














Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Quỳnh Trang MSV: 11219003
Lớp tín chỉ: LLTT1101(223)_11
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI - 2024 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................... 3
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................ 3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ..... 5
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG ........................................................................................ 8
1. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên trong việc phát triển cơ cấu nền
kinh tế ở nước ta của Đảng Cộng sản Việt Nam ....................................................... 8
2. Hạn chế ................................................................................................................ 10
3. Đề xuất giải pháp ................................................................................................ 11
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 14 1 MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí Minh
đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng
kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi
mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức sở
hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất
hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét về toàn
bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại của các
thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế còn phát
huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng mệnh lệnh
hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được. Bài viết nghiên cứu quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH
và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quá trình biến đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là thời kỳ quá độ. C.Mác đã khẳng định giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển hoá cách mạng từ xã hội này
thành xã hội kia. Tương ứng với thời kỳ đó là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước khi
ấy không thể là cái gì khác ngoài chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có quá trình phát triển qua các
giai đoạn từ thấp đến cao: giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản; giai đoạn cao hơn của
chủ nghĩa cộng sản. Thời kỳ Mác và Ăngghen trong bối cảnh thế kỷ XIX ở phương Tây
vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ chưa đặt ra nên các ông chỉ mới đề cập đến nội dung
chính trị. V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời cụ
thể hoá việc phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được gọi là chủ
nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là tất yếu và lâu dài. Từ việc phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Lênin cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá
độ” của các nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ông chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong một hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất (những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới
của CNXH trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau). Đây là bước quá độ
trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng CNXH, không thể dùng ý chí để xoá bỏ ngay
kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại
nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan 3
xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình
thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Một số học giả cho rằng, do hoàn cảnh lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nói đến
kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên, học thuyết duy vật lịch sử do các ông sáng lập ra đã
chứa đựng những cơ sở, luận đề khoa học cho phép đi đến thừa nhận kinh tế nhiều thành
phần. C.Mác đã nhiều lần nói rằng, các yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội mới đã được
hình thành trong lòng hình thái kinh tế - xã hội cũ. Thậm chí, các ông đã khẳng định: Khi
quan hệ sản xuất cũ còn tạo dư địa cho lực lượng sản xuất phát triển thì nó không bị mất đi.
Ngược lại, quan hệ sản xuất mới sẽ không xuất hiện khi những điều kiện cho sự tồn tại của
nó chưa hình thành. Nói cách khác, các ông đã gián tiếp thừa nhận sự chung sống của nhiều
thành phần kinh tế trong một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Trong mỗi hình thái kinh tế
- xã hội cụ thể có thể có 3 loại thành phần kinh tế: 1) thành phần kinh tế thuộc phương thức
sản xuất cũ đang được phương thức sản xuất thống trị cải tạo dần dần; 2) thành phần kinh
tế đại biểu cho phương thức sản xuất thống trị; 3) thành phần kinh tế đại biểu cho phương
thức sản xuất thống trị mới sẽ thay thế phương thức sản xuất hiện hành, nhưng còn ở hình thái manh nha.
C.Mác luôn phân biệt hình thức pháp lý của sở hữu với bản chất kinh tế của sở hữu
thể hiện trong quan hệ sản xuất. Bản chất kinh tế của sở hữu thay đổi liên tục theo trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và hình thức tổ chức sản xuất, hình thức trao đổi sản phẩm.
Hình thức pháp lý, nếu xét dưới dạng quyền của chủ sở hữu, là sự xác nhận và bảo hộ của
xã hội với quan hệ sở hữu thống trị, qua đó làm thay đổi ở một số khía cạnh nhất định các
quan hệ sở hữu khác thích nghi với quan hệ sở hữu thống trị. Ngoài ra, hình thức pháp lý
của quan hệ sở hữu là sự xác nhận của xã hội (được nhà nước bảo hộ) quyền của người chủ
sở hữu phân biệt với người không phải là chủ sở hữu. Do đó, cũng có thể quy quan hệ sở
hữu về mặt pháp lý về các quyền của chủ sở hữu thành hai loại phản ánh quan hệ người -
người khác nhau đối với đối tượng sở hữu là: sở hữu chung và sở hữu riêng.
Sở hữu chung của một số người đối với một tài sản nào đó lại được cụ thể hóa hơn
nữa trong các loại hình sở hữu chung đồng hạng và sở hữu chung khác hạng. Sở hữu chung
đồng hạng thể hiện trong hình thức sở hữu của các thành viên gia đình, sở hữu cộng đồng
đối với khu rừng, bãi chăn thả, khu khai thác hải sản... với những quy chế cụ thể về việc sử
dụng và hưởng lợi chung.
Sở hữu chung không đồng hạng xuất hiện trong các công ty (trách nhiệm hữu hạn
và cổ phần), trong đó việc sử dụng và hưởng lợi đều phải tuân thủ quy định của điều lệ. Sở
hữu riêng cũng có nhiều hình thức: Sở hữu của người sử dụng trực tiếp đối tượng sở hữu;
sở hữu của người không trực tiếp sử dụng đối tượng sở hữu... Nhìn chung, hình thức sở hữu
bao giờ cũng đi cùng với hình thức sử dụng cụ thể (trực tiếp sử dụng, cho thuê, cho mượn,
ủy quyền cho người khác thay mình quản lý, sử dụng...) và phần lợi ích có được từ quyền sở hữu.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết kinh tế chính
trị của chủ nghĩa Mác-Lênin; đặc biệt là kế thừa và phát triển những quan điểm của
V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới (NEP) vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam với những nội dung cụ thể và nổi bật là:
Thứ nhất, thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế
Nhận thức rõ tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông
nghiệp lạc hậu như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam sẽ tất yếu tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Từ nhận định: “Trong
nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của
Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao
động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư
bản”(1), Người kết luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế
thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”(2). Tuy nhiên, mục đích đó
phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể.
Thứ hai, xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước
đối với từng thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, ở
vùng tự do của ta còn tồn tại sáu thành phần kinh tế: kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa
tô; kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội; các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã
cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội; kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công
nghệ; kinh tế tư bản của tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia (Nhà nước hùn vốn với tư nhân
để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo). 5
Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc, Việt Nam)
phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ mới có 5 loại kinh tế khác nhau:
“A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B - Các
hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C - Kinh tế của cá
nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã
hội). D - Tư bản của tư nhân. E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản
tư nhân để kinh doanh). Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ
nghĩa tư bản”(3). Thực chất, đó là quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành
phần kinh tế ở các mức độ phù hợp.
Kinh tế quốc doanh (hay kinh tế nhà nước) là thành phần kinh tế có tính chất xã hội
chủ nghĩa, thể hiện ở chế độ sở hữu toàn dân: tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân
dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong quan hệ tổ chức quản lý sản xuất,
“xưởng trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân.
Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân”(4). Kinh tế quốc
doanh có vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát
triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế hợp tác xã (bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội
đổi công ở nông thôn) là thành phần kinh tế có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, được hình
thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Bởi vì, trong thành phần kinh tế
này, “nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình
sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột”(5). Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc thông qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó
cũng là sự thống nhất với quan điểm của V.I.Lênin về tổ chức hợp tác xã: đảm bảo tính dân
chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội viên và phù hợp với điều kiện từng địa phương.
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
đó là “kinh tế lạc hậu” bởi nó mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với
thành phần kinh tế này: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất
theo nguyên tắc tự nguyện”(6).
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mang tính bóc lột. Họ bóc lột công
nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần quan trọng vào xây dựng kinh tế. Do đó, Nhà
nước thừa nhận quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ nhưng phải hướng
dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của
Nhà nước. Người nhấn mạnh: “Nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng
theo chủ nghĩa xã hội”(7). Đồng thời, những hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế chính đáng
có lợi cho Việt Nam của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ và bảo hộ.
Kinh tế tư bản quốc gia (hay kinh tế tư bản của Nhà nước) là thành phần kinh tế hỗn
hợp. Nhà nước và tư nhân hùn vốn để kinh doanh, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản,
tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện việc lãnh đạo hoạt động của
thành phần kinh tế này theo kế hoạch thống nhất. Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư sản công thương cải
tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Thứ ba, phải có các nguyên tắc đảm bảo đoàn kết, phát huy sức mạnh của các thành
phần kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế
Một là, công tư đều lợi: "công" là kinh tế quốc doanh, là thành phần kinh tế lãnh
đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Đảng, Nhà nước phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh,
Nhân dân phải ủng hộ kinh tế quốc doanh; đồng thời phải trừng trị những người có hành
động phá hoại kinh tế quốc doanh như trộm cắp của công, khai gian lậu thuế. "Tư" bao gồm
những nhà tư bản dân tộc, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ.
Hai là, chủ thợ đều lợi: thừa nhận sự bóc lột của nhà tư bản là tất yếu, nhưng Chính
phủ cần phải “ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay”(8). Đối với công nhân, Đảng và
Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Để đảm bảo lợi ích lâu dài, Người
cũng căn dặn: “Anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”(9). Sự hợp tác trong
sản xuất, việc chấp nhận những quyền lợi trong chừng mực nhất định của cả chủ và thợ
cũng là một trong những động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Ba là, công nông giúp nhau: lĩnh vực công thương đẩy mạnh phát triển thương
nghiệp và chế biến, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa trong nông nghiệp để làm sợi dây đoàn kết “Liên minh công nông”. 7
Bốn là, lưu thông trong - ngoài, tức là phải thực hiện chính sách mở cửa phát triển
hợp tác kinh tế theo hướng các bên cùng có lợi. Nói theo ngôn ngữ hiện nay là hội nhập
kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị.
Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần có ý nghĩa là cơ sở lý luận nền tảng trong việc hoạch định chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG
1. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế
ở nước ta của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định và thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các thành phần kinh
tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế gia đình tuy không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) xác định nền kinh tế
nước ta gồm các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế tư bản nhà nước;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”(10), với các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể,
tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là sự bổ sung mới, thể hiện rõ tầm
quan trọng của sự thu hút các nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây
là sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc "lưu thông trong -
ngoài". Đại hội X của Đảng khẳng định, ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu là toàn dân, tập
thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hoàn thiện cơ chế,
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền
kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch”[9]. Đại
hội cũng chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng đều thống nhất hoạch định phương
hướng phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, đó là:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng ta đã có những khái quát mới
về lý luận: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù
hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng làm rõ hơn vị trí, vai trò và chính
sách phát triển đối với các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực
then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy
hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế.
Kết quả của 35 năm (1986-2021) đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình
quân khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không
thuận lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ
USD (đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt
khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm
2020. ( xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia
và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng
định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa
xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và phù hợp
với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế
tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có 9
tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân
chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên
định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng;
kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa" 2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư
tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
Thứ nhất, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
không hoàn thành, nhiều tiêu chí không đạt được. Trong đó, thu nhập bình quân đầu người
vẫn nằm trong nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp; các tiêu chí về tỉ
trọng công nghiệp chế tạo và tỉ trọng nông nghiệp trong GDP cho tới tỉ lệ lao động qua đào
tạo, tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch… vẫn chưa đáp ứng được.
Thứ hai, nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp, chậm được cải
thiện; năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần theo
chu kỳ 10 năm. Điều này dẫn đến nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Bên
cạnh đó, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực
quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn
chế; đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn.
Thứ ba, chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các
nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ
thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư
và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các dịch
vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành
công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước
trong khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước
chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế
tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động lực của
nền kinh tế, chưa được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
còn khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách ...
Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống phá
của lực lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả nguyên nhân
chủ quan. Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chưa thật sự đúng đắn
cũng dẫn đến những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
có thể kể đến như sau: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với
nhu cầu phát triển. Nhận thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự
không thống nhất trong hoạch định các chủ trương, chính sách. Bên cạnh đó, việc tổ chức
tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo điều, hiệu quả chưa cao.
Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, mô hình hay, cách
làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa
thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội.
3. Đề xuất giải pháp
Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù
hợp với điều kiện mới của đất nước và tình hình thế giới. Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc Việt Nam.
Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát triển
thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp đảm bảo các yếu tố: tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh cho các thành phần kinh tế; xóa bỏ các
rào cản, ưu đãi không đúng chính sách, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển;
Giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các thành phần
kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa chủ và thợ,
giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước, lợi
ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế.
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận
thức lý luận, cần vận dụng linh hoạt tránh rập khuôn; cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất
trong nghiên cứu lý luận, trong đổi mới tư duy về kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xây dựng
và thực thi chính sách, thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động 11
lực và là giải pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.
Các giải pháp nêu trên cần được thực hiện một cách đồng bộ, có trọng tâm, trọng
điểm. Ta cần lấy hiệu quả kinh tế và sự hài lòng của người dân làm thước đo cho việc thực
hiện các giải pháp đi đôi với việc thường xuyên đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh
các giải pháp cho phù hợp với tình hình thực tế. KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam, trong đó có xây dựng
nền kinh tế. Dù thực tiễn luôn không ngừng vận động thay đổi qua thời gian, những nội
dung tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người, trong đó có quan điểm về cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, vẫn giữ nguyên giá trị, là cơ sở để ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới.
Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần được Người phân tích vô cùng sâu sắc và rõ ràng, chỉ rõ điểm
mạnh và yếu của từng thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp phát triển cho
từng thành phần kinh tế. Có thể nói, chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế là sự
vận dụng sáng tạo và phát triển những quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này góp phần quan trọng trong việc huy động
sức mạnh của các thành phần kinh tế vào chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó giúp nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển
mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn và xác định được mục tiêu, phương hướng phát
triển kinh tế trong tương lai. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2019), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X,
XI, XII, XIII (1996, 2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2020): Kinh tế nhiều thành phần trong nền
kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (dangcongsan.vn)