















Preview text:
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm sau đây của Hồ
Chí Minh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”. Giá trị định hướng
của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng nền văn hóa nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Mai Thu Hiền MSV: 11235788
Lớp tín chỉ: TTHCM(124)_CLC_16
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện Mục Lục MỞ ĐẦU NỘI DUNG
1. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa ......................................................... 5 1.1.
Khái niệm văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh .............................................. 5 1.2.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác ......... 5
1.2.1. Văn hóa với chính trị và xã hội ..................................................................... 5
1.2.2. Văn hóa với kinh tế và xã hội ........................................................................ 6 1.3.
Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò văn hóa ......... 6
1.3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng ............ 6
1.3.2. Về mặt trận văn hóa và chiến sĩ nghệ thuật ................................................... 7
1.3.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân ......................................................... 8
2. Phân tích quan điểm: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ” ..................................................... 10 2.1.
Văn hóa trong vai trò soi đường cho quốc dân đi và lãnh đạo quốc dân thực
hiện độc lập, tự cường và tự chủ ................................................................................ 10 2.2.
Mối liên hệ giữa văn hóa và sự phát triển toàn diện của quốc gia .................. 11
*Phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại .... 12
3. Giá trị định hướng của quan điểm “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn
hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ” ................................ 13 3.1.
Thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay .................................................... 13 3.2.
Chính sách và phương hướng giải quyết vấn đề phát huy sức mạnh văn hóa
trong xây dựng nền độc lập, tự cường và tự chủ của Việt Nam ................................ 13 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 MỞ ĐẦU
Hơn cả một nhà hoạt động tư tưởng thực tiễn vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư
tưởng lớn. Người để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng và lý luận vô
cùng quý báu, bao quát nhiều lĩnh vực trong hoạt động của cuộc sống. Di sản của
Người là sự hòa quyện từ những suy nghĩ bao la với tất cả khối óc sáng suốt của một
nhà cách mạng khoa học cùng tất cả tình cảm, phong thái của một vĩ nhân hiếm có trên
thế giới. Nhà báo Xô - viết Ooxip Mandextam từng viết: “ Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra
một nền văn hóa, không phải là văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của
tương lai”. Và quả thực là như vậy, tại thời điểm UNESCO còn chưa ra đời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa ra những góc nhìn vượt thời đại về lĩnh vực văn hóa mà mãi sau
này ta thấy có rất nhiều điểm tương đồng với khái niệm về văn hóa chung của thế giới.
với đại diện là UNESCO. Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho tiến bộ của
nhân loại, năm 1990, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
(UNESCO) ra Nghị quyết 24C/1865 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với tư cách là Anh hùng giải phóng dân tộc, Doanh nhân văn hóa thế giới.
Thành tựu văn hóa vĩ đại và quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn, đồng thời lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
mang lại độc lập tự do cho đất nước và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Đi theo con
đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, thể theo di chúc thiêng liêng của Người, Đảng
ta kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu cầu mới; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân tiến
hành sự nghiệp đổi mới đất nước, tích cực hội nhập quốc tế. Trên hành trình này, một
trong những quan điểm tiêu biểu của Người: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân
đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ” – là kim chỉ
nam quan trọng trong việc định hướng xây dựng nền văn hóa của đất nước ta ngày nay. 3 NỘI DUNG
1. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1. Khái niệm văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa, phân theo mức độ bao quát của
định nghĩa. Cách tiếp cận đầu tiên đồng thời là nghĩa rộng nhất: Văn hóa là tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt của con người. Kế tiếp là cách tiếp cận hẹp: Văn hóa là
đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Tiếp cận văn hóa theo
nghĩa hẹp hơn: Văn hóa là khi bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù
chữ, biết đọc biết viết (cách tiếp cận này thường xuất hiện trong các bài nói với đồng
bào miền núi). Cuối cùng là tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Ở một bối cảnh không gian và thời gian đặc biệt, trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch
(Tháng 08/1943), thời điểm trước khi UNESCO ra đời, nhân dân ta còn đang tập trung
cho sự nghiệp giải phóng dân tôc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về
văn hóa hình thành từ những cơ sở khách quan, khoa học. Người đúc kết nội hàm khái
niệm văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”. Đây là khái niệm duy nhất được tiếp cận theo nghĩa rộng, bao hàm các hoạt động
vật chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra; đồng
thời, cũng chỉ ra nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách chủ thể hoạt động của đời
sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác
Từ sau Cách mạng tháng 8, Hồ Chí Minh chỉ bàn về văn hóa theo nghĩa hẹp – với tư
cách là kiến trúc thượng tầng, là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Về vị trí, vai trò
của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với các lĩnh vực
hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng
phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Quan trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác. Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và
ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được xây dựng,
kết cấu đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là
nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của
xã hội. Từ đó, một trong những vấn đề cơ bản, hệ trọng đặt ra là phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
1.2.1. Văn hóa với chính trị và xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong
chính trị; chỉ khi chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng;
chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách 4
mạng chính trị trước. Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội, và từ đó,
văn hóa mới được giải phóng. “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... dưới chế độ thực dân
và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể
phát triển được”. Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị nghĩa là tham gia vào
các hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội; văn
hóa tham gia kháng chiến tức là văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn
hóa; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa,
có thế thì hoạt động mới là hoạt động có đạo đức, mới là hoạt động vì lợi ích của nhân
dân, vì dân tộc. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực
văn hóa là một nhiệm vụ rất quan trọng. Mặt trận văn hóa, văn nghệ không chỉ diễn ra
trong chống giặc ngoại xâm, mà còn cả ở công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống
giặc nội xâm, “giặc ở trong lòng”, chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô,
nhũng nhiễu, lãng phí, lười biếng, quan liêu,... Qua phân tích, ta nhìn thấy tính sâu sắc
và đồng hành của mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, hai lĩnh vực này phải được tiến hành cùng lúc, chú trọng ngang nhau từ đó thúc
đẩy nhau cùng phát triển.
1.2.2. Văn hóa với kinh tế và xã hội.
Đối với mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không
nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế
kinh tế phải đi trước”. Người chỉ rõ kinh tế là nền tảng của văn hóa; do đó, kinh tế phải
đi trước một bước, kinh tế phải được quan tâm chú trọng đúng mực thì từ đó mới xây
dựng nên cơ sở hạ tầng để phát triển văn hóa. Cũng bởi văn hóa thuộc về kiến trúc
thượng tầng, vậy nên phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của cơ sở hạ tầng của xã
hội thì mới kiến thiết được văn hóa. Đồng thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ.
Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước
ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Quan điểm
này của Người khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của
kinh tế và xã hội, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội.
Những luận điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng
vững chắc cho quan điểm hiện nay của Đảng, khẳng định rằng trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân, Đảng ta luôn kiên định
với chủ trương: tăng trưởng kinh tế không phải là mục tiêu duy nhất, tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc và
giải quyết những vấn đề an sinh xã hội; văn hóa là nguồn lực, động lực của phát triển. 1.3.
Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò văn hóa
1.3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nằm 5
trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình của cách mạng. Văn hóa là mục tiêu của
cách mạng bởi văn hóa chính là hiện thân của các quyền cơ bản của con người: quyền
sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Văn hóa thể hiện những những khát
vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Từ văn hóa mà thấy được ước mơ và
khát khao của nhân dân về một xã hội dân chủ: dân là chủ và dân làm chủ, công bằng
văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Trong xã hội ấy, con
người ta được quan tâm về đời sống vật chất và tinh thần; có điều kiện để phát triển
toàn diện. Ngày nay quan điểm của Đảng ta luôn coi văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nói như vậy,
cũng có thể hiểu ngắn gọi: Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng động lực phát triển ở đất nước quy tụ ở con người, dù là
động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; hay nội lực và ngoại
lực. Không thể có văn hóa ngoài con người cũng như không thể có con người tồn tại
và phát triển mà không dựa trên cơ sở văn hóa. Văn hóa và con người chỉ có thể tồn tại
trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động và bổ sung cho nhau. Văn hóa
Hồ Chí Minh chính là văn hóa gắn với con người, gắn với sự phát triển xã hội nhằm
giải phóng con người. Cho nên muốn xây dựng văn hóa, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm tới phẩm chất đạo đức ở con người Việt Nam, Người tin rằng chính đạo
đức là nhân tố đầu tiên của văn hóa. Trong Di chúc, Người yêu cầu “Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
1.3.2. Về mặt trận văn hóa và chiến sĩ nghệ thuật
Văn hóa là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã hội; bỏ qua nó, cơ chế xã hội
không thể phát triển hoàn thiện được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm rất
lớn đối với vấn đề này qua nhiều bài nói, bài viết. Người luôn khẳng định, cách mạng
Việt Nam muốn giành thắng lợi thì nhất thiết phải xây dựng cho được nền văn hoá,
văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Người nhấn mạnh văn hóa, văn nghệ phải
gắn với thực tiễn cuộc sống, gắn với bộ đội và nhân dân và phục vụ tốt nhất nhu cầu
của cách mạng. Năm 1951, trong “Thư gửi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa tại Chiến
khu Việt Bắc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Anh chị em ở đây chính là các văn nghệ sĩ -
những người trực tiếp làm ra sản phẩm văn hóa đặc thù là các tác phẩm văn học, nghệ
thuật). Quan điểm này đề cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lĩnh vực văn hóa, văn
nghệ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Mặt trận văn hóa là một bộ
phận của cách mạng, ngang hàng với các mặt trận khác như kinh tế, chính trị, xã hội,
quân sự, ngoại giao. Văn hóa cũng là một mặt trận đầy cam go, quyết liệt, đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới; giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa cái tích cực và tiêu
cực; giữa tiến bộ và lạc hậu; giữa văn hóa xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa. 6
Văn hóa cũng là mặt trận đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn hóa, toàn
quân, toàn dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”. Văn hóa có mặt trong mọi
công tác cách mạng theo tinh thần “văn hóa hóa kháng chiến”. Mặt trận văn hóa là một
cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa mà nói ngắn gọn là cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa.
Các “Chiến sĩ văn hóa” chiến đấu trên “Mặt trận văn hóa”, đội ngũ này phải là tập hợp
những con người có lập trường tư tưởng vững vàng, đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân. Người chiến sĩ đứng trong mặt trận ấy có nhiệm vụ “phụng sự kháng chiến,
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”. Họ phải có trí
tuệ, bản lĩnh, đạo đức cách mạng, đồng thời cũng phải là người biết trân quý, giữ gìn,
phát huy những truyền thống của ông cha, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén
trong sự nghiệp phò chính trừ tà mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là
những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và
độc lập cho Tổ quốc”. Muốn làm được điều đó, chiến sĩ văn hóa phải “từ trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, phải “gắn liền với lao động, sản xuất, văn hóa ra đời
sống, xa lao động là văn hóa suông”. Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh
hùng, thời đại ta là một thời đại vẻ vang. Vì vậy các chiến sĩ văn nghệ phải có những
tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
1.3.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Văn hóa phải có tính đại chúng, tức là phải xuất phát từ quần chúng, phù hợp với quần
chúng và phục vụ cho quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh và quan tâm đến tính đại chúng của văn hóa. Người nói “không thể nói nghệ
thuật vị nghệ thuật mà cần nói rõ văn hóa phục vụ công nông binh”. Nghệ thuật cách
mạng phải nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, thẩm mỹ của đại đa số nhân dân. Muốn
vậy, phải có cách viết phù hợp trình độ của đại đa số đồng bào. Người chiến sĩ nghệ
thuật khi cầm bút viết phải xác định được: “Viết cho ai? Mục đích viết”, “Lấy tài liệu
đâu mà viết”? “Viết phải thiết thực”, “tránh cái lối viết “rau muống” mà ham dùng
chữ. Khi nói cũng nên “nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần
chúng thích hơn”. Nhân dân là người không chỉ tạo ra của cải, vật chất mà còn là khởi
nguồn của những giá trị văn hóa cho xã hội. Đồng thời, nhân dân cũng chính là tấm
gương phản ánh của văn hóa. Họ là nhân vật trung tâm của sự nghiệp cách mạng, từ
cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, văn hóa phải
phản ánh quần chúng nhân dân một cách chân thực nhất, sống động nhất. Người khẳng
định “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn
nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta”. Song song
với đó, nhân dân cũng chính là những người thưởng thức, kiểm nghiệm, đánh giá,
phản biện các sản phẩm văn hóa một cách trung thực và khách quan nhất. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn, khi viết xong một tác phẩm phải đưa cho quần chúng đọc
để họ góp ý cho mình, “Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào 7
ngúc ngoắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải sửa lại”. Với tư cách chủ thể,
quần chúng nhân dân được quyền hưởng các giá trị văn hóa. Văn hóa phục vụ quần
chúng thể hiện ở tính hiện thực, chân thật, mặt khác, nó phải hướng quần chúng loại
bỏ cái giả, cái ác, cái sai, cái xấu để vươn tới lý tưởng, không chỉ cho hôm nay mà còn
để giáo dục cho con cháu mai sau. Văn hóa phải hướng quần chúng đến mục tiêu, lý
tưởng cao đẹp, nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc cho con người. 8
2. Phân tích quan điểm: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”
2.1. Văn hóa trong vai trò soi đường cho quốc dân đi và lãnh đạo quốc dân thực
hiện độc lập, tự cường và tự chủ
Để văn hóa đảm nhận đúng, đủ, tốt sứ mệnh "phải soi đường cho quốc dân thì nền văn
hóa dân tộc và con người cần phải được xây dựng và phát triển, phù hợp với thời đại.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh giá trị không thể phủ nhận của văn hóa đối với mỗi
quốc gia, dân tộc. Vì thế, trong quá trình kiến thiết và bảo vệ nền cộng hòa dân chủ, dù
là thời kỳ phải tập trung lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động
Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam) vẫn dành sự quan tâm đặc biệt tới công cuộc xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mới. Theo chỉ dẫn của
Người, trước hết "phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu
lao động, một dân tộc xứng đáng với Việt Nam độc lập"; phải nâng cao dân trí, tiêu
diệt "giặc dốt", thì mỗi người dân mới hiểu được quyền lợi và bổn phận của mình;
bằng cách xây dựng nền văn hóa, văn nghệ chân chính và đời sống mới, trong đó phải
không ngừng bài trừ các hủ tục lạc hậu thì mới xây dựng được con người mới – nguồn
lực để "sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới" ( một nền văn hóa đứng
trong kinh tế và chính trị). Tư tưởng của Người không chỉ nhấn mạnh vai trò quan
trọng của văn hóa, đồng thời cảnh báo, phê phán bệnh coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, coi
văn hóa như lĩnh vực phụ, ăn theo các lĩnh vực khác, không thấy vai trò nền tảng, vai
trò sáng tạo, dẫn dắt, "soi đường" của văn hóa mà còn cho thấy sự ảnh hưởng của văn
hóa lên kinh tế - chính trị.
Trong quá trình xây dựng nền cộng hòa dân chủ, thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến
vừa kiến quốc, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng nền văn hóa của dân tộc đều phải góp phần xác lập giá trị cốt lõi của
một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; đều phải hướng đến mục tiêu vì con người - coi con người vừa là
chủ thể vừa là trung tâm của sự phát triển…
Đặc biệt, nền văn hóa dân tộc mới được xây dựng phải "làm thế nào cho văn hóa vào
sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc
lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước
quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình". Cùng với đó, phải: "Xúc tiến
công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến
kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa
đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp
thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng". 9
Đây chính là mục tiêu xây dựng nền văn hóa dân tộc và con người Việt Nam mới xã
hội chủ nghĩa, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam; cũng chính là nhiệm vụ quan
trọng của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa ở Việt Nam.
2.2. Mối liên hệ giữa văn hóa và sự phát triển toàn diện của quốc gia
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, những thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra
một vấn đề về quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, những thành tố bảo đảm cho sự
phát triển bền vững và quan hệ biện chứng của các thành tố đó; vai trò của văn hóa,
cách thức chỉ đạo và tổ chức thực tiễn để bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Đây là
vấn đề của các quốc gia trên thế giới, không ngoại trừ Việt Nam.
Quốc gia phát triển không chấp nhận sự tăng trưởng bằng mọi giá. Thực tiễn yêu cầu
"phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững". Trong đó, "phát triển bền vững là
yêu cầu xuyên suốt", "là nền tảng cho phát triển nhanh" và "phát triển nhanh và bền
vững phải luôn luôn gắn liền với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội". Để làm rõ vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững, cần
phân tích đặc trưng cấu trúc của văn hóa, gồm hai tầng: Tầng thứ nhất là các sản phẩm
cụ thể của văn hóa, phong phú, đa dạng và không ngừng thay đổi để đáp ứng nhu cầu
tinh thần của con người. Đây chính là đời sống văn hóa cụ thể của xã hội, mỗi cá nhân
và mỗi cộng đồng, được gọi là yếu tố động của văn hóa hay cấu trúc bề mặt của văn
hóa. Tầng thứ hai là bộ phận chìm, được sản sinh từ tầng thứ nhất nhưng nằm trong
nhận thức và sự tiếp nhận của con người. Đây chính là hệ giá trị do các sản phẩm văn
hóa tạo ra và được con người tiếp nhận. Yếu tố tĩnh này là cấu trúc chiều sâu của văn
hóa, kết tinh và lắng đọng dưới cấu trúc bề mặt, đóng vai trò định hướng và điều chỉnh
mọi biến đổi trên tầng bề mặt, từ đó định hình nền văn hóa của mỗi dân tộc qua không
gian và thời gian. Nhận diện cấu trúc của văn hóa qua hai tầng bề mặt và chiều sâu,
cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng, là cơ sở khoa học khách quan để khẳng
định vai trò của văn hóa. Văn hóa không chỉ là các sản phẩm phong phú, đa dạng phục
vụ nhu cầu tinh thần của con người, mà còn là các giá trị và hệ giá trị được khẳng định
và lưu truyền, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của mỗi cộng đồng,
mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.
Một đặc trưng nổi bật của văn hóa là luôn thẩm thấu vào các lĩnh vực khác của xã hội,
góp phần trực tiếp tạo nên trình độ phát triển từ kinh tế, chính trị đến pháp luật, đạo
đức...Chính vì thế, nếu thêm từ văn hóa vào trước các lĩnh vực trên, người ta nhận
ngay ra yêu cầu về chất lượng và trình độ phát triển của các lĩnh vực đó. Từ đó, mới
xuất hiện các cụm từ văn hóa chính trị, văn hóa trong Đảng, văn hóa giao thông, văn
hóa ứng xử, văn hóa gia đình, văn hóa đọc, văn hóa công sở, văn hóa học đường, văn
hóa ẩm thực... Sự thấm sâu của văn hóa vào các lĩnh vực này chính là hệ quả của cấu
trúc chiều sâu của văn hóa, tức là sự thấm nhuần các giá trị văn hóa trong mọi mặt của
đời sống xã hội. Chính từ đặc trưng này mà vai trò của văn hóa có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển và đó là cơ sở khoa học để chúng ta lý giải các quan
hệ đặc thù của văn hóa với các lĩnh vực cơ bản của sự phát triển. 10
*Phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tư tưởng về bảo tồn văn hoá dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự giao
hoà giữa các nền văn hoá của các dân tộc khác nhau chính là yếu tố thúc đẩy sự phát
triển văn hoá của mỗi dân tộc, làm cho nó hoàn thiện hơn, phong phú hơn. Người quan
niệm rằng: “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây
phương chung đúc lại…lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay trau dồi
cho văn hoá Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân
chủ”. Điều này thể hiện về tầm nhìn bao quát của Hồ Chí Minh, dù đề cao truyền
thống và bản sắc dân tộc, Người không bị ràng buộc bởi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà
luôn dùng con mắt rộng mở để chiêm nghiệm về sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước và
tinh thần quốc tế trong văn hóa. Người khâm phục nền văn hoá phát triển của các dân
tộc khác, bất kể đó là dân tộc của kẻ thù xâm lược phía bên kia chiến tuyến. Một nhà
báo Mỹ đã nhận xét: “Cụ Hồ không phải là một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà
cụ là một con người yêu mến văn hoá Pháp trong khi chống thực dân Pháp. Một con
người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ, khi Mỹ phá hoại đất nước
cụ”. Tư duy văn hóa Hồ Chí Minh xa lạ với mọi góc độ kỳ thị văn hóa. Bản thân Hồ
Chí Minh là đỉnh cao của sự kết tinh văn hóa hóa nhân loại, Người đúc kết trong kho
tàng tri thức của mình tinh hoa văn hoá đông, tây, kim, cổ. Người đề ra chủ trương học
tập một cách toàn diện: kế thừa, bảo tồn truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc đi
đôi với việc học tập và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, tìm mẫu số
chung của nền văn hóa trên thế giới. Tính toàn diện còn thể hiện ở việc tiếp thu nhiều
mặt: tư tưởng Khổng giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, văn hóa châu âu, tư tưởng Tôn
Trung Sơn, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài ra còn tiếp thu nền nghệ thuật, âm
nhạc, hội họa… Hồ Chí Minh xác định rõ mục đích của tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam hợp với
tinh thần dân chủ. Tiêu chí tiếp thu là tiếp thu cái hay, cái tốt, tiếp thu có chọn lọc, tiếp
nhận những cái phù hợp với thuần phong mỹ tục đất nước, loại bỏ sự ảnh hưởng của
những thứ phản văn hóa. Chính vì thế phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, lấy văn
hóa dân tộc làm gốc, giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc và coi nó như một tấm lá chắn
vững chắc để đi tới tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Người dạy, tiếp thu văn hóa
nhân loại không có nghĩa là bê nguyên xi một cách thô thiển, có vay mà ko có trả. Phải
học tập một cách sáng tạo chứ ko phải chạy theo sau thiên hạ một cách kệch cỡm, mà
phải từ tầm cao của tinh hoa nhân loại mà vươn lên cao hơn, bằng thành tựu của mình
góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm kho tàng nhân loại; tiếp thu có chọn lọc
những cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc, biến chúng thành
những cái bên trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam. Đứng
ở vị trí bồi đắp nên từ nền tảng văn hóa dân tộc, con người Việt Nam thể hiện bản lĩnh
vững vàng trong quá trình tiếp thu và chiếm lĩnh những giá trị văn hóa bên ngoài suốt
hàng nghìn năm lịch sử. Trong quá trình học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm, luôn phải
cân nhắc đến đặc điểm riêng của dân tộc, bởi nếu không, sẽ dễ mắc phải những sai lầm
mang tính giáo điều.. Do đó, Người chỉ rõ những người làm văn hóa - văn nghệ phải 11
có kiến thức, phải chịu khó học hỏi, trau dồi, mở rộng kiến thức, am hiểu văn hóa thế
giới, có như thế mới có thể tiếp thu của người ta và quảng bá văn hóa của mình. Như
vậy có thể thấy, trong việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh một mặt chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, mặt khác Người
quan tâm chống nguy cơ bảo thủ, khép kín, tức là Người đã nhìn thấy phép biện chứng
giữa tính dân tộc và tính nhân loại như là một quy luật trong xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam.
3. Giá trị định hướng của quan điểm “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn
hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”
3.1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay
Tiếp nối tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong diễn văn khai mạc Hội nghị Văn
hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 24-11-1946, “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy
hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở... Văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”; Đảng ta
xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Đầu tư
cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững, dài hạn và tạo ra sức sống mới cho kinh
tế-xã hội, sự trường tồn và phồn vinh của đất nước.
Trước đây, văn hóa trong quan niệm chung là lĩnh vực chỉ biết “tiêu tiền” hoặc gắn với
suy nghĩ “cắt giảm đầu tiên, đầu tư sau cùng”. Tình hình đã khác khi lãnh đạo các địa
phương nhìn nhận quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là mối quan
hệ cộng sinh. Phát triển văn hóa nhằm tạo sức mạnh nội sinh, môi trường thuận lợi để
phát triển kinh tế; đồng thời kinh tế phát triển lại là điều kiện cho sự phát triển văn
hóa. Đầu tư cho văn hóa hiện đang được ưu tiên đẩy mạnh với hy vọng tạo sức bật cho
ngành văn hóa, song quá trình triển khai vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập. Trong một
thời gian dài, quan điểm đúng đắn của Đảng chưa được cụ thế hóa, nhất là trong xây
dựng các chiến lược, kế hoạch, văn hóa tìm được vị trí nên có do vậy chưa thể phát
huy vai trò vốn có trong việc thúc đẩy các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; cũng do
vậy mà nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa hiện nay còn khiêm tốn.
3.2. Chính sách và phương hướng giải quyết vấn đề phát huy sức mạnh văn hóa
trong xây dựng nền độc lập, tự cường và tự chủ của Việt Nam
Ngày 24-11-2021 diễn ra sự kiện cực kỳ quan trọng đối với lĩnh vực văn hóa và đất
nước, đó là Hội nghị Văn hóa toàn quốc. Bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã trở thành cơ sở chính trị, thúc đẩy để các ban, bộ, ngành, địa
phương mạnh dạn đầu tư nguồn lực nhiều hơn cho văn hóa. Từ sau Hội nghị, Hà Nội,
Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Nghệ An... đã tăng mức đầu tư cho văn
hóa cao hơn mức chung của cả nước là 2% so với tổng chi ngân sách địa phương. Chủ
trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa xuất phát từ 12
thực tiễn cuộc sống. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp các nhu cầu của địa
phương, để xây dựng Chương trình. Dựa trên nhu cầu, các địa phương tập hợp số liệu
sơ bộ lên tới 350 nghìn tỷ đồng đầu tư cho văn hóa trong tầm nhìn 10 năm.
Việc đầu tư cho văn hóa cần phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Kinh
nghiệm được đúc rút đó là nên đầu tư cho các hoạt động văn hóa có sự lan tỏa, tác
động xã hội, sẽ trở thành “vốn mồi”, định hướng thu hút đầu tư các thành phần khác
trong xã hội. Ở nước ngoài, nhà nước tổ chức các sự kiện văn hóa có sức ảnh hưởng,
sau đó ở các sự kiện lần tiếp theo sẽ được duy trì tổ chức bởi các hiệp hội, công ty tổ
chức sự kiện hay bất kỳ cơ quan nào đó được giao nhiệm vụ.
Một ví dụ về những hoạt động thiết thực trong công cuộc xây dựng và phát triển văn
hóa là tỉnh Thừa Thiên – Huế. Công tác trùng tu, bảo tồn, nghiên cứu, sưu tầm, khai
thác, phát huy giá trị di sản Huế đặc biệt được chú trọng và mức đầu tư này ngày càng
được tăng lên. Các giá trị văn hóa phi vật thể đã được bảo tồn, khôi phục, khai thác và
phát huy hiệu quả. Công tác sưu tầm, bảo tồn các làng nghề thủ công truyền thống,
làng văn hóa dân tộc được quan tâm thực hiện gắn với phát triển du lịch. Công tác bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số được tỉnh quan tâm, đã có nhiều chính
sách, chương trình, dự án hỗ trợ nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho đồng
bào các dân tộc thiểu số . Nhiều phong tục, tập quán lành mạnh, nghề truyền thống, lễ
hội truyền thống, văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng
Tổng kết lại, thay đổi thể chế chính sách là bước đầu “cởi trói” và tháo điểm nghẽn
cho đầu tư văn hóa. Các luật liên quan đến văn hóa mới chỉ dừng ở tuyên ngôn chính
sách là chính, chưa quy định được chính sách ưu đãi cho đầu tư văn hóa, nhất là huy
động nguồn lực xã hội hóa. Khi chúng ta huy động được tổng hợp các nguồn lực của
Nhà nước, tư nhân và cộng đồng thì văn hóa mới thực sự phát triển. 13 KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, sau 75 năm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Số phận
dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi", nền văn hóa dân
tộc Việt Nam và hệ giá trị con người Việt Nam đã được Đảng chăm lo xây dựng và
phát triển bền bỉ. Trên tinh thần kế thừa, tích hợp và phát triển cùng chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam không chỉ phát huy những giá trị tích cực,
tốt đẹp của truyền thống dân tộc mà còn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bản sắc, cốt cách và bản
lĩnh văn hóa Việt Nam, vừa truyền thống vừa hiện đại, luôn được tiếp biến và hoàn
thiện, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Qua thời gian, con người Việt Nam – với trí tuệ, bản lĩnh, văn hóa và đạo đức, được
nuôi dưỡng trên nền tảng lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm – đã trở thành động lực
của cuộc cách mạng và là chủ thể sáng tạo nên nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Các yếu tố văn hóa như chủ nghĩa yêu nước, các giá trị chân – thiện – mỹ,
tinh thần đoàn kết, nhân ái, ý chí tự lực tự cường... tiếp tục được củng cố và phát huy
qua từng giai đoạn lịch sử, góp phần quan trọng vào những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Để tiếp tục hiện thực hóa chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng "văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi", toàn bộ hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức về vai trò
quan trọng của văn hóa trong quá trình xây dựng đất nước. Văn hóa cần được xây
dựng đồng thời với phát triển kinh tế, và quá trình xây dựng văn hóa cần phải gắn với
công cuộc chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch và vững mạnh. Việc phát triển
văn hóa không chỉ dừng lại ở các hoạt động văn học, nghệ thuật hay bảo tồn di sản, mà
cần chú trọng đến việc tạo môi trường văn hóa lành mạnh, đồng bộ với phát triển kinh
tế - xã hội bền vững.
Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế về văn hóa, phát huy những yếu tố tích cực
và hạn chế những yếu tố tiêu cực từ cả trong và ngoài nước. Điều này nhằm đảm bảo
sự phát triển cân đối giữa kinh tế, văn hóa và xã hội, tạo nền tảng tinh thần vững chắc
cho sự phát triển của đất nước. Đồng thời, việc tăng cường nguồn lực cho hoạt động
văn hóa sẽ giúp văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, định hình lối sống và những giá
trị tốt đẹp của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh rằng các cấp ủy, chính quyền cần gắn
kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, và việc xây dựng con người Việt Nam
mới phải được chú trọng trong cả hệ thống chính trị, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên và người đứng đầu. Điều này sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển
bền vững, đưa đất nước tiến lên trong thời kỳ mới. 14 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh: Anh hùng dân tộc, Danh nhân thế giới; Trang tin điện tử
Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh; 2015.
3. Ts. Đặng Thị Minh Nguyệt, Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
văn hóa và nâng tầm văn hóa Việt Nam; Tạp chí Cộng sản; 2022.
4. Phs.TS Bùi Đình Phong, Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa năm 1943-nhìn từ
hôm nay; Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam; 2023.
5. TS Văn Thị Thanh Mai - TS Vũ Văn Tuấn; "Văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi"; báo Quân đội Nhân dân; 2021.
6. GS, TS. Đinh Xuân Dũng; Văn hóa với sự phát triển bền vững của đất nước;
Tạp chí Cộng sản; 2019.
7. Đầu tư cho văn hóa chưa ngang tầm với sứ mệnh soi đường cho quốc dân đi -
Bài 1: Đầu tư cho nền tảng tinh thần của xã hội; báo Quân đội Nhân dân; 2024. 16