














Preview text:
BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ
ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay. Họ tên : Nguyễn Thu Hương MSV : 11217100 Lớp
: LLTT1101(222)_24 – TTHCM GV hướng dẫn
: Thầy Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội 2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................. 3
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc .................................... 3
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc ............................................................................................................ 3
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân ........ 5
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để ....... 6
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ............... 6 II.
Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay ................................. 7
1. Ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay ....................................... 7
2. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do,
hạnh phúc dân tộc ........................................................................................ 12
KẾT LUẬN......................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 14 1 LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc, là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta,
trong đó tư tưởng của Người về độc lập dân tộc là một bô phận hết sức
quan trọng, thể hiện một trí tuệ, một tầm nhìn vượt thời đại, và trên hết
là một tấm lòng luôn hướng về nhân dân, về đất nước. Theo chủ tịch Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ.
Đồng thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc
của độc lập dân tộc. Điều đó được Người khái quát thành chân lý sâu
sắc: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Đây là tư tưởng về độc lập dân tộc
và gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý
luận và thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trở thành chiến lược cách
mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Tuy nhiên, do kiến thức và thời gian tìm hiểu còn hạn chế, bài làm
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ
Thầy để bài tập được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! 2 NỘI DUNG CHÍNH I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay
gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói
lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là luôn mong muốn có được một nền độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng,
bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng:
“Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”
Năm 1919, nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất họp Hội nghị Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu
nước, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao
gồm 8 điểm với 2 nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các
quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Bản yêu sách không được Hội
nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền bình đẳng và tự do
đã hình thành. Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người -
“những quyền mà không ai có thể xâm phạm được” được ghi trong bản Tuyên
ngôn độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Cách mạng Pháp 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng
liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình 3
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945,
thay mặt chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân
đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong lời kêu gọi Liên hợp quốc năm
1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để
bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất. Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập
cho đất nước.” Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể
hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng
liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh
ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của
các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc 4
lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng
chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari,
cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân
tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục,
trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp
năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam
đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người
cũng xác định rõ ràng mục tiêu đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập… Thủ tiêu hết các thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế do dân cày
nghèo… Thi hành luật ngày làm 8 giờ.” Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải
gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ…, Hồ Chí
Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Có thể thấy rằng, trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi độc lập gắn liền 5
với tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu
bài mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc
lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che
đậy bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có
quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân quân đội riêng, không có nền tài
chính riêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn
cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn
thù trong giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã cùng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện
pháp ngoại giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu xâm lược và chia cắt đất
nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ
có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân
Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi
độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là
“Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần nữa. Nhưng, trong Thư gửi đồng 6
bào Nam Bộ (1946) Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước
Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi”. Sau khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kỳ kết, đất nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất
Tổ quốc. Tháng 2/ 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một.” Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự
thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ
đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. II.
Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ và đã thu được
nhiều thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân,
toàn quân nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện và không ngừng được nâng cao.
Trong những năm qua, đặc biệt là trong gần 40 năm đổi mới, các chủ trương
chính sách và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới đem
lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững. Điển
hình là công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những thành tựu to 7
lớn.Thành tựu đáng kể của Việt Nam trong công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được
quốc tế công nhận: tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh từ 57% vào đầu những năm 90
xuống còn 5,2% vào năm 2020. Tuy nhiên gần đây hơn, hậu quả của COVID-19 đã
làm gián đoạn quá trình tạo việc làm và tăng thu nhập, có khả năng đẩy lùi tiến bộ
trong giảm nghèo và gia tăng bất bình đẳng hơn nữa do thu nhập của phụ nữ,
những người làm việc trong khu vực phi chính thức và các hộ gia đình nghèo nhất
phục hồi chậm nhất từ giữa năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Theo Tổng cục thống
kê, GDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương
4.110 USD. Nhìn lại gần 40 năm đổi mới, có thể nhận thấy, chính sách xã hội ở
nước ta được triển khai tích cực, toàn diện, với hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ,
ngày càng hoàn thiện; phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan
trọng trong việc chăm lo cho con người.
Thứ nhất, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển
biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002,
2006, 2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao
động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có
liên quan đến quan hệ lao động như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể,
tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động,
giải quyết tranh chấp cho người lao động… Việc xây dựng, triển khai thực hiện
Luật Việc làm và Chương trình việc làm công đã góp phần định hướng nghề
nghiệp, ổn định và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. Chất lượng lao động
qua đào tạo không ngừng tăng lên, cơ cấu ngày càng phù hợp thị trường lao động.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người. Tỷ lệ 8
tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021 là 67,7%, trong đó tỷ lệ lao động
qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2021 là 26,1%.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền
vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực
hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo, những năm qua, nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa
chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các huyện xã nghèo, ở khu
vực biên giới, đảo còn nhiều khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh
xã hội so với bình quân cả nước. Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo
từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ đó, thành tựu
về giảm nghèo của Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá
cao; tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2023 chỉ chiếm 4.03% tương đương với
1.057.374 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo cả nước chiếm 3.49 % tương đương với 915.274 hộ.
Thứ ba, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ
thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên
một vạn dân tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao
chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh
vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe người
dân. Các chủ trương, giải pháp phát triển hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi
trọng cả về xây dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự phòng, y học cổ truyền,
quản lý thuốc, khám, chữa bệnh,... Trong năm 2022, số người tham gia bảo hiểm y
tế đạt 91,1 triệu người, chiếm 92,04% dân số, tăng hơn 2,2 triệu người so với năm 2021. 9
Thứ tư, chính sách ưu đãi người có công được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm và ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế độ ưu đãi toàn diện
hơn. Cùng với chính sách ưu đãi của người có công, các đối tượng tham gia các
thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung
phong, dân quân du kích…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và hỗ trợ
của nhà nước và cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người có công, tri ân các anh
hùng, liệt sĩ ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Công tác tìm kiếm,
quy tập hài cốt liệt sĩ được chú trọng, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc ta trong điều kiện mới.
Thứ năm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện,
đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kết hợp với
xã hội hóa, mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và
tham gia. Tính đến hết tháng 9/2022, đã có trên 17,08 triệu người tham gia BHXH,
đạt 37,01% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng khoảng 537.000 người so với
cuối năm 2021, trên 14 triệu người tham gia BHTN đạt 28,3% lực lượng lao động
trong độ tuổi, tăng 627.000 người với cuối năm 2021. Hệ thống an sinh xã hội
không ngừng phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng
huy động và cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên
những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc
thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội được xây dựng và từng bước hoàn thiện, đối
tượng hưởng ngày càng nâng lên; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro… 10
Thứ sáu, từng bước đảm bảo cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một
số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn và đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y
tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, ban hành và thực
hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hôn
nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia
đình; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu
tư về kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nói chung việc chăm lo sức khỏe đời sống vật chất tinh thần cho người dân đã
được nâng cao rất nhiều đời sống người dân tăng cao sau gần 40 năm thực hiện đổi
mới Việt Nam đã được nhiều thành tựu to lớn toàn diện cùng với tăng trưởng kinh
tế sự ổn định của kinh tế vĩ mô được duy trì các mặt chính trị, xã hội, quốc phòng -
an ninh được đảm bảo và ổn định trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ vì
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế phát
triển nguồn năng lao động và chất lượng lao động khoa học và công nghệ. Thành
tựu đó ngày càng khẳng định luận điểm đúng đắn của Bác về vấn đề độc lập, tự do,
hạnh phúc sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của
đổi mới khích lệ động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng góp phần quan trọng vào
việc giữ dưỡng ổn định chính trị - xã hội tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ
Đảng và người dân Việt Nam. Đây đúng là kim chỉ nam hành động trong mỗi cán
bộ nằm trong hàng ngũ Đảng, trong mỗi cá nhân thực hiện trách nhiệm phụng sự 11
nhân dân, đối với bạn sinh viên như chúng ta, có thể coi thanh niên là nguyên khí
của quốc gia mọi người phải nhận thức được rằng nhiệm vụ của chúng ta rất nặng
này phải tự hào là mình có quyền tự do mà không phải ai cũng có được điều đó,
thấy được công lao của người đi trước, thấy được truyền thống tố chất của người
Việt Nam. Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội CNXH và con
đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay chúng ta cần học tập và phát huy tinh thần của Bác.
2. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc dân tộc
Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là
các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong nội bộ
Đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lập trường, bản lĩnh, kiên định con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi cấp, ngành và địa
phương, mọi lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với
mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hơn cả, mỗi
công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà, giữ vững nền độc
lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trước hết, là một công dân, mà nòng cốt là thế
hệ trẻ, cần không ngừng nỗ lực và rèn luyện để dựng xây Tổ quốc. Thế hệ trẻ là
mầm non tương lai của đất nước, là những người đóng vai trò quan trọng trong
việc đưa đất nước phát triển sau này, vậy nên việc học tập tốt và tu dưỡng đạo đức,
tác phong là một điều vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, là một công dân, cần biết
yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. Một đất nước, một xã hội chỉ 12
thực sự phát triển và hạnh phúc khi những hạt nhân trong xã hội biết yêu thương,
đoàn kết, gắn bó với nhau vượt qua bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Ngoài ra, là
một công dân, con người ta cần biết tự hào và phát huy truyền thống của dân tộc.
Hãy tự hào về những giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước và phát huy, giữ gìn
cũng như phát triển chúng, mang những nét cổ truyền ấy đi xa hơn trên thế giới
này, để bạn bè khắp năm châu đều biết đến Việt Nam. KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời vì mục tiêu đánh đuổi giặc ngoại
xâm, phá tan xiềng xích nô lệ, xóa bỏ mọi áp bức, bất công, giành lại độc lập cho
dân tộc, đem lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Không chỉ vậy, Người
đã đóng góp hết sức mình vào sự nghiệp giải phóng con người, đấu tranh gải
phóng nhân loại đau khổ, bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân được thể hiện rõ qua
mong ước cháy bỏng: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Đã hàng thập kỷ trôi qua nhưng
tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc gắn liền với hạnh phúc của nhân dân vẫn còn
nguyên giá trị không chỉ hiện tại mà còn đến tận tương lai. Qua đó chúng ta rút ra
được bài học: độc lập dân tộc thì phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Muốn như vậy thì ta cần phải giữ vững nền độc lập dân tộc, xây dựng một nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Có như vậy thì người dân mới được tự do, ấm no,
hạnh phúc. Tuy nhiên, do kiến thức và thời gian tìm hiểu còn hạn chế, bài làm
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ Thầy để bài
tập được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh , NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Bộ GD&DT
2. BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI QUÝ IV VÀ NĂM 2022. (n.d.-
b). https://www.gso.gov.vn/bai-top/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi- quy-iv-va-nam-2022/
3. THÔNG CÁO BÁO CHÍ TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM QUÝ IV NĂM
2021 VÀ CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM 2016-2020.
(n.d.). https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/01/thong-cao-
bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-nam-2021-va-chi-so-phat-trien- con-nguoi-viet-nam-2016-2020/
4. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo. (n.d.). https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-
phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/45891/ty-le-ho-ngheo-ho-
can-ngheo-63-tinh-thanh-pho-tieu-chuan-cong-nhan-ho-ngheo
5. https://dangcongsan.vn/bao-hiem-xa-hoi-bao-hiem-y-te-vi-an-sinh-xa-hoi/hon-
17-trieu-nguoi-tham-gia-bhxh-622947.html
6. https://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2022/04/28/-addressing-
chronic-poverty-ensuring-sustainable-economic-mobility-keys-to-achieving-
vietnam-s-high-income-aspirations 14
Document Outline
- BÀI TẬP LỚN
- ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
- MỤC LỤC
- LỜI MỞ ĐẦU
- NỘI DUNG CHÍNH
- I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
- 1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
- 2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
- 3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
- 4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
- II. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
- 1. Ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay
- 2. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc dân tộc
- KẾT LUẬN
- TÀI LIỆU THAM KHẢO