
















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE
----------***----------
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH BÀI TẬP LỚN
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lí gì”.
Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay. Họ và tên: Nguyễn Minh Trang Lớp:
POHE Truyền thông Marketing 65 MSV: 11231688 Giảng viên: TS. Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội, năm 2024 A - Mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp) và giải phóng con người.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về độc lập dân tộc và tự do,
hạnh phúc có vai trò đặc biệt quan trọng, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, thứ mà ngày nay vẫn tiếp tục soi sáng và dẫn dắt công cuộc đổi mới xây dựng
đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đến chiến thắng hoàn toàn.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong thời đại này ta
càng ngày càng thấm thía ý nghĩa của câu nói: “Nước độc lập mà người dân không
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” của Người.
Về kết cấu, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 phần:
1. Tư tưởng Hồ Chính Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân
3. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay 1 B - Nội dung I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề dân tộc thuộc
địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả
xâm phạm của mọi dân tộc. Bản chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân,giải phóng dân tộc, xây dựng Nhà nước dân tộc. Cách vấn đề như
vậy về thuộc địa bắt nguồn từ thực tế tình hình đất nước ta lúc bấy giờ. Từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt trong nhận thức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh - người đầu tiên thực hiện trong lịch sử Việt Nam. Nhờ đó mà Người
hiểu rõ hơn vai trò của giai cấp công nhân, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, muốn giải phóng dân tộc thì nhất
định phải đi theo con đường cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết dân tộc trên nền tảng của liên minh công-nông,
phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Đầu tiên, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc. Người dân Việt Nam đã luôn chiến đấu để bảo vệ cái quyền ấy trong suốt
chiều dài lịch sử của mình. Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất trên đời là:
Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Người đã sớm nhận thức được
đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu tranh giành lại quyền thiêng liêng đó.
Tiếp theo, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người đánh giá rất cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy
khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu chính 2
phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm cho dân có ăn
có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực hiện thành công 4 điều đó
để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng cho rằng quyền độc lập, tự do dân tộc cần
phải tuân theo chặt chẽ 5 nguyên tắc:
Thứ nhất, quyền độc lập, tự do của dân tộc phải thật sự, toàn diện và triệt để.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi
dân tộc... Hễ một dân tộc đã kiên quyết đứng lên đấu tranh cho tổ quốc họ thì không
ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ”. Người nhấn mạnh quyền độc lập, tự do
là quyền tự nhiên và thiêng liêng của các dân tộc, và công cuộc giành giữ quyền này
được đánh đổi bằng xương máu, mọi sự xâm phạm vào quyền đó đều trái với đạo lý
và lẽ phải. Bên cạnh đó, Lê-nin trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết” cũng
khẳng định rằng: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết”. Như vậy, một quốc gia được xem là độc lập, tự do khi quốc gia dân tộc đó có
đầy đủ quyền tự quyết, tự chủ đối với vận mệnh của mình; có quyền lựa chọn con
đường phát triển mà không bị lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi các dân tộc khác. Trên cơ
sở nghiên cứu các cuộc cách mạng tiêu biểu của thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra
những bài học kinh nghiệm đối với cách mạng Việt Nam là: đã đấu tranh cho quyền
độc lập, tự do của dân tộc thì đó phải là độc lập, tự do thực sự, hoàn toàn, triệt để.
Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của
chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”; “Việt Nam hoàn toàn thống nhất và
độc lập, có quốc hội riêng, chính phủ riêng, quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế và tài chính riêng”.
Thứ hai, quyền độc lập, tự do của dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc là mục tiêu, lẽ sống, khát
vọng của dân tộc Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mục tiêu và khát
vọng đó chỉ thật sự có được khi nó mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và phồn
vinh thật sự cho nhân dân. Sau thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí 3
Minh nhận ra con đường giành độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới giải phóng các dân tộc bị áp bức. Bởi theo Người, “chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đấu
tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc mới chỉ là giai đoạn đầu tiên, là tiền
đề, cơ sở vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Để hiện thực hóa điều đó, Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải
thực hiện ngay: 1- Làm cho dân có ăn. 2- Làm cho dân có mặc. 3- Làm cho dân có
chỗ ở. 4- Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi
đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội vừa là con đường củng cố độc lập, vừa là điều kiện cơ bản
giúp bảo vệ và phát triển quyền tự do của dân tộc.
Thứ ba, quyền độc lập, tự do của dân tộc gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Quyền độc lập, tự do của dân tộc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
phải thể hiện trên góc độ là một quốc gia có chủ quyền, có sự thống nhất và toàn vẹn
về lãnh thổ. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ý
chí thống nhất Tổ quốc của nhân dân cả nước không bao giờ lay chuyển”. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi, tuy nhiên, quyền độc lập, tự do của
dân tộc vừa mới giành lại không bao lâu thì thực dân Pháp tiếp tục mưu đồ xâm lược
chúng ta lần thứ hai. Ngay trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”. Với ý chí và quyết tâm của toàn dân
tộc, cuộc kháng chiến chống thực Pháp của nhân dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang,
buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ. Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, nhận thấy
bản chất âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam, một lần nữa
Người khẳng định: “Nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, vì nước ta là một khối,
không ai chia cắt được... đó là nguyện vọng thiết tha của toàn thể nhân dân ta từ Bắc
đến Nam”. Cho đến cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn bày tỏ 4
một niềm tin và khát vọng rằng: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất
định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta
nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Thực
hiện lời di huấn của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã tiếp tục
giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa non sông về một mối
vào mùa Xuân năm 1975, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ bốn, quyền độc lập, tự do của dân tộc phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp,
pháp luật thế giới buộc phải thừa nhận và tôn trọng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, những giá trị cao quý về quyền độc lập, tự do
của dân tộc chỉ được hiện thực hóa và buộc thế giới phải công nhận và tôn trọng khi
nó được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Ngay từ rất sớm, trong “bản Yêu sách
của nhân dân An Nam”, Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải xóa chế độ cai trị bằng
sắc lệnh, phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương để ghi nhận những quyền cơ bản
của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, những yêu cầu chính đáng mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đưa ra đã không được thực dân Pháp chấp nhận. Từ đó Người hiểu được rằng,
việc xây dựng và ban hành một bản Hiến pháp để bảo đảm quyền lợi của dân tộc và
của người dân là cần thiết và chỉ có thể thực hiện được khi đất nước giành được quyền
độc lập, tự do và người dân được làm chủ vận mệnh của dân tộc mình. Khi đó, Hiến
pháp sẽ là văn kiện pháp lý quan trọng để ghi nhận các quyền cơ bản của dân tộc trong
các hoạt động đối nội và đối ngoại, buộc cộng đồng quốc tế phải công nhận và tôn trọng.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên cơ sở
thực tế và pháp lý bền vững đã được nêu lên trong các bản Tuyên ngôn độc lập của
nước Pháp và nước Mỹ, bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã khẳng định một cách
dứt khoát quyền độc lập, tự do chính đáng của dân tộc Việt Nam mà không ai có thể
chối cãi được. Đây cũng chính là văn kiện pháp lý để khẳng định về quyền độc lập và 5
tự do của dân tộc Việt Nam; là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam đón quân đồng
minh vào giải giáp quân phát xít với tư cách là một nước độc lập, có chủ quyền.
Tiếp đó, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
chú trọng nhiệm vụ xây dựng một bản Hiến pháp dân chủ. Người yêu cầu phải tổ chức
sớm cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, trên cơ sở đó tiến hành soạn thảo Hiến
pháp dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc quyết
tâm với tinh thần một người hô vạn người hưởng ứng, tiến hành thành công cuộc
Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946, bầu ra Quốc hội khóa I. Đến ngày 9-11-1946, bản
Hiến pháp 1946 chính thức được Quốc hội nước ta nhất trí thông qua. Bản Hiến pháp
1946 chính là sự thể chế hóa các quyền cơ bản của dân tộc, các quyền tự do dân chủ
của người dân, phản ánh rõ rệt thắng lợi của cuộc đấu tranh giành quyền độc lập, tự do
của dân tộc. Với những nội dung cơ bản của mình, Hiến pháp 1946 đã “hợp hiến hóa”
những quyền cơ bản của dân tộc, bảo đảm cho dân tộc Việt Nam thực hiện các hoạt
động đối nội và đối ngoại với tư cách là một nước độc lập, có chủ quyền và đầy đủ các
quyền dân tộc tự quyết buộc thế giới phải công nhận và tôn trọng.
Thứ năm, đấu tranh vì quyền độc lập, tự do của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng
quyền độc lập, tự do của dân tộc khác.
Là một người dân yêu nước, cũng là một chiến sĩ cộng sản chân chính, Chủ
tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình, mà còn có
trách nhiệm đấu tranh cho độc lập, tự do của tất cả các dân tộc bị áp bức khác, góp
phần vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng thế giới. Người sớm nhận thấy
âm mưu của chủ nghĩa đế quốc là tìm mọi cách chia rẽ dân tộc nhằm tạo sự biệt lập,
gây ra thói thù ghét dân tộc, sự bất bình đẳng, từ đó làm suy yếu phong trào đấu tranh
giành quyền độc lập, tự do ở các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, tất cả các dân tộc phải có
trách nhiệm và bình đẳng với nhau trong công cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung với
tinh thần giúp bạn là tự giúp mình. Để đạt được mục tiêu chung, Người nói, cần phải
“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên
minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Cũng chính quan 6
điểm này của Người đã góp phần đưa dân tộc Việt Nam hòa chung nhịp đập với các
dân tộc thuộc địa trên thế giới trong phong trào đấu tranh vì quyền độc lập, tự do.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan niệm rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của
giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải
phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Chủ nghĩa xã hội còn được
hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một quá trình lịch sử lâu dài để từng
bước đạt tới mục tiêu.
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà Người đặc biệt
quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chế độ ta là
chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá
của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo
trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân
tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm
vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân 7
tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra
từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội
Việt Nam nửa thuộc địa nửa phong kiến.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân
chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả
hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân
tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Bên cạnh đó, khi đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo –
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu
sắc, triệt để thì càng tạo ra những tiền đề thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Vả lại, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh
khẳng định là con đường cách mạng vô sản, vì vậy bản thân cuộc cách mạng này ngay
từ đầu đã mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh
đúng đắn và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu cầu khách quan, cụ thể của cách
mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc
một cách hoàn toàn triệt để.
Hồ Chí Minh cho rằng độc lập dân tộc luôn gắn liền với cuộc sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân – những người đã góp phần trực tiếp vào chiến thắng
lợi ích của cuộc cách mạng dân dân chủ. Để bảo vệ nền tảng vững chắc và tránh rơi
vào tình trạng lệ thuộc, thiếu thốn hay lạc hậu, con đường tất yếu phải hướng đến việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội lý tưởng, nơi không
còn sự áp bức hay bóc lột; mọi người đều được xử lý bằng nguyên tắc "làm nhiều ảnh
hưởng nhiều, làm ít ảnh hưởng ít, không làm không ảnh hưởng". Xã hội này đảm bảo
phúc lợi cho người cao tuổi, trẻ mồ côi, đồng thời gắn liền với sự phát triển của nhà 8
sản xuất và khoa học - kỹ thuật, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người lao động. Đây cũng là một xã hội có kỷ cương, đạo đức và văn minh, nơi
con người đối xử với nhau như bạn bè, đồng chí, anh em, và mọi người đều có cơ hội
phát triển toàn diện khả năng của mình. Xã hội đó còn là một xã hội hòa bình, hữu
nghị, sẵn sàng làm bạn với các quốc gia khác, nhân dân lao động làm chủ dưới lãnh
đạo đạo của Đảng Cộng sản.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người
chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội
trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản
chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát
huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện,
nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều
kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã
hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do
của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững
chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để. II.
Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước giành được độc lập nhưng
vẫn đối mặt với những hậu quả nặng nề từ chế độ thực dân và phong kiến, với nạn đói
cướp đi sinh mạng của hàng triệu người và tình trạng nghèo khó lan tràn. Trước tình
cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ
cấp bách hàng đầu. Theo Người, độc lập và thống nhất đất nước không thể tách rời tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Người khẳng định: "Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy, trong phiên
đầu tiên của phủ Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đưa ra sáu nhiệm vụ cấp thiết, gồm: 9
chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chợ,
thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đoàn kết...
Để thực hiện các mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân cứu đói và
tăng sản xuất, coi cuộc chiến chống đói như chống giặc ngoại xâm. Phong trào cống
hiến lương thực và tăng cường sản xuất nông nghiệp đã nhanh chóng giúp giải quyết
cơn đói. Bài hát với chiến dịch diệt giặc đói là chiến dịch xóa mù chữ, với hàng triệu
người đã biết đọc và viết trong thời gian ngắn, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh rằng "Những người đã biết chữ hãy dạy cho những điều đó" chữ người chưa
biết". Chính quyền mới cũng chú ý đến giáo dục, y tế và các chính sách Phúc lợi xã hội.
Hồ Chí Minh cũng đã đặt nền móng pháp lý cho nhà nước mới bằng cách tổ
chức Tổng tuyển cử và thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và
các quyền dân chủ của nhân dân. Người cũng nhắc nhở quản lý chính quyền phải "yêu
dân, kính dân" và phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính sách giảm thuế điền cho nông
dân, giảm tô cho tá điền và các biện pháp bảo vệ quyền lợi của nông dân trong những
năm đầu kháng chiến là minh chứng cho sự quan tâm của Người đối với cuộc sống
của nhân dân. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn coi trọng việc
đảm bảo hạnh phúc và đời sống tốt đẹp hơn cho mọi tầng lớp nhân dân.
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong quá trình xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng các
chính sách kinh tế với mục tiêu mang lại hạnh phúc và phát triển bền vững cho xã hội.
Người cho rằng các chính sách xã hội đúng đắn không chỉ tạo động lực mạnh mẽ đoàn
kết toàn dân tộc mà còn giúp phát huy tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của nhân
dân. Kết quả của những chính sách xã hội đó cũng sẽ là cơ sở vững chắc ngăn chặn và
làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn chống phá của bọn đế quốc và phản động. 10
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng Ðảng và Nhà nước phải chịu trách nhiệm cao cả
trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Ngay sau Cách mạng
Tháng Tám, Người đã chỉ rõ rằng: "Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho
ai nấy đều có phần hạnh phúc... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại
đến dân, ta phải hết sức tránh”. Đây là nguyên tắc mà Chính phủ coi là kim chỉ nam
chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình kiến thiết và phát triển đất nước.
Hồ Chí Minh còn khẳng định rằng Ðảng và Nhà nước xuất phát từ nhân dân,
vừa là lãnh đạo vừa là người phục vụ nhân dân. Mọi chính sách đều phải đặt lợi ích
của nhân dân lên hàng đầu. Người cho rằng: "Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì Đảng và
Chính phủ có lỗi. Cán bộ từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống của
nhân dân." Việc chăm lo đời sống cho nhân dân, từ tăng gia sản xuất đến tiết kiệm, sẽ
đảm bảo thực hiện thành công các chính sách, bởi nếu dân không đủ ăn mặc, dù chính
sách có hay đến đâu cũng không thể thực hiện được.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã hội
dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến hạnh phúc của mọi tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là những người đã hy sinh cho Tổ quốc. Trong Di chúc, Người dặn
dò Đảng và Chính phủ phải chăm lo đến quyền lợi của các thương binh, binh sĩ, dân
quân, thanh niên xung phong, đảm bảo họ có cuộc sống ổn định và được học nghề phù
hợp. Với những liệt sĩ đã hy sinh, Người đề nghị xây dựng bia tưởng niệm để tỏ lòng
biết ơn và giáo dục thế hệ sau về lòng yêu nước. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh
việc hỗ trợ gia đình của họ, không để ai bị đói rét.
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ, lực lượng tiên phong trong cuộc
kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Người khuyến nghị chọn những thanh niên
ưu tú để đào tạo thành các cán bộ, công nhân kỹ thuật giỏi, có tư tưởng cách mạng
vững chắc, phục vụ xây dựng đất nước. Bác cũng đề cao vai trò của phụ nữ trong
kháng chiến và dặn Đảng cần có kế hoạch giúp phụ nữ phát triển, đảm nhận các vị trí lãnh đạo. 11
Với nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ những khó khăn, gian khổ mà họ
đã trải qua trong cuộc chiến đấu giành độc lập. Người đề xuất miễn thuế nông nghiệp
một năm để mang lại niềm vui, khích lệ nông dân tiếp tục sản xuất và xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài ra, Người còn quan tâm đến những nạn nhân của chế
độ cũ như trộm cắp, gái điếm, buôn lậu, và khuyến nghị sử dụng giáo dục và pháp luật
để cải tạo họ thành những công dân lương thiện.
Sự chăm lo của Bác không chỉ dừng lại ở vật chất, mà còn hướng đến việc tổ
chức cho nhân dân tự xây dựng đời sống hạnh phúc. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh
việc khôi phục kinh tế, phát triển y tế, giáo dục và củng cố quốc phòng. Hơn 40 năm
qua, thực hiện Di chúc của Người, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu trong sự
nghiệp giải phóng và phát triển.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao
động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các
chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ mà nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn
đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải
được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, nâng cao
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí. Thực hiện được như thế
thì độc lập mới thật sự có ý nghĩa, thật sự vững chắc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được
Đảng và Nhà nước cụ thể hóa qua các văn bản pháp luật và chính sách phát triển đất
nước, đặc biệt là trong Hiến pháp và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và
kế hoạch hằng năm đều đặt mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, nhằm xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Trong gần 35 năm đổi mới, các chủ trương này đã góp phần cải thiện rõ rệt đời sống
của người dân, thể hiện qua những tiến bộ trong văn hóa, công bằng xã hội và sự chú
trọng đến việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Chính phủ đã triển khai Chương trình 12
Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, với nguồn vốn từ ngân
sách trung ương lên đến 41.449 tỷ đồng. Ngoài ra, 44.214 tỷ đồng khác đã được phân
bổ cho các chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở, và tín dụng dành cho người nghèo.
Kết quả là, 70% dân số Việt Nam hiện đã được đảm bảo về kinh tế, trong đó 13% đạt
chuẩn khá giả theo tiêu chí quốc tế. Những con số này là minh chứng cho sự thành
công của các chính sách, góp phần đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển bền
vững của Việt Nam trong tương lai.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Đảng và Chính phủ đã triển khai nhiều
chính sách hỗ trợ nhằm giúp đỡ những người dân có nguy cơ rơi vào nghèo đói. Các
chính sách này tập trung vào các hộ gia đình nghèo, cận nghèo, và các đối tượng được
bảo trợ xã hội – những người có thu nhập dưới 1 triệu đồng mỗi tháng trong khoảng
thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Tổng số tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước
lên tới 62 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho 2.244.000 hộ gia đình trên cả nước. Bên cạnh đó,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động phong trào toàn dân ủng
hộ phòng, chống dịch COVID-19. Phong trào này kêu gọi các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, cũng như đồng bào Việt Nam ở nước ngoài,
cùng tham gia với tình cảm và trách nhiệm, nhằm hỗ trợ nỗ lực chống dịch. Nhờ sự
đoàn kết của toàn xã hội, tổng số tiền và hiện vật đã được quyên góp đạt gần 1.600 tỷ
đồng. Những biện pháp này không chỉ đảm bảo cuộc sống của nhân dân và giúp họ
vượt qua khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra, mà còn thể hiện chính sách nhân
văn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đồng thời thể hiện sự chăm sóc kịp thời đối
với người nghèo và những người mất việc làm. Điều này là minh chứng rõ ràng cho
bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, rõ ràng rằng câu nói “Nước độc lập mà người dân không được hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
luôn có ý nghĩa mạnh mẽ, không chỉ trong thời kì cũ mà còn cả trong thời đại ngày
nay. Đảng và Nhà nước ta vẫn đang áp dụng đúng theo nguyên tắc “Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng”, cố gắng từng bước để đất nước ta trở nên tươi đẹp hơn. 13 C - Kết luận
Vậy là đã 110 năm kể từ khi người thanh niên ấy ra đi tìm đường cứu nước, mang
trong mình khát vọng độc lập, tự do, và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Khát vọng
và tầm nhìn của Người vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc cho đến
hôm nay. Trên con đường hội nhập quốc tế, chúng ta ngày càng thấu hiểu hơn giá trị
nền tảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố niềm tin, quyết tâm kiên định theo đuổi
mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, giúp đất nước vững
bước cùng thế giới. Người sớm nhận thấy giá trị của chủ nghĩa xã hội, coi đó không
chỉ là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của độc lập dân tộc mà còn là nền tảng để bảo vệ
vững chắc độc lập, tự chủ và định hướng đổi mới cho chúng ta hôm nay. Chỉ khi độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước mới có nền độc lập trọn vẹn, nhân
dân mới thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Theo quan điểm của Người: “Nước độc
lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Trong thời đại của Người, “độc lập, tự do, hạnh phúc” không chỉ là khát vọng mà đã
trở thành hệ giá trị vô giá, là lẽ sống, lý tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và
toàn dân ta kiên định thực hiện. Lý tưởng và khát vọng được sống trong một Việt Nam
hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc đã trở thành nguồn động lực đưa dân tộc ta đến
thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, và trên hành trình xây dựng và phát
triển đất nước ngày một vững mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa. 14
Các nguồn tham khảo
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/6789/tu-tuong-
ho-chi-minh-ve-chu-nghia-xa-hoi.aspx
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/- /2018/839902/view_content
https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-nhung-cot-loi-trong- tu-tuong-Ho-Chi-Minh-156
https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/noi-dung-tu-tuong-dao-duc/tu-
tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi-23
https://tcnn.vn/news/detail/18736/Cham_lo_cho_hanh_phuc_cua_nhan_danall.html 15 Mục lục Table of Contents
A - Mở đầu.................................................................................................................................. 1
B - Nội dung............................................................................................................................... 2 I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .......................................... 2 1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ....................................................................................................... 2 2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc .............................................................................. 2 3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................................................................. 7 4.
Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa .................................................................... 7
II. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân .......................................... 9 1.
Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng ............................. 9 2.
Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. .......................................................................................................... 10 3.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã hội dễ bị tổn thương nhất 11
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay ............................................................. 12
C - Kết luận ............................................................................................................................ 14
Các nguồn tham khảo ......................................................................................................... 15
Mục lục .................................................................................................................................. 16 16