba Phạm vi 1, 2, 3 giúp doanh nghiệp có cái nhìn toàn diện về nguồn gốc
mức độ kiểm soát các loại phát thải. Đặc biệt, việc xác định Phạm vi 1 - phát thải
trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sở đề ứng dụng các giải pháp công
nghệ tiên tiến nhằm giảm phát thải tại nguồn. Đồng thời, việc theo dõi Phạm vi 2 3
giúp quản chuỗi cung ứng hợp tác đối tác trong suốt vòng đời sản phẩm, mở rộng
phạm vi giảm thiểu tác động môi trường. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể xây dựng chiến
lược phát thải cacbon thấp được cụ thể hóa thông qua các giải pháp can thiệp phù hợp tại
từng Phạm vi, góp phần kiểm soát biến đổi khí hậu.
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG KINH DOANH CACBON
THẤP TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1. Kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới
2.1.1. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới
Kinh doanh Cacbon thấp đang xu hướng phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu do nhu
cầu giảm lượng phát thải khí nhà kính, góp phần chống biến đổi khí hậu. Điều này góp
phần chuyển đổi nền kinh tế thế giới dần sang nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường
cũng như bền vững hơn trong tương lai.
Thế giới đang dần chú trọng hơn vào việc kinh doanh cacbon thấp. Cụ thể, trong
năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 21 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) tại Paris, hiệp định quốc tế về biến đổi khí hậu đã
được kết (Hiệp định Paris 2015). Hiệp định này quy định các quốc gia cam kết iữ nhiệt
độ toàn cầu không tăng quá 2 độ C cố gắng duy trì mức dưới 1,5 độ C so với thời
kỳ tiền công nghiệp. Qua đó, nhiều chính phđã bắt đầu đưa ra các kế hoạch cụ thể nhằm
giảm phát thải khí nhà kính tăng ờng các giải pháp năng lượng tái tạo. Ngoài ra,
nhiều quốc gia và khu vực đã bắt đầu các mục tiêu không phát thải ròng (net-zero),
trong đó 1 số quốc gia hay khu vực như EU, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc,… đã cam kết
đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 – 2060.
Đối với quá trình phát triển năng lượng tái tạo thay thế cho Cacbon, các quốc gia
doanh nghiệp đã dần chuyển sang các loại năng lượng tái sử dụng cũng như thân thiện
với môi trường hơn như điện mặt trời, gió,Gần đây, việc sử dụng năng lượng tái tạo
thay thế cho cacbon đang những chuyển biến tích cực hơn. Điều này xảy ra 1 phần
nhờ có một hệ thống công nghệ phát triển và quy mô sản xuất lớn, làm giảm đáng kể chi
phí sản xuất các nguồn năng ợng xanh như điện mặt trời hay điện gió. Ngoài ra, các
khoản đầu vào lĩnh vực năng lượng tái tạo đang trở nên phổ biến rộng rãi hơn, như
trong năm 2022, ước tính trên thế giới đã có khoảng 500 tỷ USD vào lĩnh vực này.
Sự phát triển của công nghệ cũng góp phần cải tiến việc kinh doanh cacbon thấp.
Qua đó, một vài sáng kiến đã ra đời có thể kể đến:
lOMoARcPSD| 58504431
Hydro xanh: loại hydro được sản xuất bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng tái
tạo, như điện từ năng lượng mặt trời, gió hoặc thủy điện, để tách nước thành hydro
oxy thông qua quá trình điện phân. Điều y khác biệt với các phương pháp sản xuất
hydro truyền thống, vốn thường dựa vào nhiên liệu hóa thạch và tạo ra ợng lớn khí
CO2.
Carbon Capture and Storage (CCS): Đây một công nghệ quan trọng giúp thu giữ
lưu trữ khí CO2 từ các nhà máy điện và công nghiệp để tránh chúng thải vào khí quyển.
Dẫu các biến chuyển như vậy, tuy nhiên nền kinh doanh cacbon thấp trên thế giới
vẫn còn tồn tại nhiều thách thức. Đó là các rào cản về công nghệ, chi phí chuyển đổi hay
sự chấp nhận của thị trường. Ngoài ra còn sbất ổn trong chính sách tại một số quốc
gia cũng như không phải quốc gia nào cũng đều chấp nhận cam kết để thực hiện quá trình
chuyển đổi này.
Trong tương lai, việc kinh doanh cacbon thấp sẽ trở nên rất hứa hẹn. Với sự kết hợp
giữa công nghệ không ngừng phát triển cùng các chính sách hỗ trợ, c hiệp định hay các
cam kết trong tương lai, kinh doanh cacbon thấp sẽ dần trở thành một phần không thể
thiếu trong nền kinh tế toàn cầu bởi việc chuyển đổi sang hình này không chỉ giúp
bảo vệ môi trường mà còn mang theo nhiều cơ hội kinh doanh khác.
2.1.2. Một số doanh nghiệp nổi bật trong việc kinh doanh Cacbon thấp trên thế
giới
Đầu tiên phải nói đến chính Tesla (Mỹ). Tesla một trong những công ty tiên
phong trong việc sản xuất xe điện, giảm thiểu sự phụ thuộc vào ng dầu giảm phát
thải CO2 từ phương tiện giao thông. Ngoài ra, Tesla còn sản xuất pin lưu trữ năng lượng
i tạo và hệ thống pin cho gia đình (Tesla Powerwall), giúp tăng khả năng sử dụng năng
lượng xanh từ nguồn mặt trời và gió. Nhờ sự phổ biến của xe điện Tesla, lượng phát thải
từ giao thông đã giảm đáng kể ở những khu vực mà xe điện trở nên phổ biến. Tesla cũng
một tấm gương cho chính ngành xe điện tại Việt Nam. Không khó để bắt gặp một chiếc
xe điện Vinfast tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hay các khu vực khác tại Việt Nam.
Đến với Đan Mạch, một quốc gia tại khu vực Bắc Âu thuộc bán đảo Scandinavia,
tại đây chúng ta Ørsted - một công ty năng ợng lớn. Công ty này đã chuyển đổi từ
một công ty năng lượng sử dụng than đá sang một công ty ng đầu thế giới trong lĩnh
vực điện gió ngoài khơi. Ørsted đã thực hiện một kế hoạch loại bỏ hoàn toàn nhiên liệu
hóa thạch trong sản xuất năng lượng và trở thành một công ty sử dụng 100% năng lượng
tái tạo. Nhờ đó, Từ năm 2006 đến 2020, Ørsted đã giảm 86% lượng phát thải CO2 và dự
kiến sẽ đạt mục tiêu không phát thải vào năm 2025.
Cũng tại Bắc Âu, ta đến với Thụy Điển, tại đây IKEA một công ty bán lẻ nội
thất lớn tại nước này. IKEA đã cam kết giảm lượng phát thải carbon trong toàn bộ chuỗi
cung ng của mình. Công ty tập trung vào sử dụng năng lượng i tạo, tối ưu hóa quy
lOMoARcPSD| 58504431
trình sản xuất vận chuyển, phát triển các sản phẩm từ nguồn i nguyên bền vững
như gỗ và cotton tái chế. Cuối cùng, IKEA đặt mục tiêu trở thành "công ty cacbon trung
tính" (carbon-neutral) vào năm 2030, với việc sử dụng năng lượng tái tạo cho tất cả các
cửa hàng nhà máy sản xuất, đồng thời khuyến khích khách ng sử dụng các sản phẩm
tiết kiệm năng lượng.
Đến với châu Mỹ, chúng ta Google, một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực
công nghệ. Năm 2017, Google đã cam kết sử dụng 100% năng ợng tái tạo cho các trung
tâm dữ liệu văn phòng của mình, họ cũng đang phát triển các công nghệ trí tuệ nhân
tạo (AI) để giúp quản năng lượng hiệu quhơn giảm lượng điện năng tiêu thụ.
Ngoài ra, Google đặt mục tiêu trở thành công ty không phát thải vào năm 2030, với c
sáng kiến như chuyển toàn bộ hệ thống máy chủ sang năng lượng tái tạo bù đắp phát
thải từ các hoạt động trước đây.
Tại châu Á, chúng ta Toyota – công ty hàng đầu trong sản xuất ô tô tại Nhật Bản.
Toyota là một trong những hãng xe tiên phong trong phát triển và sản xuất xe hybrid với
dòng xe Prius nổi tiếng, giúp giảm phát thải từ giao thông. Hãng ng đang đẩy mạnh
việc phát triển sản xuất xe điện xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro. Tính đến năm
2020, Toyota đã bán hơn 15 triệu xe hybrid, giúp giảm đáng kể lượng CO2 phát thải từ
phương tiện giao thông trên toàn cầu.
2.2. Kinh doanh Cacbon thấp tại Việt Nam
2.2.1 Tình hình phát triển kinh tế theo hướng kinh tế Cacbon thấp tại Việt Nam
Cung năng lượng sơ cấp
Nền kinh tế - năngợng Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng trong vài thập kỷ qua
với việc chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp dựa trên các loại nhiên liệu sinh
khối truyền thống sang một nền kinh tế sử dụng năng lượng hỗn hợp hiện đại. Năm
2019, tổng cung cấp năng lượng sơ cấp (TPES) của Việt Nam là 89.792 KTOE, tăng
11,0% so với năm 2018. Trong khi đó, cgiai đoạn 2011-2019, tỷ lệ tăng trưởng ch
6,1%/năm. Động lực chính cho tăng trưởng TPES, trước tiên do phía nhu cầu, phần quan
trọng còn lại là cơ cấu chuyển hóa năng lượng, chủ yếu là ngành điện. Trong trường hợp
của Việt Nam, sự gia tăng mạnh mẽ cung năng lượng cấp trong vài năm gần đây
vai trò lớn nhất của nhiệt điện than.
lOMoARcPSD| 58504431
Hình 2.1 Diễn biến TPES giai đoạn 2010 – 2019
Nhìn vào tăng trưởng của từng nhóm sản phẩm năng lượng trong TPES, có thể thấy
than có tốc độ tăng trưởng gần gấp đôi, 13,2%/năm trong giai đoạn 2011-2019, kế tiếp
năng lượng tái tạo 1) 10,5%/năm. Năng lượng sinh khối phi thương mại 2) và chênh lệch
xuất khẩu điện mức tăng trưởng âm, tương ứng -31,4%/năm -13,3%/năm. Sự sụt
giảm của năng lượng sinh khối phi thương mại là hoàn toàn phù hợp với xu thế hiện nay.
Đây một loại nhiên liệu thường được sử dụng trong đun nấu dân dụng, một loại
nhiên liệu từng khá phổ biến ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa. Càng về sau này
do quá trình đô thị hóa và mức sống ngày càng cao đã làm tăng khả năng tiếp cận với các
dạng nhiên liệu thương mại thuận tiện an toàn hơn. vậy biomass sử dụng trong dân
dụng ngày càng giảm. Mặc dù vậy, các ứng dụng biomass trong sản xuất công nghiệp lại
có xu hướng gia tăng, ví dụ như lò hơi đốt trấu, sản xuất điện đồng phát… Vì vậy lượng
biomass này không được coi là năng lượng sinh khối phi thương mại.
Xuất nhập khẩu năng lượng
Xuất khẩu năng lượng được thực hiện với mục tiêu tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân
sách nhà nước. Trong khi đó nhập khẩu năngợng là để đáp ứng thiếu hụt nguồn cung
do sự thiếu hụt các nguồn sản xuất hoặc chuyển đổi năng lượng trong nước.
lOMoARcPSD| 58504431
Hình 2.2 Diễn biến xuất nhập khẩu năng lượng
Dễ dàng nhận thấy xu hướng giảm dần của xuất khẩu năng lượng trong những năm
vừa qua, trong khi nhập khẩu năng lượng tăng dần. Sản ợng xuất khẩu của năm 2019
chỉ còn 8.834 KTOE, giảm 2,4 lần so với năm 2010. Trong khi đó ợng năng lượng nhập
khẩu, sau một vài năm giảm sút do nhu cầu trong nước giảm, đã tăng mạnh trở lại kể từ
năm 2015. đây cũng năm đầu tiên Việt Nam chính thức trở thành một quốc gia nhập
khẩu tịnh năng lượng. Xét về lượng, năm 2019, năng lượng nhập khẩu là 44.342 KTOE,
tăng 39,6% so với m 2018. Tính trong cả giai đoạn 2011-2019, tăng trưởng năng lượng
nhập khẩu mức 15,5%/năm. Đáng chú ý kể từ năm 2018, Việt Nam bắt đầu nhập một
lượng dầu thô đáng kể nhằm cấp nguyên liệu cho nhà máy lọc dầu Nghi Sơn. Biểu đồ
trên cho thấy sự thay đổi về chênh lệch xuất nhập khẩu từng loại năng lượng trong giai
đoạn 2011-2019. Sự chuyển biến mạnh mẽ đến từ than dầu thô, vốn trước đây được
coi là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Mặc vậy có sự khác biệt giữa hai loại năng
lượng này. Tịnh nhập khẩu than đạt âm trước 2015, nhưng sau đó đạt giá trị ơng
luôn tăng mạnh về mặt giá trị cho thấy sự phụ thuộc ngày càng cao vào than nhập khẩu.
Trong khi đó, tịch nhập khẩu dầu thô tuy đạt giá trị dương từ 2018 nhưng cũng từ năm
này tịnh nhập khẩu các sản phẩm dầu lại giảm cho thấy sự tráo đổi khi Việt Nam thêm
nhà máy lọc dầu Nghi Sơn. Về tổng thể, tịnh nhập khẩu năng lượng chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong TPES, từ 6,0% năm 2015 tăng lên 39,5% năm 2019.
Tiêu thụ năng lượng
Trong giai đoạn 2010-2019, tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng tăng trưởng
4,3%/năm đạt mức 61.853 KTOE vào năm 2019. Mặc dù vậy trong hai năm liên tiếp
2018 và 2019 tốc độ tăng trưởng so với năm trước đó lại khá cao, 11,86% ở năm 2018
6,7% ở năm 2019. Điều này khiến cho chỉ số tiêu thụ năng lượng trên GDP tăng cao trở
lại, bắt đầu 364 kgOE/1000 USD vào năm 2010, giảm dần xuống 295,7 kgOE/1000
lOMoARcPSD| 58504431
USD vào m 2017 nhưng sau đó lại tăng lên 308,9 kgOE/1000 USD 307,9
kgOE/1000 USD tương ứng ở 2018 và 2019.
Hình 2.3 Cơ cấu khai thác năng lượng thương mại trong nước
Về cơ cấu, rõ nét nhất là tỷ lệ tiêu thụ điện trên Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng
(TFEC) tăng liên tục thể hiện sự chuyển đổi từ các dạng nhiên liệu khác sang điện. Năm
2010, tỷ lệ này đạt 17,2% thì tới năm 2015 tăng lên 23,2%, 29,1% vào năm 2019. Mặc
dù than có tốc độ nguồn cung sơ cấp cao, nhưng tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ TFEC
chđạt 5,2%/năm. cấu của than trong TFEC cũng không nhiều biến động, xấp xỉ
mức 23-25%. Năng lượng tái tạo tốc độ ng trưởng đáng ghi nhận, 6,6%/năm. Đóng
góp trong cơ cấu TFEC cũng tăng từ 7,1% năm 2010 lên 8,6% năm 2019. Các sản phẩm
dầu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong TFEC và cũng không có biến động lớn, ngoại trừ việc
tăng lên 38,0% vào năm 2018 nhưng sau đó lại giảm xuống còn 34,4% vào năm 2019.
Sự thay đổi lớn nằm ở năng lượng phi thương mại. Với cách thức thống kê mới thì năng
lượng phi thương mại giảm 29%/năm trong giai đoạn 2011-2019. Điều này khiến cho
cấu của năng lượng phi thương mại trong TFEC chỉ còn 0,5% vào m 2019. Đây cũng
một trong những do khiến cho cấu tiêu thụ theo ngành sự thay đổi lớn. Năm
2010, Khu vực dân dụng chiếm tỷ trọng 27%, trong khi Công nghiệp chỉ chiếm 39,4%.
Đến năm 2019, công nghiệp vẫn là hộ tiêu thụ lớn nhất, nhưng tỷ trọng đã chiếm 51,3%,
trong khi Dân dụng chỉ còn 12%. Đứng thứ 2 là Giao thông vận tải, chiếm 23,0% cơ cấu
TFEC.
2.2.2. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp tại Việt nam
Việt Nam khoảng 920.000 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ vừa
chiếm hơn 98%. Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa đều thiếu vốn cho đầu phát triển
sản phẩm. Chính thế họ thường chọn lựa c phương án tập trung vào các yếutố đầu
vào chi phí thấp. Nsử dụng các công nghệ lạc hậu, sử dụng các dây chuyền sản
xuất từ nước ngoài,… Bên cạnh đó, đthể được chuyển giao công nghệ tiên tiến,
hiện đại các doanh nghiệp phải bỏ ra chi plớn để đầu vào yếu tố con người. Chính
vì thế các doanh nghiệp chưa mạnh dạn làm sản phẩm xanh, bền vững mà mới chỉ quan
lOMoARcPSD| 58504431
tâm đến mục tiêu lợi nhuận, tìm kiếm và mở rộng thị trường, bảo hộ thương hiệu,… Trách
nhiệm đối với môi trường của doanh nghiệp còn hạn chế.
Trong bối cảnh môi trường kinh doanh tại Việt Nam đang đối diện với nhiềuthách
thức về ô nhiễm môi trường sự thiếu sót trong quản tài nguyên, việc cácdoanh
nghiệp chuyển sang mô hình kinh doanh các bon thấp là cần thiết. Hiện nay, tạiViệt Nam
đã có hơn 1.200 công ty đưa ra mục tiêu dựa trên nền tảng khoa học phùhợp với cam kết
thực hiện hành động nghiêm ngặt tới năm 2030. n cạnh đó, ngày càng nhiều tập
đoàn lớn đang hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế không có carbon và cam kết
thu được năng ợng 100% nguồn gốc tái tạo. Trong số các doanh nghiệp này,
Vinamilk Vinfast những cái tên nổi bật, đem lại không chỉ những sản phẩm chất
lượng còn cam kết và hành động trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Vinamilk
Vinamilk là doanh nghiệp ngành sữa hàng đầu tại Việt Nam, với hệ thống nhà máy,
trang trại quy công nghệ cao hàng triệu sản phẩm được cung cấp mỗi ngày. Tại
Việt Nam, Vinamilk là doanh nghiệp đã và đang có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát
triển bền vững hơn của ngành sữa, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hướng tới Net
Zero 2050. Đồng hành cùng cam kết quốc gia, hội nhập để đối chuẩn quốc tế, Vinamilk
doanh nghiệp sữa đầu tiên của Việt Nam tham gia vào Sáng kiến toàn cầu của ngành
sữa về Net Zero - Pathways to Dairy Net Zero, một sáng kiến được sáng lập bởi Liên
đoàn sữa thế giới (IDF), Khung phát triển bền vững ngành sữa (DSF), Global Dairy
Platform… Chương trình này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, khẳng định hành
động mạnh mẽ quyết tâm của Vinamilk trong nỗ lực bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Năm 2023, Vinamilk là doanh nghiệp sản xuất sữa đầu tiên của Việt Nam nhận
chứng chỉ trung hòa carbon cho cả nhà máy trang trại theo tiêu chuẩn quốc tế PAS
2060:2014.
Tổng lượng phát thải khí nhà kính của 2 đơn vị này đã được trung hòa là 17.560 tấn
CO2 (tương đương với khoảng 1,7 triệu cây xanh). Điều này kết quả của “hành động
kép”, nỗ lực cắt giảm phát thải trong sản xuất, chăn nuôi của Vinamilk, đồng thời duy trì
quỹ cây xanh của Công ty để hấp thụ khí nhà kính trong nhiều năm qua.
lOMoARcPSD| 58504431
Hình 2.4 Lộ trình hướng tới Net Zero của Vinamilk
Việc cắt giảm phát thải, khí nhà kính tiến tới Net Zero trong ngành sữa rất
thách thức, đặc biệt với các trang trại sữa quy lớn. Mục tiêu này đòi hỏi việc
đầu tư cho các giải pháp công nghệ, chuyển đổi năng lượng xanh, vận dụng kinh tế tuần
hoàn… một cách toàn diện. thnói, các kết quả của Vinamilk đạt được rất đáng ghi
nhận giá trị khích lệ rất lớn cho tiến trình Net Zero của ngành sữa. Các đơn vị đã
bắt đầu từ việc thực hiện kiểm khí nhà nh chính xác, kĩ lượng từ sớm, từ đó xây
dựng các lộ trình giảm phát thải. Với sự cam kết mạnh mẽ của Vinamilk với mục tiêu Net
Zero 2050, sẽ sớm thêm nhiều đơn vị của Vinamilk đạt được mục tiêu trung hòa carbon
trong tương lai gần.
Vinfast
Một doanh nghiệp khác tại Việt Nam cũng đã đón đầu xu hướng kinh doanh cácbon
thấp Vinfast. VinFast công bố tham gia Cam kết Khí hậu toàn cầu (TCP), hướng đến
mức phát thải carbon bằng 0 vào 2040, từ ngày 21/9/2022. Tham gia cam kết này, VinFast
các doanh nghiệp sẽ đặt mục tiêu đạt mức phát thải bằng 0 sớm hơn 10 năm so với
Thoả thuận chung Paris (thoả thuận tại Hội nghị về Biến đổi khí hậu Liên Hợp Quốc
2015).
Theo đó, hãng xe Việt sẽ thực hiện các đo lường báo cáo phát thải carbon định
kỳ, triển khai các chiến lược giảm phát thải theo thỏa thuận Paris, thông qua cải tiến, đổi
mới trong sản xuất kinh doanh. Các hoạt động này bao gồm cải thiện hiệu quả sản
xuất, sử dụng năng ợng tái tạo, giảm thải nguyên vật liệu, trung hòa các phát thải
còn lại... hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải carbon hàng năm bằng 0 vào năm 2040.
Vinfast cũng thành viên Việt Nam đầu tiên của TCP. Đầu năm 2022, VinFast đã công
bố chiến lược thuần điện, tập trung phát triển dải sản phẩm xe điện thông minh thân
thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thúc đẩy cuộc cách
mạng xe điện toàn cầu.
Trong hoạt động sản xuất, hãng đã xây dựng các quy trình tối ưu nhằm giảm phát
thải, tái sử dụng cũng như tiết kiệm nước năng lượng. Các tiêu chuẩn bền vững cũng
là yêu cầu tiêu chí đánh giá của VinFast dành cho các đối c, nhà cung cấp. VinFast
cũng làm việc với các viện nghiên cứu và trường đại học hàng đầu về các giải pháp mới,
nhằm đạt được mục tiêu không phát thải carbon. Chính ch cho thuê pin cũng giúp
VinFast chủ động thu hồi pin cũ, pin hết hạn sử dụng để xử lý theo đúng quy định, đảm
bảo an toàn cho môi trường.
2.2.3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam đến từ việc kinh doanh Carbon thấp
Cơ hội
Đối với thị trường tín chỉ Carbon: Tín chỉ carbon chứng nhận thể giao dịch
thương mại và thể hiện quyền phát thải một lượng khí CO2 hoặc một lượng khí nhà kính
lOMoARcPSD| 58504431
khác quy đổi sang CO2 tương đương. Một tín chỉ tương đương với 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn
CO2 quy đổi tương đương.
Việt Nam hiện xây dựng thị trường tín chỉ carbon, dự kiến thí điểm từ năm 2025,
hoàn thiện khung pháp lý vào năm 2027 và vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm
2028. Và đây là thị trường mang yếu tố bắt buộc. Điều này nghĩa là các doanh nghiệp s
bị kiểm soát việc phát thải khí nhà kính, nếu xả thải nhiều hơn hạn ngạch đặt ra thì thể
mua thêm tín chỉ carbon trên thtrường bắt buộc hoặc một phần nhỏ từ thị trường tự
nguyện để bù trừ.
Theo ông Vũ Trung Kiên, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu cho
rằng tín chỉ carbon chính là yếu tố chiến lược để phát triển nền kinh tế nước ta trên cơ sở
số hóa và xanh hóa. Việt Nam có tiềm năng lớn để xây dựng thị trường carbon. Chúng ta
một số lợi thế trong ngành giảm và loại bỏ CO2. Việc xây dựng và vận hành thị trường
tín chỉ carbon trong nước sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát
thải carbon một cách hiệu quả. Đồng thời, thị trường tín chỉ carbon còn một cơ chế tạo
nguồn lực để thúc đẩy phát triển ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền
kinh tế trung hòa carbon.
Thị trường tín chỉ carbon sẽ giúp Việt Nam hưởng lợi tối đa từ thương mại quốc tế,
tăng khả năng thu hút vốn đầu từ các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài (FDI),
cũng như tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nhất xuất khẩu vào các thị trường khó
nh, có sự quan tâm cao tới bảo vệ môi trường như Liên minh Châu Âu hay Hoa Kỳ.
Trong vài năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều thương vụ “bán
không khí thu kinh phí”, thu về khoảng 60 triệu USD. Chương trình Khí sinh học ngành
chăn nuôi đã được triển khai tại 53 tỉnh, bán được gần 3,1 triệu tín chỉ carbon, thu về 8,1
triệu USD xây dựng 181.683 công trình khí sinh học, mang lại lợi ích cho 1 triệu người
dân ở khu vực nông thôn. Đặc biệt, năm 2023, với 2% diện tích trồng rừng vượt mức kế
hoạch, lần đầu tiên Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua
Ngân hàng Thế giới (WB) với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.250
tỷ đồng).
Đối với ngành lâm nghiệp: Với tổng diện tích 14,7 triệu ha, Việt Nam có tiềm năng
huy động một nguồn tài chính từ các dự án carbon lâm nghiệp để bảo vệ phát triển
rừng. Một số tính toán cho thấy mỗi năm rừng của Việt Nam thể hấp thụ khoảng gần
70 triệu tấn carbon. Chính phủ Việt Nam đang tham gia thị trường carbon bắt buộc, với
cam kết giảm phát thải khu vực Bắc Trung Bộ đổi lại việc cung cấp 10,3 triệu tấn
carbon và khoản chi trả 51,5 triệu USD từ WB.
Chính phủ cũng đang đàm phán với Liên minh Giảm phát thải (LEAF) dự kiến
trong tương lai sẽ huy động được một nguồn tài chính tương đương từ Liên minh này
thông qua hoạt động bảo vệ rừng ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
lOMoARcPSD| 58504431
Rừng của Việt Nam tiềm năng huy động được nguồn tài chính thông qua thị
trường carbon tự nguyện. Hiện mối quan tâm từ các nhà đầu nước ngoài trong ớc
với các dự án carbon lâm nghiệp rất lớn.
Đối với các doanh nghiệp: Thị trường carbon tuân thủ tại Việt Nam đang trong giai
đoạn xây dựng. Các doanh nghiệp của Việt Nam đã trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường
carbon tự nguyện thế giới gần 20 năm trước. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh, phát triển
kinh tế carbon thấp ớng tới nền kinh tế tuần hoàn trở thành xu thế tất yếu, việc y
dựng, vận hành và phát triển thị trường carbon trở thành công cụ ngày càng quan trọng.
Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế có độ mở lớn. Nếu chúng ta áp dụng
sớm thị trường carbon, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp phải giảm phát thải, sẽ tác
động lớn đến nền kinh tế. Mặc doanh nghiệp phải bỏ rất nhiều chi phí để chuyển đổi
công nghệ, chuyển đổi theo ớng phát triển xanh nhưng đối với c doanh nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung thì không thể chậm hơn, cần phải chuyển đổi, nếu không
sẽ tụt hậu với thế giới.
Về lợi ích mô, doanh nghiệp giảm phát thải, tham gia thị trường carbon cùng
Chính phủ để thực hiện cam kết quốc tế trong giảm phát thải. Đóng góp vào việc bảo vệ
môi trường trước tác động của biến đổi khí hậu.
Tiếp đến, xét về lợi ích cũng như hội, khi tham gia thị trường carbon, tài chính
xanh chắc chắn sẽ làm tăng thương hiệu của doanh nghiệp, qua đó sẽ giúp doanh nghiệp
có nhiều điểm cộng trong đàm phán, xuất khẩu sản phẩm.
Không chỉ vậy, thực hiện giảm phát thải cũng là cơ hội để chính doanh nghiệp thay
đổi hình sản xuất, công nghệ. Qua đó tạo ra tín chỉ để bán ra thị trường, thu về lợi
nhuận. thể dụ một doanh nghiệp điển hình trên thế giới đã tiên phong và tầm
nhìn dài Tesla (Mỹ). Năm 2022, doanh nghiệp này bán tín chỉ carbon thu về 1,78 tỷ
USD, chiếm 10% tổng lợi nhuận.
Thách thức
Sử dụng ng lượng Việt Nam chưa hiệu quả bền vững: Chương trình mục
tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2012-2015 đặt mục
tiêu tiết kiệm 5-8% tổng mức tiêu thụ năng lượng giai đoạn 2012-2015 so với nhu cầu
năng lượng dự báo trong quy hoạch phát triển điện quốc gia giai đoạn 2011-2020 với tầm
nhìn đến năm 2030 tương đương 11-17 triệu TOE trong giai đoạn 2012- 2015. Kết quả
đánh giá cho giai đoạn này cho thấy mức tiết kiệm thực tế đạt được 5,65%, ơng
đương với 10.610 KTOE – một kết quả còn khiêm tốn (MOIT & DEA, 2017).
Việc phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch chính nguồn gây ô nhiễm môi
trường phát thải khí nhà kính gây biến đổi khí hậu Việt Nam. Theo MONRE (2017),
tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam ngày càng tăng lên, từ 103,8 triệu tấn
lOMoARcPSD| 58504431
CO2e (năm 1994) lên 150,9 triệu tấn CO2e (năm 2000), 246,8 triệu tấn CO2e (năm 2010)
và ở mức 259,0 triệu tấn CO2e (năm 2013). Phát thải khí nhà kính từ ngành năng lượng
tăng nhanh nhất trong số các ngành kinh tế (tăng gấp sáu lần, từ 25,6 triệu tấn CO2e năm
1994 lên 151,4 triệu tấn CO2e năm 2013 do nhu cầu năng lượng tăng nhanh). Năng lượng
ngành tỷ trọng phát thải khí nhà kính lớn nhất Việt Nam năm 2013 (chiếm 58,5%).
Các yêu cầu về giảm thiểu ô nhiễm môi trường và chống biến đổi khí hậu từ ngành năng
lượng trong thời gian tới sẽ ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn và là thách thức lớn đối
với sự phát triển bền vững của hệ thống năng lượng ở Việt Nam.
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu a thạch: Nhiên liệu hóa thạch chiếm
78,4% tổng cung năng lượng cấp Việt Nam năm 2017. Trong các nhiên liệu hóa
thạch, than đóng vai trò quan trọng khi tỷ trọng than trong tổng cung năng lượng sơ cấp
tăng từ 15% (năm 2000) lên 35% (năm 2015) 37,8% (năm 2017) (MOIT & DEA,
2017; EREA & DEA, 2019). Các nhà máy điện tiêu thụ than nhiều nhất (chiếm 53,6%),
tiếp đến các ngành công nghiệp như xi măng, phân bón hóa chất (chiếm 40%) vào
năm 2015 (MOIT & DEA, 2017).
Tỷ lệ than sử dụng cho phát điện dự kiến sẽ tăng từ 32% vào năm 2014 lên 54% vào
năm 2030 trong khi khoảng 60% khối lượng than sử dụng cho phát điện sẽ được nhập
khẩu (Ngân hàng Thế giới Bộ Kế hoạch Đầu , 2016). Sự chuyển đổi sang năng
lượng hóa thạch là lý do chính cho sự gia tăng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam. Trong
thập kỷ qua, Việt Nam lượng phát thải khí nhà kính cao nhất trong khu vực ASEAN.
Tổng phát thải khí nkính phát thải khí nhà kính bình quân đầu người Việt Nam
đã tăng gần 3 lần trong khoảng thời gian 10 năm trong khi cường độ các bon trên GDP
tăng 48% (ERENADEA, 2019).
Năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cung năng lượng sơ cấp ở Việt
Nam: Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, năng lượng
mặt trời, gió, sinh khối và chất thải. Năm 2000, năng ợng tái tạo đóng góp 52,8% trong
tổng cung ng lượng cấp nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống 23,7% vào năm 2015
20,6% vào năm 2017. Trong cấu năng lượng tái tạo, năng lượng sinh khối đóng vai
trò quan trọng, nhưng tỷ trọng đã giảm từ 48,6% (năm 2000) xuống 16,9% (năm 2015)
và 11,1% (năm 2017) trong khi thủy điện tăng từ 4,2% (năm 2000) lên 6,8% (năm 2015)
và 9,5% (năm 2017) trong tổng cung năng lượng sơ cấp (MOIT & DEA, 2017; EREA &
DEA, 2019).
Sinh khối và thủy điện hiện đang là hai nguồn năng lượng tái tạo chính ở Việt Nam
(sinh khối chiếm 51% thủy điện chiếm 49% trong hỗn hợp năng lượng tái tạo trong
khi năng lượng mặt trời gió chiếm tỷ trọng rất nhỏ - dưới 1% trong năm 2017) (ERENA
và DEA, 2019). Nguồn năng lượng tái tạo có tiềm năng phát triển lớn trong tương lai
năng lượng gió mặt trời. Mặc dù chỉ một lượng nhỏ năng lượng mặt trời gió hoạt
lOMoARcPSD| 58504431
động trước năm 2018, nhưng đã tăng mạnh vào năm 2019 với 4,5 GW năng lượng mặt
trời và 0,45 GW năng lượng gió vào cuối tháng 6 năm 2019 (EREN & DEA, 2019).
Chính phủ Việt Nam đang trợ cấp nhiều cho nhiên liệu hóa thạch: Để đảm bảo
khả năng tiếp cận năng lượng với giá cả phải chăng cho c hộ gia đình ngành công
nghiệp, Việt Nam từ lâu đã theo đuổi chính sách trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, cụ thể
trợ giá nguyên liệu đầu vào thông qua kiểm soát giá đối với giá điện, giá than giá
các sản phẩm dầu tinh chế, đầu tư của chính phủ vào kết cấu hạ tầng năng lượng, các ưu
đãi về thuế, vay vốn đầu tư, tiếp cận tài nguyên thiên nhiên và thực thi các quy định bảo
vệ môi trường cho các nhà máy sản xuất và phân phối năng lượng, chủ yếu là các doanh
nghiệp nhà nước.
quan Năng ợng Quốc tế (IEA) ước tính trợ cấp cho nhiên liệu a thạch Việt
Nam trong giai đoạn 2007-2010 dao động từ 1,2 đến 3,6 tỷ USD (chiếm 1% đến 4%
GDP) đặc biệt trợ cấp cho ngành điện (UNDP, 2012). Trợ cấp cho nhiên liệu hóa
thạch Việt Nam dẫn đến giá năng ợng thấp làm cho việc sử dụng năng lượng
mức cao không hiệu quả, đặc biệt những ngành sử dụng nhiều năng lượng như
sản xuất thép, giấy và xi măng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
3.1. Về phía doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp ít vốn, để thực hiện mục tiêu phát triển xanh, khôngnhất
thiết phải đầu trang thiết bị hiện đại thể thông qua những hành động đơn giản
như: chấp hành tốt quy định bảo vệ môi trường, cải tiến quy trình sản xuất đểgiảm nguyên
nhiên liệu, điện ưu tiên tiêu sử dụng nguyên vật liệu đầu vào thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, cần phát triển nhân rộng các hình doanh nghiệp xanh, hỗ trợ giá
đối với các sản phẩm, dịch vụ xanh, tăng ờng tiếp thị, quảng cáo sản phẩm. Tổ chức
chương trình đào tạo về sản xuất xanh cho lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào các
hình doanh nghiệp xanh. Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng đối với các sản phẩm xanh,
nâng cao thói quen tiêu dùng thân thiện môi trường, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà
sản xuất xanh, sản phẩm xanh và người tiêu dùng xanh.
3.2. Về phía Nhà nước
Về chính sách: Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến bảo vệ môi
trường và biến đổi khí hậu như Luật Bảo vệ môi trường, các chế tín chỉ nJCM
CDM. Tuy nhiên, cần hoàn thiện khung pháp toàn diện cho phát triển thị trường
cácbon, tương tự như luật EU hoặc Hàn Quốc. Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường 2020
đã tạo nền tảng pháp lý, nhưng Việt Nam cần sớm đưa ra yêu cầu giảm phát thải cho các
lĩnh vực và áp dụng tiêu chí giảm phát thải bắt buộc khi phê duyệt các chương trình phát
triển.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58504431 �
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- -----
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHỦ ĐỀ: Lớp : LLTT1101_13 Nhóm số : 07 GVHD :
Hà Nội, tháng 10 năm 2024 lOMoAR cPSD| 58504431 MỤC LỤC MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3 DANH MỤC HÌNH 4 LỜI MỞ ĐẦU 5 NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH CACBON THẤP (LOW – CARBON BUSINESS) 5
1.1. Lý luận chung về nền kinh tế Cacbon thấp 5
1.1.1. Khái niệm về kinh tế Cacbon thấp 5
1.1.2. Xu hướng tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng Cacbon thấp 6
1.2. Lý luận về kinh doanh Cacbon thấp 7
1.2.1. Khái niệm về kinh doanh Cacbon thấp 7
1.2.2. Phạm vi phát thải khí 1,2,3 8
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG KINH DOANH CACBON THẤP TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 9
2.1. Kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 9
2.1.1. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 9
2.1.2. Một số doanh nghiệp nổi bật trong việc kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới 10
2.2. Kinh doanh Cacbon thấp tại Việt Nam 11
2.2.1 Tình hình phát triển kinh tế theo hướng kinh tế Cacbon thấp tại Việt Nam 11
2.2.2. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp tại Việt nam 14
2.2.3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam đến từ việc kinh doanh Carbon thấp 16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆT NAM 20
3.1. Về phía doanh nghiệp 20 3.2. Về phía Nhà nước 20 KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 lOMoAR cPSD| 58504431
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT lOMoAR cPSD| 58504431 DANH MỤC HÌNH Hình Tên hình Trang Hình 2.1
Diễn biến TPES giai đoạn 2010 – 2019 12 Hình 2.2
Diễn biến xuất nhập khẩu năng lượng 13 Hình 2.3
Cơ cấu khai thác năng lượng thương mại trong nước 14 Hình 2.4
Lộ trình hướng tới Net Zero của Vinamilk 16 lOMoAR cPSD| 58504431 LỜI MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21,
với sự gia tăng nồng độ khí nhà kính, đặc biệt là CO từ hoạt động sản xuất và tiêu₂ thụ
năng lượng, gây ra hiệu ứng nhà kính, dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan và ảnh
hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái, đời sống xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Để hạn chế sự
nóng lên của Trái Đất và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, các quốc gia đã cam
kết thực hiện mục tiêu giảm phát thải cacbon thông qua Thỏa thuận Paris 2015. Trong
bối cảnh đó, mô hình kinh doanh cacbon thấp (Low-carbon Business) ra đời như một giải
pháp vừa giúp các doanh nghiệp đạt tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần giảm phát thải
cacbon. Ở nhiều quốc gia, mô hình kinh doanh này đã chứng minh hiệu quả trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, tăng cường khả năng cạnh tranh và xây dựng thương
hiệu bền vững. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc áp dụng mô hình kinh doanh cacbon thấp
còn gặp khó khăn do hạn chế về công nghệ, tài chính và nhận thức của doanh nghiệp. Do
đó, nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quan về lý luận và thực tiễn của mô hình kinh
doanh cacbon thấp trên thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thúc
đẩy phát triển mô hình này tại Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về mô hình kinh doanh
cacbon thấp và thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm các trường hợp áp dụng mô hình tại một số quốc gia tiên
tiến và các doanh nghiệp trong nước. Đề tài được chia thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về kinh doanh Cacbon thấp (Low-carbon Business)
Chương II: Thực trạng kinh doanh Cacbon trên thế giới và Việt Nam
Chương III: Một số chính sách đề xuất đối với Việt Nam
Bên cạnh đó, Nhóm xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Võ Thị Hoài Thu
đã tận tâm hướng dẫn cho đề tài của nhóm được hoàn thiện. Do kiến thức và thời gian có
hạn, bài viết có thể có nhiều thiếu sót, nhóm rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét
của cô. Chúng em chân thành cảm ơn cô! NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH CACBON
THẤP (LOW – CARBON BUSINESS)
1.1. Lý luận chung về nền kinh tế Cacbon thấp
1.1.1. Khái niệm về kinh tế Cacbon thấp
Thuật ngữ kinh tế cacbon thấp lần đầu tiên được đưa ra trong Báo cáo Chính sách
Năng lượng của Bộ Thương mại và Công nghiệp Vương Quốc Anh vào năm 2003 có tên lOMoAR cPSD| 58504431
“Our Energy Future - Creating a Low Carbon Economy”, trong đó đã đề cập đến kinh tế
cacbon thấp đặt trọng tâm đặc biệt vào giảm phát thải khí nhà kính nhằm chống biến đổi khí hậu.
Theo Báo cáo Building a low-carbon economy vào năm 2011 của Regions for
Sustainable Change (RSC), kinh tế cacbon thấp là một nền kinh tế trong đó tăng trưởng
là kết quả của việc tích hợp tất cả các khía cạnh của nền kinh tế liên quan đến áp dụng
các công nghệ và thực hiện các hoạt động tạo ra lượng khí nhà kính thấp, các giải pháp
hiệu quả năng lượng và năng lượng tái tạo, đổi mới công nghệ theo hướng phát thải
cacbon thấp và hình thành các cộng đồng, tòa nhà, giao thông, công nghiệp và nông
nghiệp sử dụng năng lượng và vật liệu hiệu quả cũng như tăng cường xử lý/tái chế chất
thải để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đặc biệt là CO2. Như vậy, kinh tế cacbon thấp
là một nền kinh tế được đặc trưng bởi các hoạt động thải ra lượng CO2 thấp vào bầu khí quyển.
Theo Báo cáo Towards Green Growth: A Summary for Policy Makers của OECD
vào 2011, các mục tiêu chính của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế cacbon thấp liên
quan đến tăng cường hiệu quả năng lượng, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cũng
như thúc đẩy GDP xanh thông qua đổi mới công nghệ ở tất cả các lĩnh vực nhằm xác
định các cách thức và công nghệ tạo ra lượng khí nhà kính ít hơn trong khi không ảnh
hưởng đến tăng trưởng. Xét trên khía cạnh này, tăng trưởng xanh - là tăng trưởng kinh tế
nhưng vẫn đảm bảo duy trì các tài sản tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ môi
trường) mà phúc lợi con người dựa vào, được coi là một phương tiện để thực hiện quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế cacbon thấp và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế các-bon thấp sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển trong
tương lai như bảo vệ hệ sinh thái và môi trường thông qua chiến lược giảm khí thải trong
sản xuất kinh doanh, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, đảm bảo an ninh
năng lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong phát triển kinh tế.
1.1.2. Xu hướng tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng Cacbon thấp
Cam kết phát triển nền kinh tế xanh
Khí cacbon sau khi thải ra môi trường chỉ được thực vật và động vật hấp thụ một
phần nhỏ, còn phần lớn vẫn tồn tại trong khí quyển và gây ra hiệu ứng nhà kính. Ảnh
hưởng của dịch bệnh khiến nhiều quốc gia trên thế giới phải giãn cách xã hội, điều này
giúp cải thiện chất lượng không khí đáng kể, vì giảm lượng CO2 thải ra môi trường. Tuy
nhiên, dịch bệnh lại khiến nền kinh tế ngưng trệ và suy giảm nghiêm trọng. Nhìn chung
hướng đến phát triển nền kinh tế cacbon thấp bền vững song hành với bảo vệ môi trường
vẫn là kim chỉ nam trong tương lai mà các doanh nghiệp cần hướng đến.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu được tổ chức năm 2021 của Liên Hợp
Quốc, hơn 100 quốc gia tham gia đã cam kết thực hiện phát triển kinh tế theo hướng bền lOMoAR cPSD| 58504431
vững, để đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong đó, Liên minh châu Âu và
Mỹ đã đưa ra mục tiêu đến năm 2030 cắt giảm khoảng 50% lượng khí thải ra môi trường
so với năm 2005, Trung Quốc đặt mục tiêu năm 2030 sản xuất 25% năng lượng từ các
nguồn năng lượng sạch và nói không với điện than. Việt Nam là một trong những nước
chịu ảnh hưởng lớn nhất hiện tượng biến đổi khí hậu, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã
công bố tại Hội nghị COP26 những cam kết của Việt Nam trong việc ứng phó với tình
trạng ô nhiễm môi trường đang có xu hướng leo thang. Theo đó, Việt Nam đã cam kết
đến năm 2030 giảm 30% lượng phát thải khí, đến năm 2050 sẽ giảm phát thải hoàn toàn.
Tiêu thụ ít cacbon trong sản xuất và tiêu dùng
Phát triển nền kinh tế cacbon thấp sẽ mang lại những lợi ích như cải thiện an ninh
nguồn cung, giảm áp lực lên môi trường và tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững. Một trong những giải pháp đang được nhiều doanh nghiệp triển
khai đó là “xanh hóa" từng khâu trong quy trình sản xuất, cải tiến và thay thế thiết bị
trong quy trình sản xuất để gia tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, sử dụng công nghệ
tiên tiến nhất để giảm phát thải. Ngoài ra việc đầu tư vào các nhà máy sản xuất khí tự
nhiên và nhiên liệu sinh khối cũng là một trong những định hướng để cân bằng lượng
cacbon và giảm khí thải bằng cách trồng nhiều cây xanh và sử dụng công nghệ thu giữ
và lưu giữ CO2. Khí tự nhiên là giải pháp khá hiệu quả, đây được xem là nguồn năng
lượng sạch và an toàn. Việc sử dụng khí ga tự nhiên sẽ hạn chế phát thải cacbon ra cho
môi trường rất hiệu quả.
1.2. Lý luận về kinh doanh Cacbon thấp
1.2.1. Khái niệm về kinh doanh Cacbon thấp
Kinh doanh cacbon thấp được hiểu là doanh nghiệp thay đổi chiến lược sản xuất
kinh doanh hướng đến phát triển bền vững, bằng việc “xanh hóa” từng khâu trong quy
trình sản xuất, sử dụng năng lượng hiệu quả và tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo,
cải tiến và thay thế thiết bị, công nghệ trong quy trình sản xuất, tăng cường xử lý/tái chế
chất thải trong sản xuất để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đặc biệt là CO2. Như vậy,
kinh doanh các-bon thấp là một chiến lược của doanh nghiệp trong xu hướng tái cấu trúc
nền kinh tế theo hướng cacbon thấp trong bối cảnh biến đổi khí hậu, được đặc trưng bởi
các hoạt động thải ra lượng CO2 thấp vào bầu khí quyển.
Kinh doanh cacbon thấp đem lại sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển trong
tương lai của chính doanh nghiệp, xã hội cũng như môi trường và hệ sinh thái. Đối với
doanh nghiệp, việc cắt giảm khí nhà kính trong sản xuất, phân phối thông qua sử dụng
năng lượng hiệu quả, tiết kiệm, sử dụng năng lượng tái tạo sẽ giúp doanh nghiệp giảm
chi phí năng lượng giảm giá thành sản phẩm. Không những thế, xu hướng tiêu dùng hiện
nay trên thế giới là tiêu dùng các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường. Chính vì
vậy, việc kinh doanh các-bon thấp của doanh nghiệp giúp sản phẩm của họ được đón
nhận từ đó tăng doanh số bán hàng, tìm kiếm thị trường mới, nâng cao khả năng cạnh lOMoAR cPSD| 58504431
tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Đối với khách hàng, việc kinh doanh
các-bon thấp của doanh nghiệp giúp khách hàng đạt được mục tiêu các-bon thấp của bản
thân thông qua tiêu dùng sản phẩm. Từ đó tạo tác động lan tỏa tích cực trong xã hội. Đối
với môi trường và khí hậu, việc sản xuất phát thải thấp của doanh nghiệp sẽ giúp cải thiện
hệ sinh thái xung quanh cũng như bảo vệ hệ thống khí hậu toàn cầu.
1.2.2. Phạm vi phát thải khí 1,2,3.
Trong kinh doanh cacbon thấp, việc đánh giá và giảm thiểu tác động môi trường của
các hoạt động kinh doanh trở nên vô cùng quan trọng. Một khái niệm then chốt trong bối
cảnh này là "Phát thải khí Phạm vi 1, 2, 3".
Mọi doanh nghiệp đều chịu trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp đối với việc bức xạ
khí nhà kính như cacbon dioxide, methane, nitrous oxide. Phát thải cacbon được phân
loại thành ba nhóm chính gồm: Phạm vi 1, Phạm vi 2 và Phạm vi 3. Mỗi phạm vi có ý
nghĩa khác nhau về khả năng kiểm soát và giảm thiểu phát thải. Phương pháp phân loại
theo phạm vi giúp đo lường và xác định rõ loại khí nhà kính được sản sinh trong suốt quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả lượng phát thải trực tiếp từ doanh nghiệp
và lượng phát thải gián tiếp từ đối tác, nhà cung cấp. Bằng cách đo lường từng phạm vi,
các công ty có thể xác định điểm nóng về khí nhà kính và tìm giải pháp giảm thiểu chúng:
Phạm vi 1 (Scope 1): Phát thải trực tiếp từ nguồn. Phát thải Phạm vi 1 là lượng khí
nhà kính phát sinh trực tiếp từ các hoạt động do chính doanh nghiệp kiểm soát. Ví dụ,
nếu doanh nghiệp sở hữu hoặc kiểm soát các nguồn phát thải như phương tiện công ty
hoặc quy trình công nghiệp, thì phát thải từ các nguồn này sẽ thuộc về phạm vi 1. Bởi vì
chúng nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp, nên phát thải Phạm vi 1 thường
được sử dụng làm điểm khởi đầu cho bất cứ chiến lược giảm thiểu phát thải nào.
Phạm vi 2 (Scope 2): Phát thải gián tiếp từ sử dụng điện và nhiệt. Phát thải Phạm vi
2 là lượng khí nhà kính phát sinh từ quá trình sản xuất điện,nhiệt và các dạng năng lượng
khác mà doanh nghiệp đã mua về sử dụng. Mặc dù lượng phát thải này không nằm trực
tiếp dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp, song vẫn có thể giảm thiểu chúng bằng cách áp
dụng các nguồn năng lượng tái tạo hoặc đề xướng các giải pháp nâng cao hiệu quả năng lượng.
Phạm vi 3 (Scope 3): Phát thải từ chuỗi cung ứng và sản phẩm. Cuối cùng, phát thải
Phạm vi 3 bao gồm tất cả các lượng khí nhà kính gián tiếp khác phát sinh trong chuỗi giá
trị của doanh nghiệp, nhưng không nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp hay sở hữu của doanh
nghiệp. Điển hình như phát thải từ hoạt động vận chuyển hàng hóa, đi lại làm việc, sử
dụng sản phẩm... quản lý phát thải. Phạm vi 3 thường là quá trình phức tạp nhất, song
cũng mang lại nhiều cơ hội giảm thiểu đáng kể nhất.
Việc hiểu biết về Phạm vi phát thải là yếu tố tiên quyết trong xây dựng chiến lược
giảm thiểu tác động môi trường và hướng đến phát triển bền vững của doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 58504431
Phân chia theo ba Phạm vi 1, 2, 3 giúp doanh nghiệp có cái nhìn toàn diện về nguồn gốc
và mức độ kiểm soát các loại phát thải. Đặc biệt, việc xác định rõ Phạm vi 1 - phát thải
trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo cơ sở đề ứng dụng các giải pháp công
nghệ tiên tiến nhằm giảm phát thải tại nguồn. Đồng thời, việc theo dõi Phạm vi 2 và 3
giúp quản lý chuỗi cung ứng và hợp tác đối tác trong suốt vòng đời sản phẩm, mở rộng
phạm vi giảm thiểu tác động môi trường. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể xây dựng chiến
lược phát thải cacbon thấp được cụ thể hóa thông qua các giải pháp can thiệp phù hợp tại
từng Phạm vi, góp phần kiểm soát biến đổi khí hậu.
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG KINH DOANH CACBON
THẤP TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1. Kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới
2.1.1. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới

Kinh doanh Cacbon thấp đang là xu hướng phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu do nhu
cầu giảm lượng phát thải khí nhà kính, góp phần chống biến đổi khí hậu. Điều này góp
phần chuyển đổi nền kinh tế thế giới dần sang nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường
cũng như bền vững hơn trong tương lai.
Thế giới đang dần chú trọng hơn vào việc kinh doanh cacbon thấp. Cụ thể, trong
năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 21 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) tại Paris, hiệp định quốc tế về biến đổi khí hậu đã
được kí kết (Hiệp định Paris 2015). Hiệp định này quy định các quốc gia cam kết iữ nhiệt
độ toàn cầu không tăng quá 2 độ C và cố gắng duy trì ở mức dưới 1,5 độ C so với thời
kỳ tiền công nghiệp. Qua đó, nhiều chính phủ đã bắt đầu đưa ra các kế hoạch cụ thể nhằm
giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường các giải pháp năng lượng tái tạo. Ngoài ra,
nhiều quốc gia và khu vực đã bắt đầu có các mục tiêu không phát thải ròng (net-zero),
trong đó 1 số quốc gia hay khu vực như EU, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc,… đã cam kết
đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 – 2060.
Đối với quá trình phát triển năng lượng tái tạo thay thế cho Cacbon, các quốc gia và
doanh nghiệp đã dần chuyển sang các loại năng lượng tái sử dụng cũng như thân thiện
với môi trường hơn như điện mặt trời, gió,… Gần đây, việc sử dụng năng lượng tái tạo
thay thế cho cacbon đang có những chuyển biến tích cực hơn. Điều này xảy ra 1 phần
nhờ có một hệ thống công nghệ phát triển và quy mô sản xuất lớn, làm giảm đáng kể chi
phí sản xuất các nguồn năng lượng xanh như điện mặt trời hay điện gió. Ngoài ra, các
khoản đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo đang trở nên phổ biến rộng rãi hơn, như
trong năm 2022, ước tính trên thế giới đã có khoảng 500 tỷ USD vào lĩnh vực này.
Sự phát triển của công nghệ cũng góp phần cải tiến việc kinh doanh cacbon thấp.
Qua đó, một vài sáng kiến đã ra đời có thể kể đến: lOMoAR cPSD| 58504431
Hydro xanh: là loại hydro được sản xuất bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng tái
tạo, như điện từ năng lượng mặt trời, gió hoặc thủy điện, để tách nước thành hydro và
oxy thông qua quá trình điện phân. Điều này khác biệt với các phương pháp sản xuất
hydro truyền thống, vốn thường dựa vào nhiên liệu hóa thạch và tạo ra lượng lớn khí CO2.
Carbon Capture and Storage (CCS): Đây là một công nghệ quan trọng giúp thu giữ và
lưu trữ khí CO2 từ các nhà máy điện và công nghiệp để tránh chúng thải vào khí quyển.
Dẫu có các biến chuyển như vậy, tuy nhiên nền kinh doanh cacbon thấp trên thế giới
vẫn còn tồn tại nhiều thách thức. Đó là các rào cản về công nghệ, chi phí chuyển đổi hay
sự chấp nhận của thị trường. Ngoài ra còn là sự bất ổn trong chính sách tại một số quốc
gia cũng như không phải quốc gia nào cũng đều chấp nhận cam kết để thực hiện quá trình chuyển đổi này.
Trong tương lai, việc kinh doanh cacbon thấp sẽ trở nên rất hứa hẹn. Với sự kết hợp
giữa công nghệ không ngừng phát triển cùng các chính sách hỗ trợ, các hiệp định hay các
cam kết trong tương lai, kinh doanh cacbon thấp sẽ dần trở thành một phần không thể
thiếu trong nền kinh tế toàn cầu bởi việc chuyển đổi sang mô hình này không chỉ giúp
bảo vệ môi trường mà còn mang theo nhiều cơ hội kinh doanh khác.
2.1.2. Một số doanh nghiệp nổi bật trong việc kinh doanh Cacbon thấp trên thế giới
Đầu tiên phải nói đến chính là Tesla (Mỹ). Tesla là một trong những công ty tiên
phong trong việc sản xuất xe điện, giảm thiểu sự phụ thuộc vào xăng dầu và giảm phát
thải CO2 từ phương tiện giao thông. Ngoài ra, Tesla còn sản xuất pin lưu trữ năng lượng
tái tạo và hệ thống pin cho gia đình (Tesla Powerwall), giúp tăng khả năng sử dụng năng
lượng xanh từ nguồn mặt trời và gió. Nhờ sự phổ biến của xe điện Tesla, lượng phát thải
từ giao thông đã giảm đáng kể ở những khu vực mà xe điện trở nên phổ biến. Tesla cũng
là một tấm gương cho chính ngành xe điện tại Việt Nam. Không khó để bắt gặp một chiếc
xe điện Vinfast tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hay các khu vực khác tại Việt Nam.
Đến với Đan Mạch, một quốc gia tại khu vực Bắc Âu thuộc bán đảo Scandinavia,
tại đây chúng ta có Ørsted - một công ty năng lượng lớn. Công ty này đã chuyển đổi từ
một công ty năng lượng sử dụng than đá sang một công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh
vực điện gió ngoài khơi. Ørsted đã thực hiện một kế hoạch loại bỏ hoàn toàn nhiên liệu
hóa thạch trong sản xuất năng lượng và trở thành một công ty sử dụng 100% năng lượng
tái tạo. Nhờ đó, Từ năm 2006 đến 2020, Ørsted đã giảm 86% lượng phát thải CO2 và dự
kiến sẽ đạt mục tiêu không phát thải vào năm 2025.
Cũng tại Bắc Âu, ta đến với Thụy Điển, tại đây có IKEA – một công ty bán lẻ nội
thất lớn tại nước này. IKEA đã cam kết giảm lượng phát thải carbon trong toàn bộ chuỗi
cung ứng của mình. Công ty tập trung vào sử dụng năng lượng tái tạo, tối ưu hóa quy lOMoAR cPSD| 58504431
trình sản xuất và vận chuyển, và phát triển các sản phẩm từ nguồn tài nguyên bền vững
như gỗ và cotton tái chế. Cuối cùng, IKEA đặt mục tiêu trở thành "công ty cacbon trung
tính" (carbon-neutral) vào năm 2030, với việc sử dụng năng lượng tái tạo cho tất cả các
cửa hàng và nhà máy sản xuất, đồng thời khuyến khích khách hàng sử dụng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
Đến với châu Mỹ, chúng ta có Google, một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực
công nghệ. Năm 2017, Google đã cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo cho các trung
tâm dữ liệu và văn phòng của mình, họ cũng đang phát triển các công nghệ trí tuệ nhân
tạo (AI) để giúp quản lý năng lượng hiệu quả hơn và giảm lượng điện năng tiêu thụ.
Ngoài ra, Google đặt mục tiêu trở thành công ty không phát thải vào năm 2030, với các
sáng kiến như chuyển toàn bộ hệ thống máy chủ sang năng lượng tái tạo và bù đắp phát
thải từ các hoạt động trước đây.
Tại châu Á, chúng ta có Toyota – công ty hàng đầu trong sản xuất ô tô tại Nhật Bản.
Toyota là một trong những hãng xe tiên phong trong phát triển và sản xuất xe hybrid với
dòng xe Prius nổi tiếng, giúp giảm phát thải từ giao thông. Hãng cũng đang đẩy mạnh
việc phát triển và sản xuất xe điện và xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro. Tính đến năm
2020, Toyota đã bán hơn 15 triệu xe hybrid, giúp giảm đáng kể lượng CO2 phát thải từ
phương tiện giao thông trên toàn cầu.
2.2. Kinh doanh Cacbon thấp tại Việt Nam
2.2.1 Tình hình phát triển kinh tế theo hướng kinh tế Cacbon thấp tại Việt Nam
Cung năng lượng sơ cấp
Nền kinh tế - năng lượng Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng trong vài thập kỷ qua
với việc chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp dựa trên các loại nhiên liệu sinh
khối truyền thống sang một nền kinh tế sử dụng năng lượng hỗn hợp và hiện đại. Năm
2019, tổng cung cấp năng lượng sơ cấp (TPES) của Việt Nam là 89.792 KTOE, tăng
11,0% so với năm 2018. Trong khi đó, cả giai đoạn 2011-2019, tỷ lệ tăng trưởng chỉ là
6,1%/năm. Động lực chính cho tăng trưởng TPES, trước tiên do phía nhu cầu, phần quan
trọng còn lại là cơ cấu chuyển hóa năng lượng, chủ yếu là ngành điện. Trong trường hợp
của Việt Nam, sự gia tăng mạnh mẽ cung năng lượng sơ cấp trong vài năm gần đây có
vai trò lớn nhất của nhiệt điện than. lOMoAR cPSD| 58504431
Hình 2.1 Diễn biến TPES giai đoạn 2010 – 2019
Nhìn vào tăng trưởng của từng nhóm sản phẩm năng lượng trong TPES, có thể thấy
than có tốc độ tăng trưởng gần gấp đôi, 13,2%/năm trong giai đoạn 2011-2019, kế tiếp là
năng lượng tái tạo 1) 10,5%/năm. Năng lượng sinh khối phi thương mại 2) và chênh lệch
xuất khẩu điện có mức tăng trưởng âm, tương ứng -31,4%/năm và -13,3%/năm. Sự sụt
giảm của năng lượng sinh khối phi thương mại là hoàn toàn phù hợp với xu thế hiện nay.
Đây là một loại nhiên liệu thường được sử dụng trong đun nấu dân dụng, là một loại
nhiên liệu từng khá phổ biến ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa. Càng về sau này
do quá trình đô thị hóa và mức sống ngày càng cao đã làm tăng khả năng tiếp cận với các
dạng nhiên liệu thương mại thuận tiện và an toàn hơn. Vì vậy biomass sử dụng trong dân
dụng ngày càng giảm. Mặc dù vậy, các ứng dụng biomass trong sản xuất công nghiệp lại
có xu hướng gia tăng, ví dụ như lò hơi đốt trấu, sản xuất điện đồng phát… Vì vậy lượng
biomass này không được coi là năng lượng sinh khối phi thương mại.
Xuất nhập khẩu năng lượng
Xuất khẩu năng lượng được thực hiện với mục tiêu tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân
sách nhà nước. Trong khi đó nhập khẩu năng lượng là để đáp ứng thiếu hụt nguồn cung
do sự thiếu hụt các nguồn sản xuất hoặc chuyển đổi năng lượng trong nước. lOMoAR cPSD| 58504431
Hình 2.2 Diễn biến xuất nhập khẩu năng lượng
Dễ dàng nhận thấy xu hướng giảm dần của xuất khẩu năng lượng trong những năm
vừa qua, trong khi nhập khẩu năng lượng tăng dần. Sản lượng xuất khẩu của năm 2019
chỉ còn 8.834 KTOE, giảm 2,4 lần so với năm 2010. Trong khi đó lượng năng lượng nhập
khẩu, sau một vài năm giảm sút do nhu cầu trong nước giảm, đã tăng mạnh trở lại kể từ
năm 2015. Và đây cũng là năm đầu tiên Việt Nam chính thức trở thành một quốc gia nhập
khẩu tịnh năng lượng. Xét về lượng, năm 2019, năng lượng nhập khẩu là 44.342 KTOE,
tăng 39,6% so với năm 2018. Tính trong cả giai đoạn 2011-2019, tăng trưởng năng lượng
nhập khẩu ở mức 15,5%/năm. Đáng chú ý kể từ năm 2018, Việt Nam bắt đầu nhập một
lượng dầu thô đáng kể nhằm cấp nguyên liệu cho nhà máy lọc dầu Nghi Sơn. Biểu đồ ở
trên cho thấy sự thay đổi về chênh lệch xuất nhập khẩu từng loại năng lượng trong giai
đoạn 2011-2019. Sự chuyển biến mạnh mẽ đến từ than và dầu thô, vốn trước đây được
coi là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù vậy có sự khác biệt giữa hai loại năng
lượng này. Tịnh nhập khẩu than đạt âm trước 2015, nhưng sau đó đạt giá trị dương và
luôn tăng mạnh về mặt giá trị cho thấy sự phụ thuộc ngày càng cao vào than nhập khẩu.
Trong khi đó, tịch nhập khẩu dầu thô tuy đạt giá trị dương từ 2018 nhưng cũng từ năm
này tịnh nhập khẩu các sản phẩm dầu lại giảm cho thấy sự tráo đổi khi Việt Nam có thêm
nhà máy lọc dầu Nghi Sơn. Về tổng thể, tịnh nhập khẩu năng lượng chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong TPES, từ 6,0% năm 2015 tăng lên 39,5% năm 2019.
Tiêu thụ năng lượng
Trong giai đoạn 2010-2019, tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng tăng trưởng
4,3%/năm đạt mức 61.853 KTOE vào năm 2019. Mặc dù vậy trong hai năm liên tiếp
2018 và 2019 tốc độ tăng trưởng so với năm trước đó lại khá cao, 11,86% ở năm 2018 và
6,7% ở năm 2019. Điều này khiến cho chỉ số tiêu thụ năng lượng trên GDP tăng cao trở
lại, bắt đầu là 364 kgOE/1000 USD vào năm 2010, giảm dần xuống 295,7 kgOE/1000 lOMoAR cPSD| 58504431
USD vào năm 2017 nhưng sau đó lại tăng lên 308,9 kgOE/1000 USD và 307,9
kgOE/1000 USD tương ứng ở 2018 và 2019.
Hình 2.3 Cơ cấu khai thác năng lượng thương mại trong nước
Về cơ cấu, rõ nét nhất là tỷ lệ tiêu thụ điện trên Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng
(TFEC) tăng liên tục thể hiện sự chuyển đổi từ các dạng nhiên liệu khác sang điện. Năm
2010, tỷ lệ này đạt 17,2% thì tới năm 2015 tăng lên 23,2%, và 29,1% vào năm 2019. Mặc
dù than có tốc độ nguồn cung sơ cấp cao, nhưng tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ TFEC
chỉ đạt 5,2%/năm. Cơ cấu của than trong TFEC cũng không có nhiều biến động, xấp xỉ
ở mức 23-25%. Năng lượng tái tạo có tốc độ tăng trưởng đáng ghi nhận, 6,6%/năm. Đóng
góp trong cơ cấu TFEC cũng tăng từ 7,1% năm 2010 lên 8,6% năm 2019. Các sản phẩm
dầu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong TFEC và cũng không có biến động lớn, ngoại trừ việc
tăng lên 38,0% vào năm 2018 nhưng sau đó lại giảm xuống còn 34,4% vào năm 2019.
Sự thay đổi lớn nằm ở năng lượng phi thương mại. Với cách thức thống kê mới thì năng
lượng phi thương mại giảm 29%/năm trong giai đoạn 2011-2019. Điều này khiến cho cơ
cấu của năng lượng phi thương mại trong TFEC chỉ còn 0,5% vào năm 2019. Đây cũng
là một trong những lý do khiến cho cơ cấu tiêu thụ theo ngành có sự thay đổi lớn. Năm
2010, Khu vực dân dụng chiếm tỷ trọng 27%, trong khi Công nghiệp chỉ chiếm 39,4%.
Đến năm 2019, công nghiệp vẫn là hộ tiêu thụ lớn nhất, nhưng tỷ trọng đã chiếm 51,3%,
trong khi Dân dụng chỉ còn 12%. Đứng thứ 2 là Giao thông vận tải, chiếm 23,0% cơ cấu TFEC.
2.2.2. Thực trạng kinh doanh Cacbon thấp tại Việt nam
Việt Nam có khoảng 920.000 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa
chiếm hơn 98%. Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa đều thiếu vốn cho đầu tư phát triển
sản phẩm. Chính vì thế họ thường chọn lựa các phương án tập trung vào các yếutố đầu
vào có chi phí thấp. Như sử dụng các công nghệ lạc hậu, sử dụng các dây chuyền sản
xuất cũ từ nước ngoài,… Bên cạnh đó, để có thể được chuyển giao công nghệ tiên tiến,
hiện đại các doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí lớn để đầu tư vào yếu tố con người. Chính
vì thế các doanh nghiệp chưa mạnh dạn làm sản phẩm xanh, bền vững mà mới chỉ quan lOMoAR cPSD| 58504431
tâm đến mục tiêu lợi nhuận, tìm kiếm và mở rộng thị trường, bảo hộ thương hiệu,… Trách
nhiệm đối với môi trường của doanh nghiệp còn hạn chế.
Trong bối cảnh môi trường kinh doanh tại Việt Nam đang đối diện với nhiềuthách
thức về ô nhiễm môi trường và sự thiếu sót trong quản lý tài nguyên, việc cácdoanh
nghiệp chuyển sang mô hình kinh doanh các bon thấp là cần thiết. Hiện nay, tạiViệt Nam
đã có hơn 1.200 công ty đưa ra mục tiêu dựa trên nền tảng khoa học phùhợp với cam kết
thực hiện hành động nghiêm ngặt tới năm 2030. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều tập
đoàn lớn đang hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế không có carbon và cam kết
thu được năng lượng 100% có nguồn gốc tái tạo. Trong số các doanh nghiệp này,
Vinamilk và Vinfast là những cái tên nổi bật, đem lại không chỉ những sản phẩm chất
lượng mà còn cam kết và hành động trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Vinamilk
Vinamilk là doanh nghiệp ngành sữa hàng đầu tại Việt Nam, với hệ thống nhà máy,
trang trại quy mô công nghệ cao và hàng triệu sản phẩm được cung cấp mỗi ngày. Tại
Việt Nam, Vinamilk là doanh nghiệp đã và đang có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát
triển bền vững hơn của ngành sữa, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hướng tới Net
Zero 2050. Đồng hành cùng cam kết quốc gia, hội nhập để đối chuẩn quốc tế, Vinamilk
là doanh nghiệp sữa đầu tiên của Việt Nam tham gia vào Sáng kiến toàn cầu của ngành
sữa về Net Zero - Pathways to Dairy Net Zero, một sáng kiến được sáng lập bởi Liên
đoàn sữa thế giới (IDF), Khung phát triển bền vững ngành sữa (DSF), Global Dairy
Platform… Chương trình này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, khẳng định hành
động mạnh mẽ và quyết tâm của Vinamilk trong nỗ lực bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Năm 2023, Vinamilk là doanh nghiệp sản xuất sữa đầu tiên của Việt Nam nhận
chứng chỉ trung hòa carbon cho cả nhà máy và trang trại theo tiêu chuẩn quốc tế PAS 2060:2014.
Tổng lượng phát thải khí nhà kính của 2 đơn vị này đã được trung hòa là 17.560 tấn
CO2 (tương đương với khoảng 1,7 triệu cây xanh). Điều này là kết quả của “hành động
kép”, nỗ lực cắt giảm phát thải trong sản xuất, chăn nuôi của Vinamilk, đồng thời duy trì
quỹ cây xanh của Công ty để hấp thụ khí nhà kính trong nhiều năm qua. lOMoAR cPSD| 58504431
Hình 2.4 Lộ trình hướng tới Net Zero của Vinamilk
Việc cắt giảm phát thải, khí nhà kính và tiến tới Net Zero trong ngành sữa là rất
thách thức, đặc biệt với các trang trại bò sữa có quy mô lớn. Mục tiêu này đòi hỏi việc
đầu tư cho các giải pháp công nghệ, chuyển đổi năng lượng xanh, vận dụng kinh tế tuần
hoàn… một cách toàn diện. Có thể nói, các kết quả của Vinamilk đạt được là rất đáng ghi
nhận và có giá trị khích lệ rất lớn cho tiến trình Net Zero của ngành sữa. Các đơn vị đã
bắt đầu từ việc thực hiện kiểm kê khí nhà kính chính xác, kĩ lượng từ sớm, từ đó xây
dựng các lộ trình giảm phát thải. Với sự cam kết mạnh mẽ của Vinamilk với mục tiêu Net
Zero 2050, sẽ sớm có thêm nhiều đơn vị của Vinamilk đạt được mục tiêu trung hòa carbon trong tương lai gần. Vinfast
Một doanh nghiệp khác tại Việt Nam cũng đã đón đầu xu hướng kinh doanh cácbon
thấp là Vinfast. VinFast công bố tham gia Cam kết Khí hậu toàn cầu (TCP), hướng đến
mức phát thải carbon bằng 0 vào 2040, từ ngày 21/9/2022. Tham gia cam kết này, VinFast
và các doanh nghiệp sẽ đặt mục tiêu đạt mức phát thải bằng 0 sớm hơn 10 năm so với
Thoả thuận chung Paris (thoả thuận tại Hội nghị về Biến đổi khí hậu Liên Hợp Quốc 2015).
Theo đó, hãng xe Việt sẽ thực hiện các đo lường và báo cáo phát thải carbon định
kỳ, triển khai các chiến lược giảm phát thải theo thỏa thuận Paris, thông qua cải tiến, đổi
mới trong sản xuất và kinh doanh. Các hoạt động này bao gồm cải thiện hiệu quả sản
xuất, sử dụng năng lượng tái tạo, giảm thải nguyên vật liệu, trung hòa các phát thải dư
còn lại... hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải carbon hàng năm bằng 0 vào năm 2040.
Vinfast cũng là thành viên Việt Nam đầu tiên của TCP. Đầu năm 2022, VinFast đã công
bố chiến lược thuần điện, tập trung phát triển dải sản phẩm xe điện thông minh và thân
thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng và thúc đẩy cuộc cách
mạng xe điện toàn cầu.
Trong hoạt động sản xuất, hãng đã xây dựng các quy trình tối ưu nhằm giảm phát
thải, tái sử dụng cũng như tiết kiệm nước và năng lượng. Các tiêu chuẩn bền vững cũng
là yêu cầu và tiêu chí đánh giá của VinFast dành cho các đối tác, nhà cung cấp. VinFast
cũng làm việc với các viện nghiên cứu và trường đại học hàng đầu về các giải pháp mới,
nhằm đạt được mục tiêu không phát thải carbon. Chính sách cho thuê pin cũng giúp
VinFast chủ động thu hồi pin cũ, pin hết hạn sử dụng để xử lý theo đúng quy định, đảm
bảo an toàn cho môi trường.
2.2.3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam đến từ việc kinh doanh Carbon thấp Cơ hội
Đối với thị trường tín chỉ Carbon: Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch
thương mại và thể hiện quyền phát thải một lượng khí CO2 hoặc một lượng khí nhà kính lOMoAR cPSD| 58504431
khác quy đổi sang CO2 tương đương. Một tín chỉ tương đương với 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn
CO2 quy đổi tương đương.
Việt Nam hiện xây dựng thị trường tín chỉ carbon, dự kiến thí điểm từ năm 2025,
hoàn thiện khung pháp lý vào năm 2027 và vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm
2028. Và đây là thị trường mang yếu tố bắt buộc. Điều này nghĩa là các doanh nghiệp sẽ
bị kiểm soát việc phát thải khí nhà kính, nếu xả thải nhiều hơn hạn ngạch đặt ra thì có thể
mua thêm tín chỉ carbon trên thị trường bắt buộc hoặc một phần nhỏ từ thị trường tự nguyện để bù trừ.
Theo ông Vũ Trung Kiên, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu cho
rằng tín chỉ carbon chính là yếu tố chiến lược để phát triển nền kinh tế nước ta trên cơ sở
số hóa và xanh hóa. Việt Nam có tiềm năng lớn để xây dựng thị trường carbon. Chúng ta
có một số lợi thế trong ngành giảm và loại bỏ CO2. Việc xây dựng và vận hành thị trường
tín chỉ carbon trong nước sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát
thải carbon một cách hiệu quả. Đồng thời, thị trường tín chỉ carbon còn là một cơ chế tạo
nguồn lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon.
Thị trường tín chỉ carbon sẽ giúp Việt Nam hưởng lợi tối đa từ thương mại quốc tế,
tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI),
cũng như tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu vào các thị trường khó
tính, có sự quan tâm cao tới bảo vệ môi trường như Liên minh Châu Âu hay Hoa Kỳ.
Trong vài năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều thương vụ “bán
không khí thu kinh phí”, thu về khoảng 60 triệu USD. Chương trình Khí sinh học ngành
chăn nuôi đã được triển khai tại 53 tỉnh, bán được gần 3,1 triệu tín chỉ carbon, thu về 8,1
triệu USD và xây dựng 181.683 công trình khí sinh học, mang lại lợi ích cho 1 triệu người
dân ở khu vực nông thôn. Đặc biệt, năm 2023, với 2% diện tích trồng rừng vượt mức kế
hoạch, lần đầu tiên Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua
Ngân hàng Thế giới (WB) với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng).
Đối với ngành lâm nghiệp: Với tổng diện tích 14,7 triệu ha, Việt Nam có tiềm năng
huy động một nguồn tài chính từ các dự án carbon lâm nghiệp để bảo vệ và phát triển
rừng. Một số tính toán cho thấy mỗi năm rừng của Việt Nam có thể hấp thụ khoảng gần
70 triệu tấn carbon. Chính phủ Việt Nam đang tham gia thị trường carbon bắt buộc, với
cam kết giảm phát thải khu vực Bắc Trung Bộ đổi lại là việc cung cấp 10,3 triệu tấn
carbon và khoản chi trả 51,5 triệu USD từ WB.
Chính phủ cũng đang đàm phán với Liên minh Giảm phát thải (LEAF) và dự kiến
trong tương lai sẽ huy động được một nguồn tài chính tương đương từ Liên minh này
thông qua hoạt động bảo vệ rừng ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. lOMoAR cPSD| 58504431
Rừng của Việt Nam có tiềm năng huy động được nguồn tài chính thông qua thị
trường carbon tự nguyện. Hiện mối quan tâm từ các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước
với các dự án carbon lâm nghiệp rất lớn.
Đối với các doanh nghiệp: Thị trường carbon tuân thủ tại Việt Nam đang trong giai
đoạn xây dựng. Các doanh nghiệp của Việt Nam đã trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường
carbon tự nguyện thế giới gần 20 năm trước. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh, phát triển
kinh tế carbon thấp hướng tới nền kinh tế tuần hoàn trở thành xu thế tất yếu, việc xây
dựng, vận hành và phát triển thị trường carbon trở thành công cụ ngày càng quan trọng.
Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế có độ mở lớn. Nếu chúng ta áp dụng
sớm thị trường carbon, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp phải giảm phát thải, sẽ tác
động lớn đến nền kinh tế. Mặc dù doanh nghiệp phải bỏ rất nhiều chi phí để chuyển đổi
công nghệ, chuyển đổi theo hướng phát triển xanh nhưng đối với các doanh nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung thì không thể chậm hơn, cần phải chuyển đổi, nếu không
sẽ tụt hậu với thế giới.
Về lợi ích vĩ mô, doanh nghiệp giảm phát thải, tham gia thị trường carbon là cùng
Chính phủ để thực hiện cam kết quốc tế trong giảm phát thải. Đóng góp vào việc bảo vệ
môi trường trước tác động của biến đổi khí hậu.
Tiếp đến, xét về lợi ích cũng như cơ hội, khi tham gia thị trường carbon, tài chính
xanh chắc chắn sẽ làm tăng thương hiệu của doanh nghiệp, qua đó sẽ giúp doanh nghiệp
có nhiều điểm cộng trong đàm phán, xuất khẩu sản phẩm.
Không chỉ vậy, thực hiện giảm phát thải cũng là cơ hội để chính doanh nghiệp thay
đổi mô hình sản xuất, công nghệ. Qua đó tạo ra tín chỉ để bán ra thị trường, thu về lợi
nhuận. Có thể ví dụ một doanh nghiệp điển hình trên thế giới đã tiên phong và có tầm
nhìn dài là Tesla (Mỹ). Năm 2022, doanh nghiệp này bán tín chỉ carbon thu về 1,78 tỷ
USD, chiếm 10% tổng lợi nhuận. Thách thức
Sử dụng năng lượng ở Việt Nam chưa hiệu quả và bền vững: Chương trình mục
tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2012-2015 đặt mục
tiêu tiết kiệm 5-8% tổng mức tiêu thụ năng lượng giai đoạn 2012-2015 so với nhu cầu
năng lượng dự báo trong quy hoạch phát triển điện quốc gia giai đoạn 2011-2020 với tầm
nhìn đến năm 2030 tương đương 11-17 triệu TOE trong giai đoạn 2012- 2015. Kết quả
đánh giá cho giai đoạn này cho thấy mức tiết kiệm thực tế đạt được là 5,65%, tương
đương với 10.610 KTOE – một kết quả còn khiêm tốn (MOIT & DEA, 2017).
Việc phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch chính là nguồn gây ô nhiễm môi
trường và phát thải khí nhà kính gây biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Theo MONRE (2017),
tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam ngày càng tăng lên, từ 103,8 triệu tấn lOMoAR cPSD| 58504431
CO2e (năm 1994) lên 150,9 triệu tấn CO2e (năm 2000), 246,8 triệu tấn CO2e (năm 2010)
và ở mức 259,0 triệu tấn CO2e (năm 2013). Phát thải khí nhà kính từ ngành năng lượng
tăng nhanh nhất trong số các ngành kinh tế (tăng gấp sáu lần, từ 25,6 triệu tấn CO2e năm
1994 lên 151,4 triệu tấn CO2e năm 2013 do nhu cầu năng lượng tăng nhanh). Năng lượng
là ngành có tỷ trọng phát thải khí nhà kính lớn nhất ở Việt Nam năm 2013 (chiếm 58,5%).
Các yêu cầu về giảm thiểu ô nhiễm môi trường và chống biến đổi khí hậu từ ngành năng
lượng trong thời gian tới sẽ ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn và là thách thức lớn đối
với sự phát triển bền vững của hệ thống năng lượng ở Việt Nam.
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch: Nhiên liệu hóa thạch chiếm
78,4% tổng cung năng lượng sơ cấp ở Việt Nam năm 2017. Trong các nhiên liệu hóa
thạch, than đóng vai trò quan trọng khi tỷ trọng than trong tổng cung năng lượng sơ cấp
tăng từ 15% (năm 2000) lên 35% (năm 2015) và 37,8% (năm 2017) (MOIT & DEA,
2017; EREA & DEA, 2019). Các nhà máy điện tiêu thụ than nhiều nhất (chiếm 53,6%),
tiếp đến là các ngành công nghiệp như xi măng, phân bón và hóa chất (chiếm 40%) vào
năm 2015 (MOIT & DEA, 2017).
Tỷ lệ than sử dụng cho phát điện dự kiến sẽ tăng từ 32% vào năm 2014 lên 54% vào
năm 2030 trong khi khoảng 60% khối lượng than sử dụng cho phát điện sẽ được nhập
khẩu (Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2016). Sự chuyển đổi sang năng
lượng hóa thạch là lý do chính cho sự gia tăng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam. Trong
thập kỷ qua, Việt Nam có lượng phát thải khí nhà kính cao nhất trong khu vực ASEAN.
Tổng phát thải khí nhà kính và phát thải khí nhà kính bình quân đầu người ở Việt Nam
đã tăng gần 3 lần trong khoảng thời gian 10 năm trong khi cường độ các bon trên GDP
tăng 48% (ERENA và DEA, 2019).
Năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cung năng lượng sơ cấp ở Việt
Nam: Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, năng lượng
mặt trời, gió, sinh khối và chất thải. Năm 2000, năng lượng tái tạo đóng góp 52,8% trong
tổng cung năng lượng sơ cấp nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống 23,7% vào năm 2015 và
20,6% vào năm 2017. Trong cơ cấu năng lượng tái tạo, năng lượng sinh khối đóng vai
trò quan trọng, nhưng tỷ trọng đã giảm từ 48,6% (năm 2000) xuống 16,9% (năm 2015)
và 11,1% (năm 2017) trong khi thủy điện tăng từ 4,2% (năm 2000) lên 6,8% (năm 2015)
và 9,5% (năm 2017) trong tổng cung năng lượng sơ cấp (MOIT & DEA, 2017; EREA & DEA, 2019).
Sinh khối và thủy điện hiện đang là hai nguồn năng lượng tái tạo chính ở Việt Nam
(sinh khối chiếm 51% và thủy điện chiếm 49% trong hỗn hợp năng lượng tái tạo trong
khi năng lượng mặt trời và gió chiếm tỷ trọng rất nhỏ - dưới 1% trong năm 2017) (ERENA
và DEA, 2019). Nguồn năng lượng tái tạo có tiềm năng phát triển lớn trong tương lai là
năng lượng gió và mặt trời. Mặc dù chỉ có một lượng nhỏ năng lượng mặt trời và gió hoạt lOMoAR cPSD| 58504431
động trước năm 2018, nhưng đã tăng mạnh vào năm 2019 với 4,5 GW năng lượng mặt
trời và 0,45 GW năng lượng gió vào cuối tháng 6 năm 2019 (EREN & DEA, 2019).
Chính phủ Việt Nam đang trợ cấp nhiều cho nhiên liệu hóa thạch: Để đảm bảo
khả năng tiếp cận năng lượng với giá cả phải chăng cho các hộ gia đình và ngành công
nghiệp, Việt Nam từ lâu đã theo đuổi chính sách trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, cụ thể
là trợ giá nguyên liệu đầu vào thông qua kiểm soát giá đối với giá điện, giá than và giá
các sản phẩm dầu tinh chế, đầu tư của chính phủ vào kết cấu hạ tầng năng lượng, các ưu
đãi về thuế, vay vốn đầu tư, tiếp cận tài nguyên thiên nhiên và thực thi các quy định bảo
vệ môi trường cho các nhà máy sản xuất và phân phối năng lượng, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch ở Việt
Nam trong giai đoạn 2007-2010 dao động từ 1,2 đến 3,6 tỷ USD (chiếm 1% đến 4%
GDP) và đặc biệt là trợ cấp cho ngành điện (UNDP, 2012). Trợ cấp cho nhiên liệu hóa
thạch ở Việt Nam dẫn đến giá năng lượng thấp và làm cho việc sử dụng năng lượng ở
mức cao và không hiệu quả, đặc biệt là ở những ngành sử dụng nhiều năng lượng như
sản xuất thép, giấy và xi măng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1. Về phía doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp ít vốn, để thực hiện mục tiêu phát triển xanh, khôngnhất
thiết phải đầu tư trang thiết bị hiện đại mà có thể thông qua những hành động đơn giản
như: chấp hành tốt quy định bảo vệ môi trường, cải tiến quy trình sản xuất đểgiảm nguyên
nhiên liệu, điện và ưu tiên tiêu sử dụng nguyên vật liệu đầu vào thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, cần phát triển và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp xanh, hỗ trợ giá
đối với các sản phẩm, dịch vụ xanh, tăng cường tiếp thị, quảng cáo sản phẩm. Tổ chức
chương trình đào tạo về sản xuất xanh cho lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào các
mô hình doanh nghiệp xanh. Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng đối với các sản phẩm xanh,
nâng cao thói quen tiêu dùng thân thiện môi trường, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà
sản xuất xanh, sản phẩm xanh và người tiêu dùng xanh.
3.2. Về phía Nhà nước
Về chính sách: Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến bảo vệ môi
trường và biến đổi khí hậu như Luật Bảo vệ môi trường, các cơ chế tín chỉ như JCM và
CDM. Tuy nhiên, cần hoàn thiện khung pháp lý toàn diện cho phát triển thị trường
cácbon, tương tự như luật ở EU hoặc Hàn Quốc. Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường 2020
đã tạo nền tảng pháp lý, nhưng Việt Nam cần sớm đưa ra yêu cầu giảm phát thải cho các
lĩnh vực và áp dụng tiêu chí giảm phát thải bắt buộc khi phê duyệt các chương trình phát triển.