Bài tập môn chính trị trong quản lí công | Học viện Hành chính Quốc gia

Thuật ngữ “Chính trị” theo tiếng Hy Lạp là Politika, có nguồn gốc từ chữ Pólis – nghĩa là Nhà nước. Với tư cách là một phạm trù, “Chính trị” đã được con người khám phá trong quá trình lịch sử lâu dài và nghĩa cơ bản của nó cũng dần dần được xác định theo thời gian Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Quản lí công 172 tài liệu

Trường:

Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu

Thông tin:
16 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập môn chính trị trong quản lí công | Học viện Hành chính Quốc gia

Thuật ngữ “Chính trị” theo tiếng Hy Lạp là Politika, có nguồn gốc từ chữ Pólis – nghĩa là Nhà nước. Với tư cách là một phạm trù, “Chính trị” đã được con người khám phá trong quá trình lịch sử lâu dài và nghĩa cơ bản của nó cũng dần dần được xác định theo thời gian Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

74 37 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|4963341 3
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. ĐẢNG CHÍNH TRỊ
1.1. Chính trị
Thuật ngữ “Chính trị” theo tiếng Hy Lạp là Politika, có nguồn gốc từ chữ Pólis nghĩa là
Nhà nước. Với cách là một phạm trù, “Chính trị” đã được con người khám phá trong quá trình
lịch sử lâu dài và nghĩa cơ bản của nó cũng dần dần được xác định theo thời gian.
Trong tác phm kinh đin Chính tr lun ca Platon, tác gi đã xem chính tr là ngh
thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng và sự thông minh; sự liên
kết cuộc sống của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái”. Nhà xã
hội học Đức đầu thế kỷ XX- Marx Weber đã xem “Chính trị” là khát vọng tham gia vào quyền
lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia hay giữa
các tập đoàn người trong một quốc gia.
Trong quyn Bách Khoa Triết Hc (Liên Xô) thìChính tr là nhng công vic nhà nưc,
là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tọc và các nhóm xã hội khác nhau mà
hạt nhân của vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước”. Theo “Tđiển Chính trị
văn tắt” (Liên Xô) đã định nghĩa “Chính trị” là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các nhóm
xã hội lớn, trước hết là các giai cấp, cũng như các dân tộc và các nhà nước”.
Ngoài ra còn nhiều cách thức tiếp cận khác nhưng về bản nội hàm của khái niệm
chính trị có thể hiểu theo những nội dung cơ bản sau:
- Chính trị quan hệ lợi ích giữa các giai cấp thông quan việc giải quyết vấn
đề quyềnlực nhà nước.
- Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế đồng thời là chủ thể của kinh
tế.
- Chính trị còn là sản phẩm bởi sự phát triển văn hóa chung trong xã hội.
Như vậy, Chính trị là quan hệ lợi ích mà cơ bản nhất là lợi ích kinh tế giữa các giai cấp,
các nhóm xã hội của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải quyết các vấn đề quyền lực nhà nước
vì sự tiến bộ của xã hội ở một trình độ phát triển văn hóa và văn minh nhất định.
1.2. Đảng Chính trị
1.2.1. Khái niệm Đảng chính trị
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lenin thì Đảng chính trị sản phẩm tất yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp. Nghiên cứu bản chất của đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản, P. Ăngghen
cho rằng đấu tranh chính trị giữa các giai cấp biểu hiện tập trung nhất ở cuộc đấu tranh giữa các
chính đảng. Đảng chính trị là “con đẻ” của cuộc đấu tranh giai cấp, ra đời một cách tự giác khi
cuộc đấu tranh giai cấp phát triển ở trình độ cao đến mức cần phải có một tchức tham mưu lãnh
đạo, điều hành thống nhất về tưởng hành động của cả giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp
của nhân loại bao giờ cũng có những tổ chức tương tự như đảng chính trị song lịch sử thật sự của
đảng chính trí bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp sản chống phong kiến mà cụ thể gắn
lOMoARcPSD|4963341 3
liền với các cuộc cách mạng tư sản Châu Âu cuối thế kỷ XVIII phát triển mạnh mẽ trong xã
hội ngày này.
Đảng chính trị bao giờ trước hết mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị đội ngũ
tiên phong, tổ chức cao nhất. chặc chnhất của một giai cấp. tập hợp những người giác
ngộ nhất, kiên quyết nhất trong đấu tranh thực thi quyền lực và lợi ích của giai cấp mình. Đảng
chính trị đại diện cho hệ tưởng, quyền lực lợi ích của một giai cấp nhất định, không đảng
nào phi giai cấp hay siêu giai cấp. Các đảng chính trị đều hướng đến giành, sử dụng hay chi
phối, khống chế quyền lực nhà nước để phụ vụ cho mục đích chính trị của mình.
Cũng như Nhà nước, Đảng chính trị cũng giải quyết các xung đột chung, những vấn đề
chung của cả xã hội nhằm ổn định và phát triển xã hội theo định hướng mà Đảng mong muốn.
Vậy, Đảng chính trị một tổ chức chính trị bao gồm những đại biểu của một giai cấp
hay tầng lớp xã hội, dựa trên hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị nhất định phản ánh lợi ích của
giai cấp hay tầng lớp mà đảng đại diện.
Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm
giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp
mình đại diện. các nước theo chế độ đại nghị thì Đảng cầm quyền Đảng chính trị đang chiếm
đa số ghế trong cơ quan Lập pháp của Nhà nước. Một số trường hợp khi Đảng chính trị nào
giành đa số quá bán số ghế trong cơ quan Lập pháp thì Đảng chiếm tỷ lệ phần trăm cao phải liên
kết với các Đảng khác nhỏ hơn để thành lập Liên minh cầm quyền nhằm giành được quyền thành
lập Chính phủ. Điển hình là ở các nước như Bồ Đào Nha, Đức, Nhật Bản…
Còn các nước theo chế độ Cộng hòa Tổng thống với lưỡng đảng tranh cử thì cả hai đảng
tuy mâu thuẩn nhau những vẫn sự thỏa hiệp nhau vviệc luân phiên nắm giữ quyền lực nhà
nước. Thường thì khi đảng này giành lấy quyền hành pháp thì đảng kia sẽ chiếm đa số trong Nghị
viện. Điển hình nhất chính là chế độ Cộng hòa Tổng Thống tại Hoa Kỳ.
Ngoài ra ở nước ta, Đảng cầm quyền để chỉ vai trò của Đảng khi đã giành được chính
quyền; cũng nghĩa Đảng lãnh đạo khi đã chính quyền, Đảng lãnh đạo toàn hội bằng
chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” này lần đầu tiên được V.I.Lenin nêu ra. Sau này Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền
của Đảng như :Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính
quyền, Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc của mình: “Đảng ta một
đảng cầm quyền”. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định trong Điều lệ Đảng được Đại hội
X thông qua : “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
1.2.2. Vai trò của Đảng chính trị
Theo các nhà nghiên cứu tư sản phương Tây thì vai trò của các đảng chính trị đối với đời
sống xã hội là vô cùng to lớn. Nhưng nó cũng chia thành hai mặt tích cực tiêu cực. Đảng lãnh
đạo, điều hành chính quyền nhà nước, tổ chức giai cấp các lực lượng chính trị tiến hành đấu
tranh chính trị; đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tiến hành giáo dục chính trị
cho công chúng; bảo vệ lợi ích của đất nước; tiến hành bầu cử, ớng bầu cử vào quỹ đạo đã
lOMoARcPSD|4963341 3
được quy định đảm bảo thay đổi chính quyền một cách hòa bình; đảm bảo cho pháp luật
một trình độ cao.
Tuy nhiên, Đng chính tr cũng gây chia r nhân dân, tách nhân dân ra khi chính tr; thc
hiện tuyên truyền bằng những phương pháp không lành mạnh; kích thích sự tham vọng chính trị;
tạo những điều kiện cho sự tham nhũng; hạn chế tự do danh chủ của nhân dân nhất của
từng cá nhân. Chính vì thế mà hiện nay đã xuất hiện trào lưu tư tưởng cho nội dung chống đảng,
tiêu biểu là ở các nước thứ ba. Mặc vậy, hiện nay vai trò của đảng chính trị vẫn còn mang tính
tích cực đối với đời sống chính trị và là thành phần cơ bản của các chế độ dân chủ.
Vai t rò tíc h cc hay tiêu cc c a mt đng chín h tr đi v i s phát trin ca xã hi còn
tùy vào nhiều yếu tố khác nhau trong những điều kiện cụ thể nhưng bản địa vị lịch sử
bản chất giai cấp đảng đó là người đại diện, cương lĩnh chính trị cùng mức độ ủng hộ của giai
cấp cách mạng mà quan trọng nhất hiệu quả chính trị - hội của nó. Theo V.I.Lenin thì “Nhận
rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật
sự của đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không phải là những lời họ nói về bản thân họ,
xem họ giải quyêt các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như thế nào trong những vấn
đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác nhau trong xã hội”. Tác dụng của mỗi
đảng trong cuộc đấu tranh để hiện thực hóa quyền lực chính trị, lợi ích giai cấp đối với sự phát
triển của đời sống hội không giống nhau. Nhưng trước hết vai trò lãnh đạo của đảng cầm
quyền bao giờ cũng là nhân tố quyết định xu hướng phát triển của đất nước.
2. PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN
2.1. Tại các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng
2.1.1. Chế độ đa nguyên chính trị
Chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đã trở thành phổ biển trong nền chính trị
sản.
Đa nguyên chính trị được hiểu một thể chế chính trị đó tồn tại nhiều đảng phái
chính trị đối lập và đấu tranh với nhau đòi chia sẽ quyền lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội.
Sự đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong nền chính trị sản một tất yếu khách
quan, xuất phát từ bản chất bóc lột của giai cấp sản sự bất công hội của chế độ bản
chủ nghĩa. Giai cấp tư sản là giai cấp bóc lột mâu thuẫn lợi ích với quảng đại quần chúng nhân
dân mâu thuẫn kết cấu nội bộ nhiều tầng bậc. Ngay khi khởi đầu cách mạng sản,
chung mục đích là lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ bản chủ nghĩa nhưng mỗi tầng
lớp tư sản khác nhau với những lợi ích cục bộ không giống nhau, họ lập ra các đảng đại diện cho
quyền lợi của tầng lớp mình. Giai cấp tư sản còn cần phải tập hợp các lực lượng trung gian thành
đồng minh để tang cường thực lực đảm bảo cho sự chiến thắng giai cấp phong kiến. Tuy tham
gia đấu tranh cùng giai cấp tư sản nhưng các lực lượng trung gian còn có lợi ích riêng, trong đấu
tranh, cũng từng bước trưởng thành, lập ra các đảng để bảo vệ lợi ích của giai cấp hay tầng lớp
mình. Vì vậy ngay trong quá trình giành chính quyền, cách mạng tư sản đã mang trong mình nó
một cố kết chính trị nhiều đảng.
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở
thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, các tổ chức độc
lOMoARcPSD|4963341 3
quyền lực lượng ngang bằng nhau bình phông “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình
đẳng trong xã hội do các tổ chức độc quyền lũng đoạn.
Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp
tư sản chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và các trào lưu tiến bộ trên thế
giới bằng việc đòi mở rộng tự do dân chủ vô chính phủ nhằm chống lại nguyên tắc tập trung dân
chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng và các tổ chức chính trị đối lập nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo
của đảng Cộng sản, từng bước đẩy đảng Cộng sản ra khỏi vị trí lãnh đạo hội, đòi xây dựng
nhà nước theo mẫu pháp quyền tư sản bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm và các
đảng phái đối lập nhau nhưng thực chất là đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Sự đa nguyên chính trị hay đa đảng đối lập của nền dân chủ sản nói chung, hệ thống
thể chế chính trị bản chủ nghĩa nói riêng cũng chủ yếu diễn ra trong tranh cử vào Nghị viện
các chức vụ như Tổng thống, Thủ tướng hay các cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe
phái. Về nguyên tắc và hình thức, các đảng đều tự do và bình đẳng, đều có khả năng thắng cử để
trở thành đảng cầm quyền. Nhưng thực tế, chnhững đảng lớn, thế lực, sự hậu thuẩn
thuật lợi, mới khả năng thắng cử trở thành đảng cầm quyền, thực hiện sự lãnh đạo hệ thống
chính trị và toàn xã hội.
Các đảng không cầm quyền, kể cả đảng “đối lập”, cũng cố gắng tham gia lãnh đạo xã hội
bằng thực hiện sự kiểm soát đối với toàn xã hội từ việc soạn thảo cương lĩnh, chính sách đến việc
tổ chức bộ máy, tuyển chọn cán bộ tổ chức thực hiện chính sách, tìm mọi cách đưa đại biểu
của đảng mình vào những cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước cả lập pháp, hành pháp
tư pháp.
2.1.2. Phương thức tác động của Đảng chính trị cầm quyền
- Lập Pháp: phương thức tác động của Đảng chính trị nói chung và Đảng chính trị
cầm quyền vào quan lập pháp hành vi chính trị căn bản để tạo lập công cụ quyền lực theo
một hình chính trị nhất định. Việc làm này được thực hiện bằng cách đưa những sách lược
chính trị, đường lối chính trị của đảng mình vào khuôn khổ của pháp luật, nghĩa thể chế hóa
những quan điểm của đảng thành Hiến pháp, pháp luật, cơ chế chính sách, quy định pháp lý. Khi
một bản Hiến pháp của nhà nước sản ghi nhận những điều đó thì thường biểu hiện như sau:
quy định quyền bầu cử và ứng cử của công dân theo hướng có lợi cho giai cấp tư sản thống trị;sự
xuất hiện của nhiều đảng phái khác nhau trong một ý thức hệ, một mục tiêu giai cấp, tác động
vào nhà nước; vai trò tác động của đảng cầm quyền đến lập pháp còn liên quan đến địa vị của
các đảng phái trong sinh hoạt nghị trường như tổ chức nhóm nghị sĩ của đảng trong Nghị viện)
- Hành Pháp: phương thức tác động của Đảng cầm quyền đối với ngành Hành pháp
được biểu hiện qua hai cách chủ yếu: Thứ nhất, khi Đảng chiếm đa số ghế trong quan Lập
pháp ( Quốc hội, Nghị viện hay Hội đồng liên bang…) thì quan Lập pháp sẽ chuyển sự tác
động của Đảng cầm quyền đối với Chính phủ hay Nội các. Đây quan hệ căn bản được thể hiện
trong Hiến pháp, luật và các hoạt động khác của nghị viện ở các nước theo chế độ nghị viện; Thứ
hai, thông qua quan Lập pháp hay thông qua bầu cử trực tiếp chọn người đứng đầu quan
hành pháp mà đảng chính trị tìm mọi cách đưa người vào, tác động đến dân chúng đặc biệt là cử
tri để tranh thủ phiếu cầu cho ứng cử viên của mình hay người mình muốn.
lOMoARcPSD|4963341 3
- Tư Pháp: phương thức tác động của Đảng cầm quyền đối với Tư pháp diễn ra êm
đềm, quanh co tế nhị hơn lập pháp hành pháp nhưng về bản thể hiện hai phương
diện: việc lựa chọn, bổ nhiệm các quan tòa thuộc thẩm quyền của các Nguyên Thủ quốc gia trong
sự kết hợp với các Bộ trưởng (thường là Bộ trưởng Bộ Tư pháp) mà Nguyên thủ quốc gia và Bộ
trưởng là sản phẩm của quá trình tác động của Đảng cầm quyền vào bầu cử trước đó.
Quyền lập tòa án đặc biệt, xét xử các nhân vật chính trị cao cấp, các quan chức hành chính cao
cấp thường thuộc về Nghị viện mà Nghị viện là nơi thi thố thực lực chính trị của các đảng phái.
- Chính quyền địa phương: Đối chính quyền địa phương thì các đảng chính trị tiếp
tục tranh cử ở quan chính quyền địa phương để giữ quyền điều hành hoặc thông qua mối quan
hệ chấp hành của chính quyền địa phương đối với chính quyền Trung ương chi phối hoạt
động của chính quyền địa phương.
2.2. Tại các nước chế độ nhất nguyên chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản
2.2.1. Chế độ nhất nguyên chính trị
Nhất nguyên chính trị của một Đảng Cộng sản cầm quyền là vấn đề cốt tử của chủ nghĩa
xã hội nói chung, của việc xây dựng hệ thống thể chế chính trị của nhân dân lao động nói riêng.
Nhất nguyên chính trị được hiểu một chế độ chính trị trong một quốc gia, vai trò
chi phối định hướng điều hành hội thuộc về một lực lượng chính trị với một tưởng chính
trị và một đảng chính trị chủ yếu.
Trong chế đ chính tr nht nguyên, cũng có th có nhiu đng phái chính tr cùng tn ti.
Tuy nhiu đng khác nhau nhưng các đng không đi lp v tư tưng, cùng chung mc đích
chính trị. Trong đó, một đảng chấp chính, các đảng còn lại chỉ tham chính và chấp nhận sự
lãnh đạo của đảng cầm quyền. Ngược lại trong nền chính trị đa đảng cũng có thể là nhất nguyên
nếu trong nền chính trị đó, chỉ một đảng (hay vài đảng lợi ích cụ bộ khác nhau nhưng
cùng bản chất, một lợi ích cơ bản, một lý tưởng) cẩm quyền, còn đảng đối lập thì yếu ớt, không
có cơ hội cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ cho phép của đảng cầm quyền thông qua pháp
luật thì thực chất chế độ chính trị đó cũng là chế độ nhất nguyên.
Mác và Ăngghen đã nói trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về việc xác định vai trò
lịch sử nguyên tắc xây dựng đảng chính trị của giai cấp công nhân. Ăngghen viết : Để cho
giai cấp vô sản trong giời phút quyết định có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng thì nó cả Mác
và tôi đều kiên trì lập trường này từ năm 1847 phải lập ra một đảng riêng, tách biệt và đối lập
với tất cả các đảng khác, ý thức được mình đảng của giai cấp” (Mác, Ăngghen toàn tập).
Từ đó, để hoàn thành sứ mạng đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, những đảng viên của Đảng phải
bộ phận tích cực nhất, có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; khả năng nhìn xa,
trông rộng, họ thấy ngay trong cuộc đấu tranh hằng ngày của giai cấp công nhân khi xét trên
giác độ mục đích cuối cùng của giai cấp đó tính chất là địa biểu cho “lợi ích của toàn bộ phong
trào”. Như vậy, sự trung thành của người cộng sản đối với lợi ích cơ bản của giai cấp mình tuyệt
nhiên không nghĩa sự biệt lập tính chất phái khỏi các phong trào cách mạng ngoài
giai cấp vô sản.
lOMoARcPSD|4963341 3
Những luận điểm trên đã giúp Lênin xây dựng và phát triển học thuyết về Đảng kiểu mới
nói chung, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ…của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị nói
riêng.
Nhất nguyên chính trị của một Đảng cộng sản cầm quyền là do bản chất của giai cấp công
nhân quy định; từ thực tế cách mạng hội chủ nghĩa cũng từ bài học xương máu của giai
cấp công nhân.
2.2.2. Phương thức tác động của Đảng Cộng sản cầm quyền
Về cơ bản các nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản không tổ chức theo nguyên tắc
“Tam Quyền Phân Lập” thực hiện việc thống nhất quyền lực nhà nước nhưng sự phân
công, phối hợp giữa các quan trong việc thực hiện quyền Lập pháp, Hành pháp pháp
cũng như giữa các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương.
- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách; lãnh
đạoNhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - hội tổ chức nhân dân thực hiện
hiệu quả.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ
đủtiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào quan nhà nướclãnh đạo xây dựng bộ máy đảng,
bộ máy nhà nước.
- Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước (đảng đoàn, ban
cánsự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với nhân đảng viên hoạt động trong quan nhà nước
đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đảng đảng viên công tác trong quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp
hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
thôngqua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ
chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của
cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt
yếu kém để uốn nắn, khắc phục.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của đảng
viên,thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách công
tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ n
bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.
PHẦN II
THỰC TIỄN PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN
LÊN CƠ QUAN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP
VÀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
lOMoARcPSD|4963341 3
1. Thực tiển tại Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ
Hoa Kỳ luôn tự xem mình “thành trì” của thế giới tự do, luôn sử dụng chiêu bài “đa
nguyên, đa đảng” “nhân quyền cao hơn chủ quyền” nhưng thực chất tại quốc nội thì quyền
lực chính trị không hề thuộc về người dân. Chính thức từ năm 1860 đến nay, nền chính trị Hoa
Kỳ đều bị chi phối bởi hai đảng là Đảng Dân Chủ ( còn gọi là phe Bồ Câu) và Đảng Cộng Hòa
(còn gọi phe Diều Hâu). Hai đảng này tuy bề ngoài mâu thuẩn nhau cả về đường lối đối nội
lẫn đối ngoại nhưng thực chất thống nhất với nhau trong việc chia sẽ quyền lực chính trị
bảo vệ quyền lợi của giai cấp sản tài phiệt cầm quyền sau lưng. Không giống các quốc gia
khác, cấu tổ chức của các đảng chính trị tại Mỹ rất lỏng lẻo. Đối với hai đảng chính, không
thiết chế nào cấp quốc gia chức năng kiểm soát số đảng viên, các hoạt động của đảng,
hoặc quan điểm chính trị, mặc dù ở cấp tiểu bang có một số cơ quan đảm nhiệm công việc này.
- Lập Pháp: Hệ thống lập pháp Hoa Kỳ tổ chức theo chế độ Lưỡng viện là Hạ Viện
Thượng Viện cùng với việc vừa phân quyền vừa chia quyền giữa hai viện trong hoạt động lập
pháp. Việc thực hiện chế độ lưỡng viện này nhằm mục tiêu cân bằng giữa một Chính phủ
Trung ương đủ mạnh quyền tự quyết của Tiểu Bang đủ lớn. Đây là nơi hai đảng chính trị cầm
quyền tìm cách nắm giữ để thông qua các dự Luật nhằm bảo vệ nhóm lợi ích mà mình đại diện
nói riêng lợi ích chung của giai cấp sản nói chung. Hiện tại Đảng Cộng Hòa đang giữ quyền
ở Hạ Viện còn Đảng Dân Chủ đang giữ ghế đa số ở Thượng Viện.
Điễn hình về việc lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ tuy mâu thuẫn nhau nhưng cuối cùng cũng
thông qua dự luật về việc nâng trần nợ công cho Chính phủ Mỹ. Một mặt cho ta thấy sự mâu
thuẫn nội bộ trong giai cấp sản nhưng mặt khác cũng cho thấy sự thỏa hiệp giữa chúng. Và
việc này chỉ càng làm Chính phủ Hoa Kchìm sâu vào nợ nần và càng ngày càng lệ thuộc vào
tư bản tài phiệt (đứng sau lưng của Fed).
- Hành Pháp: Với chế độ Cộng hòa Tổng Thống thì Tổng thống Hoa Kỳ do người
dân trực tiếp bầu ra người đứng đầu Chính phủ Liên bang. Trên thực tế người dân Mỹ không
trực tiếp bầu chọn tổng thống của mình, thay vào đó một cử tri đoàn gồm các đại cử tri bỏ
phiếu. Chính thế mọi người dân đều quyền bầu cử nhưng thực chất quyền quyết định
thuộc về các Đại cử tri với sự chi phối của giai cấp tư sản độc quyền. Điển hình năm 2000, ứng
viên đảng Dân chủ Al Gore giành được 48,38% phiếu phổ thông toàn quốc so với đối thủ phe
Cộng hòa George Bush được 47,87%. Dù vậy, ông Bush vẫn giành chiến thắng do nhận được
271 phiếu đại cử tri so với 266 của Al Gore. Bang quyết định Florida, nơi tất cả 25 phiếu đại
cử tri rơi vào tay Bush chênh lệch giữa hai ứng viên về phiếu phổ thông tại bang này chỉ
537.
Tổng thống Hoa Kỳ người đứng đầu Chính phủ, được quyền bổ nhiệm Bộ trưởng
các thành viên khác của Chính phủ Hoa Kỳ cũng như các cơ quan cấp Liên bang khác. Ngoài ra,
Tổng thống còn có quyền trình dự luật lên Nghị viện, ký ban hành luật khi Nghị viện thông qua
hoặc bác bỏ nó nếu không muốn. Hơn nữa, Tổng thống cũng ảnh hưởng đến Tư pháp thông qua
đề cử thẩm pháp cấp liên bảng của tòa án cấp liên bang của Tối cao Pháp viện. Tổng thống
Hoa Kỳ là người nắm trong tay toàn bộ quyền Hành pháp cấp liên bang và ảnh hưởng đến cả Lập
pháp Tư pháp nên luôn là mục tiêu của cả hai đảng trong cuộc chay đua giành quyền lực chính
trị.Bởi đại diện của đảng nào trở thành Tổng thống thì quan điểm chính trị của đảng đó trở thành
lOMoARcPSD|4963341 3
quan điểm của cả hệ thống hành pháp và tác động đến cả 2 nhánh kia. Đồng thời các đại biểu cao
cấp của đảng đó cũng trở thành các quan chức cao cấp của Chính phủ liên bang, từ đó thuận tiện
hơn trong việc giành quyền lợi kinh tế cho giai cấp. Thực tế đây là cuộc đua khóc liệt nhất giữa
hai đảng cũng tốn kém nhất. Vào năm 2010, Tối cao Pháp viện Hoa Ktuyên bố “Quyên
góp chính trị là một hình thức tự do ngôn luận” bỏ mọi quy định về trần của quyên góp bầu
cử ở Mỹ. Năm 2008, ông Obama đã tiêu tốn hơn 700 triệu USD trong cuộc tranh cử mà chủ yếu
từ các quỹ vận động tranh cử của các tập đoàn tài phiệu.Trong cuộc vận động tranh cử Tổng
thống Hoa Kcho kbầu cử 2016, tính đến tháng 8/2015 thì ứng viên Jeb Bush (Đảng Cộng
Hòa) đã nhận số tiền 120 triệu USD mà chủ yếu từ các tập đoàn tư sản tài phiệt.
- Tư Pháp: Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ là định chế quyền lực cao nhất của nhánh
pháp trong Chính trị Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện tòa án duy nhất được thiết lập bởi Hiến pháp.
Tất cả tòa án liên bang khác được thành lập bởi quốc hội. Thẩm phán tòa tối cao (hiện nay
chín người) được bổ nhiệm trọn đời bởi tổng thống được phê chuẩn bởi Thượng viện. Một
trong chín thẩm phán được chọn để trở nên Chủ tịch Pháp viện hay Chánh Án (Chief Justice).
Ảnh hưởng của Đảng chính trị đối với Tối cao Pháp viện khá mờ nhạt nhưng thực chất ảnh
hưởng mang tính ngầm. Bởi dù gì các vị thẩm phán cũng do Tổng thống chi phối nên họ vẫn
sản phẩm của cuộc tranh giành quyền lực lưỡng đảng. Với quyền lớn nhất “giải thích Hiến
pháp Hoa Kỳ”, Tối cao Pháp viện sẽ giải thích Hiến pháp theo hướng có lợi cho đảng cầm quyền
nói riêng và giai cấp tư sản nói chung.
- Chính quyền Địa phương: Thể chế Liên bang của Mỹ đã trao cho chính quyền
địa phương rất nhiều quyền trong việc hoạch định và thực thi chính sách tại tiểu bang cũng như
triển khai các chương trình của Chính phủ Liên bang tại tiểu bang. Tại các tiểu bang cũng tổ
chức chính quyền thành ba nhánh (Lập pháp Hành pháp Tư pháp) như Liên bang. Và tại đây,
vẫn diễn cuộc đua tranh quyền chính trị giữa hai đảng. Từ đó chính sách của đảng cầm quyền
được thi cấp độ tiểu bang đồng thời tăng uy tính của đảng tại tiểu bang cũng lợi cho đảng
trong cuộc đua cấp liên bang. Thực tế, chính quyền cấp tiểu bang đều nằm trong tay hai đảng
Dân chủ và Cộng hòa trong sự mâu thuẩn nhưng thống nhất của hai đảng.
Như vậy mặc dù theo thể chế đa nguyên chính trị nhưng thật ra là sự thống nhất của giai
cấp sản cẩm quyền. Hai đảng chính trị Dân chủ Cộng hòa vừa cạnh tranh vừa thống
nhất nhau trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của số ít
nhà tài phiệt cầm quyền chứ không hề đại diện cho người dân.
2. Thực tiễn tại Việt Nam
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước xã hội, chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước
nhân dân, dân tộc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được nhân dân thừa nhận, ủy quyền,
giao phó được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội (năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) trong Hiến pháp năm
1980, 1992 2013. Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định địa vị pháp của Đảng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
lOMoARcPSD|4963341 3
nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và điều kiện để
Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
của mình. Trong những năm đổi mới, Đảng luôn củng cố, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà
nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình - cầm quyền vì lợi ích của nhân dân. Nội dung chủ
yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn để
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật; tăng cường quản cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng
đảng viên trong quan quản nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng
trang nhân dân, doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng pháp
luật của Nhà nước.
đảng cầm quyền, lại nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa nên phương thức lãnh
đạo của Đảng “phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”. Đảng lãnh đạo Nhà nước
nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước. “Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động,
tổ chức, kiểm tra, giám sát bằng hành động gương mẫu của đảng viên”. Đảng cầm quyền,
nhưng tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là phải lãnh đạo tất cả các nhánh quyền lực: lập pháp, hành
pháp, pháp mọi cấp, từ trung ương đến địa phương sở. Đối với Nhà nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam, “Quyền lực nhà nước thống nhất; sự phân công, phối hợp
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,pháp”. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân do Đảng lãnh đạo. Quyền lực nhà nước xét cho cùng bắt
nguồn từ quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền
lực. Đảng lãnh đạo Nhà nước các tổ chức chính trị - hội rốt cuộc cũng nhằm thực thi quyền
lực của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân. “Quyền hành là ở nơi dân” như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần khẳng định.
Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể nêu ra những định
hướng sau đây:
- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách; lãnh
đạoNhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - hội tổ chức nhân dân thực hiện
hiệu quả.
- Đảng lãnh đạo bằng định hướng giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân
sinh,hoặc các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng quan hệ tới các tầng lớp nhân
dân đông đảo hoặc quan hệ đến lĩnh vực đối ngoại.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ
đủtiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào quan nhà nước lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng,
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
lOMoARcPSD|4963341 3
- Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước (đảng đoàn, ban
cánsự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với nhân đảng viên hoạt động trong quan nhà nước
đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh
chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
và cácđoàn thể thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời
lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc
hoạt động của quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực
để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của đảng
viên,thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách công
tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ n
bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.
2.1. Đối với Quốc Hội
Trong nhng năm đi mi, cùng vi quá trình xây dng nhà nưc pháp quyn xã hi ch
nghĩa đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, hoạt động của Quốc hội ngày
càng đổi mới, dân chủ, phát huy được vai trò, chức năng của Quốc hội. Quốc hội ngày càng thực
quyền hơn, hiệu quả lãnh đạo của Đảng ngày càng nâng lên, thể hiện ở chỗ:
- Các văn kiện của Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương các
khóađã xác lập được quan điểm đúng đắn làm sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt
động của Quốc hội.
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra các nghị quyết để đưa ra Quốc
hộinhững định hướng lớn về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; định hướng, yêu cầu về tổ chức bầu cử
Quốc hội cho từng nhiệm kỳ; định hướng xây dựng các đạo luật lớn, các vấn đề kinh tế - xã hội
quan trọng; định hướng phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; Ban Chấp hành Trung ương quyết
định việc giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu vào chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ. Bộ Chính trị quyết định việc giới thiệu nhân sự bầu vào chức vụ Phó Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các ủy ban của Quốc
hội,…
- Sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp Bộ Chính trị đối với Quốc hội thể hiện tầm
quanđiểm, chủ trương, chính sách lớn. Vai trò lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp Bộ Chính trị đối
với Quốc hội ngày càng theo phương thức là Đảng chỉ nêu định hướng, nguyên tắc, quan điểm,
chủ trương, giải pháp lớn; còn để Quốc hội thảo luận, dân chủ quyết định theo thẩm quyền những
điều khoản của các đạo luật, chỉ tiêu kinh tế - hội hằng năm,… những vấn đề tuy lớn nhưng
Bộ Chính trị chỉ nêu phương hướng để Quốc hội thảo luận một cách dân chủ, quyết định về mặt
nhà nước, không áp đặt.
lOMoARcPSD|4963341 3
- Đảng lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt sang
hoạtđộng ở Quốc hội. Bố trí một số Ủy viên Bộ Chính trị Ủy viên Trung ương Đảng cần thiết
tham gia o Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm chủ nhiệm các ủy ban, hội đồng của Quốc hội.
- Trung ương Đng và B Chính tr thông qua Đng đoàn Quc hi và các đng viên
làđại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm
trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn đường lối, chủ
trương của Đảng, quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của
Bộ Chính trị. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt
động của Quốc hội.
Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội, các quan liên quan thực hiện tốt việc
chuẩn bị cho các kỳ họp của Quốc hội, bảo đảm cho dự án luật, những vấn đề quan trọng khác
trình tại kỳ họp và các quyết định của Quốc hội phù hợp với đường lối của Đảng, đồng thời lắng
nghe để tiếp thu ý kiến xây dựng của đại biểu Quốc hội, tôn trọng quyết định của Quốc hội, tăng
cường thảo luận, tranh luận, chất vấn đại biểu Quốc hội, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Quốc
hội. Nhờ vậy, hoạt động của Quốc hội ngày càng chất lượng, hiệu quả cao, sôi động hơn, thu hút
sự quan tâm ngày càng rộng rãi của dư luận xã hội trong nước.
2.2. Đối với Chính phủ
Trong quá trình đi mi, Đng đã có đi mi quan trng v phương thc lãnh đo ca
Đảng đối với Chính phủ, ngày càng phù hợp với vị trí và trách nhiệm của Đảng cầm quyền cũng
như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ cơ quan công quyền, vừa không ngừng
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ;
giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Chính phủ, thể hiện ở chỗ:
-Đã xây dựng được một hệ thống quan điểm, nguyên tắc đúng đắn về thẩm quyền trách
nhiệm, về tổ chức bộ máy của Chính phủ. Tổ chức các bộ và cơ quan ngang bộ theo hướng quản
đa ngành, đa lĩnh vực. Chính phủ thống nhất quản việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa, hội, quốc phòng, an ninh đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ, các bộ ngành
tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy
hoạch, chính sách quản đối với sự phát triển kinh tế - hội, chỉ đạo kiểm tra việc
thực hiện. Chính phủ điều hành mô, người cầm lái giám sát, kiểm tra, kiến tạo sự phát
triển, bảo đảm hiệu lực của bộ máy hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
- Xác định ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ, giữa Ban Chấp
hànhTrung ương, Bộ Chính trị với Ban Cán sự đảng của Chính phủ. Với cách người lãnh
đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ
đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ trương cụ
thể thuộc phạm vi quản của Chính phủ. Đảng không m thay chính quyền. Ban Chấp hành
Trung ương, B Chính tr xem xét, quyết đnh nhng phương hưng, ch trương, chính sách lớn
trên các lĩnh vực bảo đảm đúng định hướng chính trị của Đảng. Chẳng hạn, về kinh tế - hội,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định mục tiêu, phương hướng kế hoạch,
phương hướng ngân sách nhà nước, chính sách về các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ chế
quản lý, quy hoạch phát triển một số vùng, ngành trọng yếu, chủ trương xây dựng những công
lOMoARcPSD|4963341 3
trình lớn, trọng điểm quốc gia; chính sách về văn hóa, hội, giáo dục, khoa học, y tế v.v.. Trong
lĩnh vực cải cách hành chính, Ban Chấp hành Trung ương ban hành chủ trương, nghị quyết về
cải cách hành chính, còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành kế hoạch tổng thể về cải
cách hành chính cho từng giai đoạn tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề
quan trọng liên quan tới hoạt động của Chính phủ Đảng cần bàn ra quyết định rất cần
thiết đtránh được sự lẫn lộn giữa chức ng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản của
Chính phủ.
- Đảng bố trí một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng tham
giaBan Cán sự Đảng Chính phủ, tham gia lãnh đạo Chính phủ các bộ, quan ngang bộ
(thông qua cơ chế Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán
sự
Đảng Chính phủ trực thuộc Bộ Chính trị, còn Ban Cán sự Đảng các bộ quan ngang bộ trực
thuộc Ban Bí thư. Ban n sự đảng làm việc theo chế độ tập thể chịu trách nhiệm trước cấp
ủy.
Ban Cán sự đảng lãnh đạo quán triệt tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng;
đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền;
lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Ban Cán sự đảng
Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước Trung ương Đảng toàn bộ hoạt động của Chính phủ về
thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng trong Chính phủ, là người trình các đề án
về chủ trương, chính sách trước Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Trong công tác cán
bộ, đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đang công tác tại các cơ quan trực
thuộc Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đề xuất nhân sự, nhận xét, đánh giá cán bộ, các
ban đảng Trung ương thẩm định, trình Bộ Chính trị, Ban thư xem xét, quyết định. Đối với cán
bộ thuộc diện được phân cấp quản của Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng Chính
phủ quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có ý kiến thẩm định của các ban đảng Trung
ương.
- Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân, công an
nhândân sự nghiệp quốc phòng - an ninh, tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà
nước đối với quốc phòng và an ninh.
2.3. Đối với ngành Tư pháp
Trong nhng năm đi mi, phương thc lãnh đo ca Đng trên lĩnh vc tư pháp có nhiu
đổi mới, góp phần bảo đảm cho cơ quan pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp
pháp của mọi người dân, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, thể hiện
ở chỗ:
- Đảng đã xây dựng được một hệ thống quan điểm tưởng chỉ đạo hoạt động ngành
tưpháp, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban thư, lãnh đạo thể
chế hóa những quan điểm đó thành Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, thành Luật tổ
chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (2002), và các đạo luật khác. Đặc
biệt, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 ngày 2 tháng 6 năm 2005 về
lOMoARcPSD|4963341 3
Chiến lược cải cách pháp đến năm 2020,trong đó quy định tương đối toàn diện, hệ thống
mục tiêu, quan điểm, phương thức, nhiệm vụ cải cách pháp đến năm 2020; khẳng định yêu
cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vcông lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành hiệu quả và đạt hiệu lực cao; Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo
cải cách tư pháp để xây dựng Đề án cải cách pháp chương trình công tác hằng năm của Ban
Chỉ đạo.
- Đã xác định quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động của quan
phápvà tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh pháp làm sở cho đổi mới, hoàn thiện tổ chức của
tòa án nhân dân viện kiểm sát nhân dân. Kể từ Hiến pháp năm 1992, tổ chức hoạt động của
tòa án nhân dân đã một số đổi mới: Chế độ bầu thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng
chế độ bổ nhiệm thẩm phán; lập mới các tòa chuyên trách (tòa hành chính, tòa lao động, tòa kinh
tế). Thực hiện chủ trương của Đảng Nhà nước về cải cách pháp, nhiều quy định của pháp
luật về tổ chứchoạt động của tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới,
tạo sở pháp cho việc đổi mới tổ chức hoạt động của tòa án, qua đó góp phần nâng cao
chất lượng xét xử của tòa án, hạn chế bớt các trường hợp bị xét xử oan sai. Trong xét xử đã
quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng, coi trọng vai trò của luật sư.
Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và chủ trương cải cách tư pháp, chức năng, nhiệm vụ của
viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh nhằm thực hiện hiệu lực hiệu quả chức năng chủ
yếu của mình, tránh chồng chéo trong hoạt động với các cơ quan khác, tập trung thực hiện chức
năng công tố và kiểm sát tư pháp, giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động phá sản
doanh nghiệp.
Công tác thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra các vụ án hình sự đã tiến bộ,
chất lượng công tác kiểm sát được nâng lên. Tòa án các cấp và Viện Kiểm sát các cấp coi trọng
việc rèn luyện phẩm chất, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ a án viện kiểm
sát.
- Kiện toàn Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao(đều trực thuộc Ban thư). Xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc, quy định quan
hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với hai ban cán sự đảng này; xác định mối
quan hệ làm việc với Đảng đoàn Quốc hội,… Ban Cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao
Vin Kim sát nhân dân ti cao phi chu trách nhim lãnh đo công tác ca ngành theo đúng
chủ trương, đường lối của Đảng quy định của pháp luật, có trách nhiệm trong giải quyết công
tác cán bộ đủ năng lực, phẩm chất để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ và chức danh của
cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Đảng lãnh đạo ngành tòa án nhưng tôn trọng tính độc lập trong xét xử của tòa án.
Khixét xử, tòa án chỉ tuân theo pháp luật, “Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” (Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Vì vậy, đã giảm nhiều tình trạng cấp ủy can thiệp
vào công tác xét xử của tòa án, nhất là quyết định mức án cụ thể, giảm nhiều tình trạng “bản án
bỏ túi”. Đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng có liên quan đến an ninh chính trị, đối ngoại,
đến cán bộ thuộc diện BChính trị, Ban thư quản hoặc theo đề nghị của các quan
lOMoARcPSD|4963341 3
pháp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo về chủ trương xử lý, nhưng không quyết định những vấn
đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp4.
- Chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các chức danh tư pháp
vànhân viên hoạt động trong cơ quan tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tư pháp làm tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh thống nhất; góp
phần bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội,…
2.4. Đối với Chính quyền địa phương
Do Việt Nam theo chế độ nhà nước đơn nhất, chính quyền địa phương không chủ quyền
riêng mà cánh tay nối dài của Chính phủ tại địa phương. Tại các cấp chính quyền, Đảng luôn
có cấp Ủy đảng tương ứng như Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy... Tổ chức đảng tại địa phương có 02
chức năng quan trọng:
Một là: lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước ở địa phương.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản xuất, kinh doanh,
nâng cao hiệu quả công tác của địa phương; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; động viên quần chúng nhân dân hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của địa phương đối với
Nhà nước, cụ thể:
- Tổ chức đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hoạt động ở địa phương theo
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo sản xuất,
kinh doanh, công tác chuyên môn, nghiệp vụ, quốc phòng, an ninh, văn hóa - hội… đạt hiệu
quả ngày càng cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân; hoàn
thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhà nước Cộng hòa hội Chủ nghĩa
Vit Nam mt cách toàn din và sâu sc trên tt c các khía cnh ca t chc chính quyn t
Trung Ương đến đa phương.
lOMoARcPSD|4963341 3
KẾT LUẬN
Đảng chính trị một tổ chức đóng vai trò cùng quan trọng trong đời sống chính trị
hiện nay. Đảng chính trị sản phẩm tất yêu của cuộc đấu tranh giai cấp nhưng cũng là phương
tiên tiện quan trọng để các giai cấp sử dụng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị cho
giai cấp mình. Đảng chính trị là đội tiên phong, là bộ tham mưu chiến đấu cho quyền lực lợi
ích của giai cấpmình đại diện trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Thông qua Đảng chính
trị, các giai cấp tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lực nhà nước bằng nhiều
cách để bảo vệ lợi ích thiết thân của giai cấp.
Đối với các nước hội Chủ nghĩa nói chung Việt Nam nói riêng, vai trò của Đảng
Cộng sản cầm quyền cùng lớn . Bởi Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân
Vit Nam cùng mt lúc va làm tư sn cách mng, va làm dân tc cách mng và làm giai cấp
cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc
Vit Nam.
Vai tr ò l ãnh đo c a Đng Cn g sn Vi t Nam đưc Ch tch H Ch í Minh nê u rõ trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng
mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm sản dân quyền cách mạng (révolution démocratique
bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng
công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại
mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Tri qua 85 năm lãnh đo cách mng, Đng Cng sn Vit Nam đã tng bưc thc hin
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra
nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược
Vit Nam, c dân tc Vit Nam đã nghe theo li kêu gi ca Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng
chiến cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược lập lại hoà
bình miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN miền Bắc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược miền
Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng miền Nam mở rộng chiến
tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền
"đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
(1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành một trong
những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt
Nam quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy ttrung thành
của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách
sở rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng
lớp nhân dân ủng hộ, tin đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng
lOMoARcPSD|4963341 3
lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong
chiến tranh giải phóng chiến tranh giữ nước, cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
85 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, quãng thời gian chưa dài
nhưng những giai cấp, dân tộc đã thực hiện được quả phi thường. Nếu không phải
một đảng Mác xít-Lêninnít chân chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với
chủ nghĩa Mác-nin, tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam thật vĩ
đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng lãnh tụ của giai cấp, của dân tộc, xứng đáng chính
đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.
| 1/16

Preview text:

lOMoARcPSD|49633413 PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. ĐẢNG CHÍNH TRỊ 1.1. Chính trị
Thuật ngữ “Chính trị” theo tiếng Hy Lạp là Politika, có nguồn gốc từ chữ Pólis – nghĩa là
Nhà nước. Với tư cách là một phạm trù, “Chính trị” đã được con người khám phá trong quá trình
lịch sử lâu dài và nghĩa cơ bản của nó cũng dần dần được xác định theo thời gian.
Trong tác phẩm kinh điển “Chính trị luận” của Platon, tác giả đã xem chính trị là “nghệ
thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng và sự thông minh; sự liên
kết cuộc sống của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái”. Nhà xã
hội học Đức đầu thế kỷ XX- Marx Weber đã xem “Chính trị” là khát vọng tham gia vào quyền
lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia hay giữa
các tập đoàn người trong một quốc gia.
Trong quyển Bách Khoa Triết Học (Liên Xô) thì “Chính trị” là những công việc nhà nước,
là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tọc và các nhóm xã hội khác nhau mà
hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước”. Theo “Từ điển Chính trị
văn tắt” (Liên Xô) đã định nghĩa “Chính trị” là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các nhóm
xã hội lớn, trước hết là các giai cấp, cũng như các dân tộc và các nhà nước”.
Ngoài ra còn có nhiều cách thức tiếp cận khác nhưng về cơ bản nội hàm của khái niệm
chính trị có thể hiểu theo những nội dung cơ bản sau: -
Chính trị là quan hệ lợi ích giữa các giai cấp thông quan việc giải quyết vấn
đề quyềnlực nhà nước. -
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế đồng thời là chủ thể của kinh tế. -
Chính trị còn là sản phẩm bởi sự phát triển văn hóa chung trong xã hội.
Như vậy, Chính trị là quan hệ lợi ích mà cơ bản nhất là lợi ích kinh tế giữa các giai cấp,
các nhóm xã hội và của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải quyết các vấn đề quyền lực nhà nước
vì sự tiến bộ của xã hội ở một trình độ phát triển văn hóa và văn minh nhất định.
1.2. Đảng Chính trị
1.2.1. Khái niệm Đảng chính trị

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lenin thì Đảng chính trị là sản phẩm tất yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp. Nghiên cứu bản chất của đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản, P. Ăngghen
cho rằng đấu tranh chính trị giữa các giai cấp biểu hiện tập trung nhất ở cuộc đấu tranh giữa các
chính đảng. Đảng chính trị là “con đẻ” của cuộc đấu tranh giai cấp, ra đời một cách tự giác khi
cuộc đấu tranh giai cấp phát triển ở trình độ cao đến mức cần phải có một tổ chức tham mưu lãnh
đạo, điều hành thống nhất về tư tưởng và hành động của cả giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp
của nhân loại bao giờ cũng có những tổ chức tương tự như đảng chính trị song lịch sử thật sự của
đảng chính trí là bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến mà cụ thể là gắn lOMoARcPSD|49633413
liền với các cuộc cách mạng tư sản ở Châu Âu cuối thế kỷ XVIII và phát triển mạnh mẽ trong xã hội ngày này.
Đảng chính trị bao giờ và trước hết là mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị là đội ngũ
tiên phong, là tổ chức cao nhất. chặc chẽ nhất của một giai cấp. Nó tập hợp những người giác
ngộ nhất, kiên quyết nhất trong đấu tranh thực thi quyền lực và lợi ích của giai cấp mình. Đảng
chính trị đại diện cho hệ tư tưởng, quyền lực và lợi ích của một giai cấp nhất định, không có đảng
nào là phi giai cấp hay siêu giai cấp. Các đảng chính trị đều hướng đến giành, sử dụng hay chi
phối, khống chế quyền lực nhà nước để phụ vụ cho mục đích chính trị của mình.
Cũng như Nhà nước, Đảng chính trị cũng giải quyết các xung đột chung, những vấn đề
chung của cả xã hội nhằm ổn định và phát triển xã hội theo định hướng mà Đảng mong muốn.
Vậy, Đảng chính trị là một tổ chức chính trị bao gồm những đại biểu của một giai cấp
hay tầng lớp xã hội, dựa trên hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị nhất định phản ánh lợi ích của
giai cấp hay tầng lớp mà đảng đại diện.

Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm
giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp
mình đại diện. Ở các nước theo chế độ đại nghị thì Đảng cầm quyền là Đảng chính trị đang chiếm
đa số ghế trong cơ quan Lập pháp của Nhà nước. Một số trường hợp khi có Đảng chính trị nào
giành đa số quá bán số ghế trong cơ quan Lập pháp thì Đảng chiếm tỷ lệ phần trăm cao phải liên
kết với các Đảng khác nhỏ hơn để thành lập Liên minh cầm quyền nhằm giành được quyền thành
lập Chính phủ. Điển hình là ở các nước như Bồ Đào Nha, Đức, Nhật Bản…
Còn ở các nước theo chế độ Cộng hòa Tổng thống với lưỡng đảng tranh cử thì cả hai đảng
tuy mâu thuẩn nhau những vẫn có sự thỏa hiệp nhau về việc luân phiên nắm giữ quyền lực nhà
nước. Thường thì khi đảng này giành lấy quyền hành pháp thì đảng kia sẽ chiếm đa số trong Nghị
viện. Điển hình nhất chính là chế độ Cộng hòa Tổng Thống tại Hoa Kỳ.
Ngoài ra ở nước ta, Đảng cầm quyền là để chỉ vai trò của Đảng khi đã giành được chính
quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã có chính quyền, Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng
chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” này lần đầu tiên được V.I.Lenin nêu ra. Sau này Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền
của Đảng như :Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính
quyền, Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc của mình: “Đảng ta là một
đảng cầm quyền”. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định trong Điều lệ Đảng được Đại hội
X thông qua : “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
1.2.2. Vai trò của Đảng chính trị
Theo các nhà nghiên cứu tư sản phương Tây thì vai trò của các đảng chính trị đối với đời
sống xã hội là vô cùng to lớn. Nhưng nó cũng chia thành hai mặt tích cực và tiêu cực. Đảng lãnh
đạo, điều hành chính quyền nhà nước, tổ chức giai cấp và các lực lượng chính trị tiến hành đấu
tranh chính trị; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tiến hành giáo dục chính trị
cho công chúng; bảo vệ lợi ích của đất nước; tiến hành bầu cử, hướng bầu cử vào quỹ đạo đã lOMoARcPSD|49633413
được quy định và đảm bảo thay đổi chính quyền một cách hòa bình; đảm bảo cho pháp luật ở một trình độ cao.
Tuy nhiên, Đảng chính trị cũng gây chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi chính trị; thực
hiện tuyên truyền bằng những phương pháp không lành mạnh; kích thích sự tham vọng chính trị;
tạo những điều kiện cho sự tham nhũng; hạn chế tự do danh chủ của nhân dân mà nhất là của
từng cá nhân. Chính vì thế mà hiện nay đã xuất hiện trào lưu tư tưởng cho nội dung chống đảng,
tiêu biểu là ở các nước thứ ba. Mặc dù vậy, hiện nay vai trò của đảng chính trị vẫn còn mang tính
tích cực đối với đời sống chính trị và là thành phần cơ bản của các chế độ dân chủ.
Vai trò tích cực hay tiêu cực của một đảng chính trị đối với sự phát triển của xã hội còn
tùy vào nhiều yếu tố khác nhau trong những điều kiện cụ thể nhưng cơ bản là địa vị lịch sử và
bản chất giai cấp mà đảng đó là người đại diện, cương lĩnh chính trị cùng mức độ ủng hộ của giai
cấp cách mạng mà quan trọng nhất là hiệu quả chính trị - xã hội của nó. Theo V.I.Lenin thì “Nhận
rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật
sự của đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không phải là những lời họ nói về bản thân họ,
xem họ giải quyêt các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như thế nào trong những vấn
đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác nhau trong xã hội”. Tác dụng của mỗi
đảng trong cuộc đấu tranh để hiện thực hóa quyền lực chính trị, lợi ích giai cấp đối với sự phát
triển của đời sống xã hội không giống nhau. Nhưng trước hết vai trò lãnh đạo của đảng cầm
quyền bao giờ cũng là nhân tố quyết định xu hướng phát triển của đất nước.
2. PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN
2.1. Tại các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng
2.1.1. Chế độ đa nguyên chính trị

Chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đã trở thành phổ biển trong nền chính trị tư sản.
Đa nguyên chính trị được hiểu là một thể chế chính trị mà ở đó tồn tại nhiều đảng phái
chính trị đối lập và đấu tranh với nhau đòi chia sẽ quyền lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội.
Sự đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong nền chính trị tư sản là một tất yếu khách
quan, xuất phát từ bản chất bóc lột của giai cấp tư sản và sự bất công xã hội của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Giai cấp tư sản là giai cấp bóc lột mâu thuẫn lợi ích với quảng đại quần chúng nhân
dân và mâu thuẫn ở kết cấu nội bộ nhiều tầng bậc. Ngay khi khởi đầu cách mạng tư sản, dù có
chung mục đích là lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng mỗi tầng
lớp tư sản khác nhau với những lợi ích cục bộ không giống nhau, họ lập ra các đảng đại diện cho
quyền lợi của tầng lớp mình. Giai cấp tư sản còn cần phải tập hợp các lực lượng trung gian thành
đồng minh để tang cường thực lực đảm bảo cho sự chiến thắng giai cấp phong kiến. Tuy tham
gia đấu tranh cùng giai cấp tư sản nhưng các lực lượng trung gian còn có lợi ích riêng, trong đấu
tranh, cũng từng bước trưởng thành, lập ra các đảng để bảo vệ lợi ích của giai cấp hay tầng lớp
mình. Vì vậy ngay trong quá trình giành chính quyền, cách mạng tư sản đã mang trong mình nó
một cố kết chính trị nhiều đảng.
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở
thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, các tổ chức độc lOMoARcPSD|49633413
quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phông “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình
đẳng trong xã hội do các tổ chức độc quyền lũng đoạn.
Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp
tư sản chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và các trào lưu tiến bộ trên thế
giới bằng việc đòi mở rộng tự do dân chủ vô chính phủ nhằm chống lại nguyên tắc tập trung dân
chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng và các tổ chức chính trị đối lập nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo
của đảng Cộng sản, từng bước đẩy đảng Cộng sản ra khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng
nhà nước theo mẫu pháp quyền tư sản – bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm và các
đảng phái đối lập nhau nhưng thực chất là đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Sự đa nguyên chính trị hay đa đảng đối lập của nền dân chủ tư sản nói chung, hệ thống
thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa nói riêng cũng chủ yếu diễn ra trong tranh cử vào Nghị viện
và các chức vụ như Tổng thống, Thủ tướng hay các cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe
phái. Về nguyên tắc và hình thức, các đảng đều tự do và bình đẳng, đều có khả năng thắng cử để
trở thành đảng cầm quyền. Nhưng thực tế, chỉ có những đảng lớn, có thế lực, có sự hậu thuẩn
thuật lợi, mới có khả năng thắng cử và trở thành đảng cầm quyền, thực hiện sự lãnh đạo hệ thống
chính trị và toàn xã hội.
Các đảng không cầm quyền, kể cả đảng “đối lập”, cũng cố gắng tham gia lãnh đạo xã hội
bằng thực hiện sự kiểm soát đối với toàn xã hội từ việc soạn thảo cương lĩnh, chính sách đến việc
tổ chức bộ máy, tuyển chọn cán bộ và tổ chức thực hiện chính sách, tìm mọi cách đưa đại biểu
của đảng mình vào những cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước cả lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2.1.2. Phương thức tác động của Đảng chính trị cầm quyền -
Lập Pháp: phương thức tác động của Đảng chính trị nói chung và Đảng chính trị
cầm quyền vào cơ quan lập pháp là hành vi chính trị căn bản để tạo lập công cụ quyền lực theo
một mô hình chính trị nhất định. Việc làm này được thực hiện bằng cách đưa những sách lược
chính trị, đường lối chính trị của đảng mình vào khuôn khổ của pháp luật, nghĩa là thể chế hóa
những quan điểm của đảng thành Hiến pháp, pháp luật, cơ chế chính sách, quy định pháp lý. Khi
một bản Hiến pháp của nhà nước tư sản ghi nhận những điều đó thì thường biểu hiện như sau:
quy định quyền bầu cử và ứng cử của công dân theo hướng có lợi cho giai cấp tư sản thống trị;sự
xuất hiện của nhiều đảng phái khác nhau trong một ý thức hệ, một mục tiêu giai cấp, tác động
vào nhà nước; vai trò tác động của đảng cầm quyền đến lập pháp còn liên quan đến địa vị của
các đảng phái trong sinh hoạt nghị trường như tổ chức nhóm nghị sĩ của đảng trong Nghị viện) -
Hành Pháp: phương thức tác động của Đảng cầm quyền đối với ngành Hành pháp
được biểu hiện qua hai cách chủ yếu: Thứ nhất, khi Đảng chiếm đa số ghế trong cơ quan Lập
pháp ( Quốc hội, Nghị viện hay Hội đồng liên bang…) thì cơ quan Lập pháp sẽ chuyển sự tác
động của Đảng cầm quyền đối với Chính phủ hay Nội các. Đây là quan hệ căn bản được thể hiện
trong Hiến pháp, luật và các hoạt động khác của nghị viện ở các nước theo chế độ nghị viện; Thứ
hai, thông qua cơ quan Lập pháp hay thông qua bầu cử trực tiếp chọn người đứng đầu cơ quan
hành pháp mà đảng chính trị tìm mọi cách đưa người vào, tác động đến dân chúng đặc biệt là cử
tri để tranh thủ phiếu cầu cho ứng cử viên của mình hay người mình muốn. lOMoARcPSD|49633413 -
Tư Pháp: phương thức tác động của Đảng cầm quyền đối với Tư pháp diễn ra êm
đềm, quanh co và tế nhị hơn ở lập pháp và hành pháp nhưng về cơ bản thể hiện ở hai phương
diện: việc lựa chọn, bổ nhiệm các quan tòa thuộc thẩm quyền của các Nguyên Thủ quốc gia trong
sự kết hợp với các Bộ trưởng (thường là Bộ trưởng Bộ Tư pháp) mà Nguyên thủ quốc gia và Bộ
trưởng là sản phẩm của quá trình tác động của Đảng cầm quyền vào bầu cử trước đó.
Quyền lập tòa án đặc biệt, xét xử các nhân vật chính trị cao cấp, các quan chức hành chính cao
cấp thường thuộc về Nghị viện mà Nghị viện là nơi thi thố thực lực chính trị của các đảng phái. -
Chính quyền địa phương: Đối chính quyền địa phương thì các đảng chính trị tiếp
tục tranh cử ở cơ quan chính quyền địa phương để giữ quyền điều hành hoặc thông qua mối quan
hệ chấp hành của chính quyền địa phương đối với chính quyền Trung ương mà chi phối hoạt
động của chính quyền địa phương.
2.2. Tại các nước chế độ nhất nguyên chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
2.2.1. Chế độ nhất nguyên chính trị
Nhất nguyên chính trị của một Đảng Cộng sản cầm quyền là vấn đề cốt tử của chủ nghĩa
xã hội nói chung, của việc xây dựng hệ thống thể chế chính trị của nhân dân lao động nói riêng.
Nhất nguyên chính trị được hiểu là một chế độ chính trị mà trong một quốc gia, vai trò
chi phối định hướng và điều hành xã hội thuộc về một lực lượng chính trị với một tư tưởng chính
trị và một đảng chính trị chủ yếu.

Trong chế độ chính trị nhất nguyên, cũng có thể có nhiều đảng phái chính trị cùng tồn tại.
Tuy nhiều đảng khác nhau nhưng các đảng không đối lập về tư tưởng, cùng chung mục đích
chính trị. Trong đó, có một đảng chấp chính, các đảng còn lại chỉ tham chính và chấp nhận sự
lãnh đạo của đảng cầm quyền. Ngược lại trong nền chính trị đa đảng cũng có thể là nhất nguyên
nếu trong nền chính trị đó, chỉ có một đảng (hay vài đảng dù có lợi ích cụ bộ khác nhau nhưng
cùng bản chất, một lợi ích cơ bản, một lý tưởng) cẩm quyền, còn đảng đối lập thì yếu ớt, không
có cơ hội cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ cho phép của đảng cầm quyền thông qua pháp
luật thì thực chất chế độ chính trị đó cũng là chế độ nhất nguyên.
Mác và Ăngghen đã nói trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về việc xác định vai trò
lịch sử và nguyên tắc xây dựng đảng chính trị của giai cấp công nhân. Ăngghen viết : “ Để cho
giai cấp vô sản trong giời phút quyết định có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng thì nó – cả Mác
và tôi đều kiên trì lập trường này từ năm 1847 – phải lập ra một đảng riêng, tách biệt và đối lập
với tất cả các đảng khác, và ý thức được mình là đảng của giai cấp” (Mác, Ăngghen toàn tập).
Từ đó, để hoàn thành sứ mạng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, những đảng viên của Đảng phải
là bộ phận tích cực nhất, có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; có khả năng nhìn xa,
trông rộng, họ thấy ngay trong cuộc đấu tranh hằng ngày của giai cấp công nhân – khi xét trên
giác độ mục đích cuối cùng của giai cấp đó – tính chất là địa biểu cho “lợi ích của toàn bộ phong
trào”. Như vậy, sự trung thành của người cộng sản đối với lợi ích cơ bản của giai cấp mình tuyệt
nhiên không có nghĩa là sự biệt lập có tính chất bè phái khỏi các phong trào cách mạng ngoài giai cấp vô sản. lOMoARcPSD|49633413
Những luận điểm trên đã giúp Lênin xây dựng và phát triển học thuyết về Đảng kiểu mới
nói chung, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ…của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị nói riêng.
Nhất nguyên chính trị của một Đảng cộng sản cầm quyền là do bản chất của giai cấp công
nhân quy định; từ thực tế cách mạng xã hội chủ nghĩa và cũng từ bài học xương máu của giai cấp công nhân.
2.2.2. Phương thức tác động của Đảng Cộng sản cầm quyền
Về cơ bản các nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản không tổ chức theo nguyên tắc
“Tam Quyền Phân Lập” mà thực hiện việc thống nhất quyền lực nhà nước nhưng có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp
cũng như giữa các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương. -
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách; lãnh
đạoNhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức nhân dân thực hiện có hiệu quả. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ
đủtiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nướclãnh đạo xây dựng bộ máy đảng, bộ máy nhà nước. -
Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước (đảng đoàn, ban
cánsự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và
đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp
hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
thôngqua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ
chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của
cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt
yếu kém để uốn nắn, khắc phục. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của đảng
viên,thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách công
tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. PHẦN II
THỰC TIỄN PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN
LÊN CƠ QUAN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP
VÀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG lOMoARcPSD|49633413
1. Thực tiển tại Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ
Hoa Kỳ luôn tự xem mình là “thành trì” của thế giới tự do, luôn sử dụng chiêu bài “đa
nguyên, đa đảng” và “nhân quyền cao hơn chủ quyền” nhưng thực chất tại quốc nội thì quyền
lực chính trị không hề thuộc về người dân. Chính thức từ năm 1860 đến nay, nền chính trị Hoa
Kỳ đều bị chi phối bởi hai đảng là Đảng Dân Chủ ( còn gọi là phe Bồ Câu) và Đảng Cộng Hòa
(còn gọi là phe Diều Hâu). Hai đảng này tuy bề ngoài mâu thuẩn nhau cả về đường lối đối nội
lẫn đối ngoại nhưng thực chất là thống nhất với nhau trong việc chia sẽ quyền lực chính trị và
bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản tài phiệt cầm quyền sau lưng. Không giống các quốc gia
khác, cơ cấu tổ chức của các đảng chính trị tại Mỹ rất lỏng lẻo. Đối với hai đảng chính, không
có thiết chế nào ở cấp quốc gia có chức năng kiểm soát số đảng viên, các hoạt động của đảng,
hoặc quan điểm chính trị, mặc dù ở cấp tiểu bang có một số cơ quan đảm nhiệm công việc này. -
Lập Pháp: Hệ thống lập pháp Hoa Kỳ tổ chức theo chế độ Lưỡng viện là Hạ Viện
và Thượng Viện cùng với việc vừa phân quyền vừa chia quyền giữa hai viện trong hoạt động lập
pháp. Việc thực hiện chế độ lưỡng viện này là nhằm mục tiêu cân bằng giữa một Chính phủ
Trung ương đủ mạnh và quyền tự quyết của Tiểu Bang đủ lớn. Đây là nơi hai đảng chính trị cầm
quyền tìm cách nắm giữ để thông qua các dự Luật nhằm bảo vệ nhóm lợi ích mà mình đại diện
nói riêng và lợi ích chung của giai cấp tư sản nói chung. Hiện tại Đảng Cộng Hòa đang giữ quyền
ở Hạ Viện còn Đảng Dân Chủ đang giữ ghế đa số ở Thượng Viện.
Điễn hình về việc lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ tuy mâu thuẫn nhau nhưng cuối cùng cũng
thông qua dự luật về việc nâng trần nợ công cho Chính phủ Mỹ. Một mặt cho ta thấy sự mâu
thuẫn nội bộ trong giai cấp tư sản nhưng mặt khác cũng cho thấy sự thỏa hiệp giữa chúng. Và
việc này chỉ càng làm Chính phủ Hoa Kỳ chìm sâu vào nợ nần và càng ngày càng lệ thuộc vào
tư bản tài phiệt (đứng sau lưng của Fed). -
Hành Pháp: Với chế độ Cộng hòa Tổng Thống thì Tổng thống Hoa Kỳ do người
dân trực tiếp bầu ra và là người đứng đầu Chính phủ Liên bang. Trên thực tế người dân Mỹ không
trực tiếp bầu chọn tổng thống của mình, thay vào đó là một cử tri đoàn gồm các đại cử tri bỏ
phiếu. Chính vì thế dù mọi người dân đều có quyền bầu cử nhưng thực chất quyền quyết định
thuộc về các Đại cử tri với sự chi phối của giai cấp tư sản độc quyền. Điển hình năm 2000, ứng
viên đảng Dân chủ Al Gore giành được 48,38% phiếu phổ thông toàn quốc so với đối thủ phe
Cộng hòa George Bush được 47,87%. Dù vậy, ông Bush vẫn giành chiến thắng do nhận được
271 phiếu đại cử tri so với 266 của Al Gore. Bang quyết định là Florida, nơi tất cả 25 phiếu đại
cử tri rơi vào tay Bush dù chênh lệch giữa hai ứng viên về phiếu phổ thông tại bang này chỉ là 537.
Tổng thống Hoa Kỳ là người đứng đầu Chính phủ, được quyền bổ nhiệm Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ Hoa Kỳ cũng như các cơ quan cấp Liên bang khác. Ngoài ra,
Tổng thống còn có quyền trình dự luật lên Nghị viện, ký ban hành luật khi Nghị viện thông qua
hoặc bác bỏ nó nếu không muốn. Hơn nữa, Tổng thống cũng ảnh hưởng đến Tư pháp thông qua
đề cử thẩm pháp cấp liên bảng của tòa án cấp liên bang và của Tối cao Pháp viện. Tổng thống
Hoa Kỳ là người nắm trong tay toàn bộ quyền Hành pháp cấp liên bang và ảnh hưởng đến cả Lập
pháp và Tư pháp nên luôn là mục tiêu của cả hai đảng trong cuộc chay đua giành quyền lực chính
trị.Bởi đại diện của đảng nào trở thành Tổng thống thì quan điểm chính trị của đảng đó trở thành lOMoARcPSD|49633413
quan điểm của cả hệ thống hành pháp và tác động đến cả 2 nhánh kia. Đồng thời các đại biểu cao
cấp của đảng đó cũng trở thành các quan chức cao cấp của Chính phủ liên bang, từ đó thuận tiện
hơn trong việc giành quyền lợi kinh tế cho giai cấp. Thực tế đây là cuộc đua khóc liệt nhất giữa
hai đảng và cũng là tốn kém nhất. Vào năm 2010, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tuyên bố “Quyên
góp chính trị là một hình thức tự do ngôn luận” và bỏ mọi quy định về trần của quyên góp bầu
cử ở Mỹ. Năm 2008, ông Obama đã tiêu tốn hơn 700 triệu USD trong cuộc tranh cử mà chủ yếu
từ các quỹ vận động tranh cử của các tập đoàn tài phiệu.Trong cuộc vận động tranh cử Tổng
thống Hoa Kỳ cho kỳ bầu cử 2016, tính đến tháng 8/2015 thì ứng viên Jeb Bush (Đảng Cộng
Hòa) đã nhận số tiền 120 triệu USD mà chủ yếu từ các tập đoàn tư sản tài phiệt. -
Tư Pháp: Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ là định chế quyền lực cao nhất của nhánh tư
pháp trong Chính trị Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện là tòa án duy nhất được thiết lập bởi Hiến pháp.
Tất cả tòa án liên bang khác được thành lập bởi quốc hội. Thẩm phán tòa tối cao (hiện nay có
chín người) được bổ nhiệm trọn đời bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Một
trong chín thẩm phán được chọn để trở nên Chủ tịch Pháp viện hay Chánh Án (Chief Justice).
Ảnh hưởng của Đảng chính trị đối với Tối cao Pháp viện khá mờ nhạt nhưng thực chất là ảnh
hưởng mang tính ngầm. Bởi dù gì các vị thẩm phán cũng do Tổng thống chi phối nên họ vẫn là
sản phẩm của cuộc tranh giành quyền lực lưỡng đảng. Với quyền lớn nhất là “giải thích Hiến
pháp Hoa Kỳ”, Tối cao Pháp viện sẽ giải thích Hiến pháp theo hướng có lợi cho đảng cầm quyền
nói riêng và giai cấp tư sản nói chung. -
Chính quyền Địa phương: Thể chế Liên bang của Mỹ đã trao cho chính quyền
địa phương rất nhiều quyền trong việc hoạch định và thực thi chính sách tại tiểu bang cũng như
triển khai các chương trình của Chính phủ Liên bang tại tiểu bang. Tại các tiểu bang cũng tổ
chức chính quyền thành ba nhánh (Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp) như Liên bang. Và tại đây,
vẫn diễn cuộc đua tranh quyền chính trị giữa hai đảng. Từ đó chính sách của đảng cầm quyền
được thi ở cấp độ tiểu bang đồng thời tăng uy tính của đảng tại tiểu bang cũng có lợi cho đảng
trong cuộc đua cấp liên bang. Thực tế, chính quyền cấp tiểu bang đều nằm trong tay hai đảng
Dân chủ và Cộng hòa trong sự mâu thuẩn nhưng thống nhất của hai đảng.
Như vậy mặc dù theo thể chế đa nguyên chính trị nhưng thật ra là sự thống nhất của giai
cấp tư sản cẩm quyền. Hai đảng chính trị là Dân chủ và Cộng hòa vừa cạnh tranh vừa thống
nhất nhau trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của số ít
nhà tài phiệt cầm quyền chứ không hề đại diện cho người dân.

2. Thực tiễn tại Việt Nam
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước
nhân dân, dân tộc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được nhân dân thừa nhận, ủy quyền,
giao phó và được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm
1980, 1992 và 2013. Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định địa vị pháp lý của Đảng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công lOMoARcPSD|49633413
nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và điều kiện để
Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
của mình. Trong những năm đổi mới, Đảng luôn củng cố, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà
nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình - cầm quyền vì lợi ích của nhân dân. Nội dung chủ
yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn để
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật; tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và
đảng viên trong cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang nhân dân, doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Là đảng cầm quyền, lại có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên phương thức lãnh
đạo của Đảng “phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”. Đảng lãnh đạo Nhà nước
nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước. “Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động,
tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”. Đảng cầm quyền,
nhưng tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là phải lãnh đạo tất cả các nhánh quyền lực: lập pháp, hành
pháp, tư pháp và ở mọi cấp, từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Đối với Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân do Đảng lãnh đạo. Quyền lực nhà nước xét cho cùng bắt
nguồn từ quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền
lực. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội rốt cuộc cũng nhằm thực thi quyền
lực của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân. “Quyền hành là ở nơi dân” như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần khẳng định.
Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có thể nêu ra những định hướng sau đây: -
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách; lãnh
đạoNhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức nhân dân thực hiện có hiệu quả. -
Đảng lãnh đạo bằng định hướng giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân
sinh,hoặc các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng quan hệ tới các tầng lớp nhân
dân đông đảo hoặc quan hệ đến lĩnh vực đối ngoại. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ
đủtiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng,
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. lOMoARcPSD|49633413 -
Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước (đảng đoàn, ban
cánsự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và
đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh
chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
và cácđoàn thể thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời
lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và
hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực
để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục. -
Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của đảng
viên,thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách công
tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.
2.1. Đối với Quốc Hội
Trong những năm đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, hoạt động của Quốc hội ngày
càng đổi mới, dân chủ, phát huy được vai trò, chức năng của Quốc hội. Quốc hội ngày càng thực
quyền hơn, hiệu quả lãnh đạo của Đảng ngày càng nâng lên, thể hiện ở chỗ: -
Các văn kiện của Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương các
khóađã xác lập được quan điểm đúng đắn làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. -
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra các nghị quyết để đưa ra Quốc
hộinhững định hướng lớn về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; định hướng, yêu cầu về tổ chức bầu cử
Quốc hội cho từng nhiệm kỳ; định hướng xây dựng các đạo luật lớn, các vấn đề kinh tế - xã hội
quan trọng; định hướng phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; Ban Chấp hành Trung ương quyết
định việc giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu vào chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ. Bộ Chính trị quyết định việc giới thiệu nhân sự bầu vào chức vụ Phó Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội,… -
Sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị đối với Quốc hội thể hiện ở tầm
quanđiểm, chủ trương, chính sách lớn. Vai trò lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị đối
với Quốc hội ngày càng theo phương thức là Đảng chỉ nêu định hướng, nguyên tắc, quan điểm,
chủ trương, giải pháp lớn; còn để Quốc hội thảo luận, dân chủ quyết định theo thẩm quyền những
điều khoản của các đạo luật, chỉ tiêu kinh tế - xã hội hằng năm,… Có những vấn đề tuy lớn nhưng
Bộ Chính trị chỉ nêu phương hướng để Quốc hội thảo luận một cách dân chủ, quyết định về mặt
nhà nước, không áp đặt. lOMoARcPSD|49633413 -
Đảng lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt sang
hoạtđộng ở Quốc hội. Bố trí một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng cần thiết
tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội và làm chủ nhiệm các ủy ban, hội đồng của Quốc hội. -
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên
làđại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm
trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn đường lối, chủ
trương của Đảng, quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của
Bộ Chính trị. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội.
Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội, các cơ quan có liên quan thực hiện tốt việc
chuẩn bị cho các kỳ họp của Quốc hội, bảo đảm cho dự án luật, những vấn đề quan trọng khác
trình tại kỳ họp và các quyết định của Quốc hội phù hợp với đường lối của Đảng, đồng thời lắng
nghe để tiếp thu ý kiến xây dựng của đại biểu Quốc hội, tôn trọng quyết định của Quốc hội, tăng
cường thảo luận, tranh luận, chất vấn đại biểu Quốc hội, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Quốc
hội. Nhờ vậy, hoạt động của Quốc hội ngày càng chất lượng, hiệu quả cao, sôi động hơn, thu hút
sự quan tâm ngày càng rộng rãi của dư luận xã hội trong nước.
2.2. Đối với Chính phủ
Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Chính phủ, ngày càng phù hợp với vị trí và trách nhiệm của Đảng cầm quyền cũng
như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ là cơ quan công quyền, vừa không ngừng
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ;
giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Chính phủ, thể hiện ở chỗ:
-Đã xây dựng được một hệ thống quan điểm, nguyên tắc đúng đắn về thẩm quyền và trách
nhiệm, về tổ chức bộ máy của Chính phủ. Tổ chức các bộ và cơ quan ngang bộ theo hướng quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ, các bộ ngành
tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy
hoạch, chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra việc
thực hiện. Chính phủ điều hành vĩ mô, là người cầm lái và giám sát, kiểm tra, kiến tạo sự phát
triển, bảo đảm hiệu lực của bộ máy hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở. -
Xác định ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ, giữa Ban Chấp
hànhTrung ương, Bộ Chính trị với Ban Cán sự đảng của Chính phủ. Với tư cách là người lãnh
đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ
đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ trương cụ
thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ. Đảng không làm thay chính quyền. Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định những phương hướng, chủ trương, chính sách lớn
trên các lĩnh vực bảo đảm đúng định hướng chính trị của Đảng. Chẳng hạn, về kinh tế - xã hội,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định mục tiêu, phương hướng kế hoạch,
phương hướng ngân sách nhà nước, chính sách về các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ chế
quản lý, quy hoạch phát triển một số vùng, ngành trọng yếu, chủ trương xây dựng những công lOMoARcPSD|49633413
trình lớn, trọng điểm quốc gia; chính sách về văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế v.v.. Trong
lĩnh vực cải cách hành chính, Ban Chấp hành Trung ương ban hành chủ trương, nghị quyết về
cải cách hành chính, còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành kế hoạch tổng thể về cải
cách hành chính cho từng giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề
quan trọng liên quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần bàn và ra quyết định là rất cần
thiết để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Chính phủ. -
Đảng bố trí một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng tham
giaBan Cán sự Đảng Chính phủ, tham gia lãnh đạo Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ
(thông qua cơ chế Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự
Đảng Chính phủ trực thuộc Bộ Chính trị, còn Ban Cán sự Đảng các bộ và cơ quan ngang bộ trực
thuộc Ban Bí thư. Ban Cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
Ban Cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng;
đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền;
lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Ban Cán sự đảng
Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước Trung ương Đảng toàn bộ hoạt động của Chính phủ về
thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng trong Chính phủ, là người trình các đề án
về chủ trương, chính sách trước Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Trong công tác cán
bộ, đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đang công tác tại các cơ quan trực
thuộc Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đề xuất nhân sự, nhận xét, đánh giá cán bộ, các
ban đảng Trung ương thẩm định, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định. Đối với cán
bộ thuộc diện được phân cấp quản lý của Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng Chính
phủ quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có ý kiến thẩm định của các ban đảng Trung ương. -
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân, công an
nhândân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh, tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà
nước đối với quốc phòng và an ninh.
2.3. Đối với ngành Tư pháp
Trong những năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp có nhiều
đổi mới, góp phần bảo đảm cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp
pháp của mọi người dân, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, thể hiện ở chỗ: -
Đảng đã xây dựng được một hệ thống quan điểm tư tưởng chỉ đạo hoạt động ngành
tưpháp, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo thể
chế hóa những quan điểm đó thành Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, thành Luật tổ
chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (2002), và các đạo luật khác. Đặc
biệt, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 ngày 2 tháng 6 năm 2005 về lOMoARcPSD|49633413
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,trong đó quy định tương đối toàn diện, có hệ thống
mục tiêu, quan điểm, phương thức, nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020; khẳng định yêu
cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành hiệu quả và đạt hiệu lực cao; Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo
cải cách tư pháp để xây dựng Đề án cải cách tư pháp và chương trình công tác hằng năm của Ban Chỉ đạo. -
Đã xác định quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động của cơ quan tư
phápvà tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh tư pháp làm cơ sở cho đổi mới, hoàn thiện tổ chức của
tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Kể từ Hiến pháp năm 1992, tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân đã có một số đổi mới: Chế độ bầu thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng
chế độ bổ nhiệm thẩm phán; lập mới các tòa chuyên trách (tòa hành chính, tòa lao động, tòa kinh
tế). Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, nhiều quy định của pháp
luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới,
tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, qua đó góp phần nâng cao
chất lượng xét xử của tòa án, hạn chế bớt các trường hợp bị xét xử oan sai. Trong xét xử đã có
quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng, coi trọng vai trò của luật sư.
Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và chủ trương cải cách tư pháp, chức năng, nhiệm vụ của
viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh nhằm thực hiện có hiệu lực và hiệu quả chức năng chủ
yếu của mình, tránh chồng chéo trong hoạt động với các cơ quan khác, tập trung thực hiện chức
năng công tố và kiểm sát tư pháp, giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và phá sản doanh nghiệp.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự đã có tiến bộ,
chất lượng công tác kiểm sát được nâng lên. Tòa án các cấp và Viện Kiểm sát các cấp coi trọng
việc rèn luyện phẩm chất, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tòa án và viện kiểm sát. -
Kiện toàn Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao(đều trực thuộc Ban Bí thư). Xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc, quy định quan
hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với hai ban cán sự đảng này; xác định mối
quan hệ làm việc với Đảng đoàn Quốc hội,… Ban Cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm lãnh đạo công tác của ngành theo đúng
chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của pháp luật, có trách nhiệm trong giải quyết công
tác cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ và chức danh của
cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp khác theo quy định của pháp luật. -
Đảng lãnh đạo ngành tòa án nhưng tôn trọng tính độc lập trong xét xử của tòa án.
Khixét xử, tòa án chỉ tuân theo pháp luật, “Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” (Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Vì vậy, đã giảm nhiều tình trạng cấp ủy can thiệp
vào công tác xét xử của tòa án, nhất là quyết định mức án cụ thể, giảm nhiều tình trạng “bản án
bỏ túi”. Đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng có liên quan đến an ninh chính trị, đối ngoại,
đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý hoặc theo đề nghị của các cơ quan tư lOMoARcPSD|49633413
pháp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo về chủ trương xử lý, nhưng không quyết định những vấn
đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp4. -
Chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các chức danh tư pháp
vànhân viên hoạt động trong cơ quan tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tư pháp làm tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất; góp
phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội,…
2.4. Đối với Chính quyền địa phương
Do Việt Nam theo chế độ nhà nước đơn nhất, chính quyền địa phương không có chủ quyền
riêng mà là cánh tay nối dài của Chính phủ tại địa phương. Tại các cấp chính quyền, Đảng luôn
có cấp Ủy đảng tương ứng như Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy... Tổ chức đảng tại địa phương có 02 chức năng quan trọng:
Một là: lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước ở địa phương.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản xuất, kinh doanh,
nâng cao hiệu quả công tác của địa phương; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; động viên quần chúng nhân dân hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của địa phương đối với Nhà nước, cụ thể:
- Tổ chức đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ và hoạt động ở địa phương theo
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo sản xuất,
kinh doanh, công tác chuyên môn, nghiệp vụ, quốc phòng, an ninh, văn hóa - xã hội… đạt hiệu
quả ngày càng cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; hoàn
thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam một cách toàn diện và sâu sắc trên tất cả các khía cạnh của tổ chức chính quyền từ
Trung Ương đến địa phương.
lOMoARcPSD|49633413 KẾT LUẬN
Đảng chính trị là một tổ chức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống chính trị
hiện nay. Đảng chính trị là sản phẩm tất yêu của cuộc đấu tranh giai cấp nhưng cũng là phương
tiên tiện quan trọng để các giai cấp sử dụng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị cho
giai cấp mình. Đảng chính trị là đội tiên phong, là bộ tham mưu chiến đấu cho quyền lực và lợi
ích của giai cấp mà mình đại diện trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Thông qua Đảng chính
trị, các giai cấp tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lực nhà nước bằng nhiều
cách để bảo vệ lợi ích thiết thân của giai cấp.
Đối với các nước Xã hội Chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng, vai trò của Đảng
Cộng sản cầm quyền là vô cùng lớn . Bởi Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân
Việt Nam cùng một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp
cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng
mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng (révolution démocratique
bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng
công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại
mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Trải qua 85 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra
nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược
Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng
chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hoà
bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền
Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến
tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền
"đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
(1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành một trong
những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt
Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách
có cơ sở rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng
lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lOMoARcPSD|49633413
lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong
chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
85 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, quãng thời gian chưa dài
nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện được quả là phi thường. Nếu không phải là
một đảng Mác xít-Lêninnít chân chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với
chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam thật vĩ
đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lãnh tụ của giai cấp, của dân tộc, xứng đáng là chính
đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.