






Preview text:
lOMoAR cPSD| 59747617 Mở Đầu
Một trong những thuộc tính cơ bản và quan trọng của pháp luật là quy phạm phổ
biến, vì pháp luật chủ yếu được cấu thành từ các quy phạm pháp luật. Quy phạm
pháp luật được coi là yếu tố cấu thành của pháp luật, vì vậy, quy phạm pháp luật
vừa có đặc điểm pháp lý vừa có những nét riêng biệt liên quan đến hình thức và
nội dung của chúng. Nghiên cứu lý luận về quy phạm pháp luật không chỉ có ý
nghĩa quan trọng trong nhận thức lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng
trong hoạt động thực hành pháp luật như xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp
luật đã được thông qua. Ngoài ra, nó cũng giúp nâng cao nhận thức pháp luật của
mọi người và trau dồi kỹ năng của các tổ chức xã hội và cá nhân để sống và làm
việc theo pháp luật và các quy định. Vì những lý do này, cần có những nghiên
cứu chi tiết và đầy đủ hơn về lý thuyết pháp luật. Nội Dung
I. Cơ sở lý luận chung về quy phạm pháp luật
1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó vừa mang đầy đủ
những thuộc tính chung của các quy phạm xã hội, vừa có những thuộc tính riêng của mình.
2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật
-Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự: Là chuẩn mực hành vi, quy phạm pháp
luật luôn là mẫu mực của hành vi con người, nó hướng dẫn con người cách ứng
xử (những việc nên làm hoặc không nên làm) trong những hoàn cảnh cụ thể. Điều
này cũng có nghĩa là pháp luật quy định cách thức hành xử và xác định phạm vi
hành vi của con người, và những hậu quả bất lợi nào sẽ xảy ra nếu nó không được
thực hiện đúng hoặc bị vi phạm.
- Chuẩn mực pháp luật là những tiêu chuẩn xác định giới hạn và đánh giá hành vi
của con người. Quy phạm pháp luật không chỉ là phương thức xử sự mà còn xác
định ranh giới, chuẩn mực đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà
chúng điều chỉnh từ nhà nước, địa vị quyền lực, địa vị quyền lực và các khía
cạnh khác. Tính hợp pháp hoặc không hợp pháp của các hành động của bên. Tức
là thông qua các quy phạm pháp luật, bạn có thể biết được hành vi nào của chủ lOMoAR cPSD| 59747617
thể có ý nghĩa pháp lý, hành vi nào không có ý nghĩa pháp lý, hành vi nào là hợp
pháp, hành vi nào trái pháp luật. …… Ví dụ, để biết thế nào là hành vi tình cảm
và thế nào là hành vi pháp lý nhân thân thì phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật, hoặc xác định hành vi nào là vi phạm hành chính. Về các quy phạm
của luật hành chính và luật hình sự. -
Các quy chế, quy định do cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm. Quy
phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của quốc gia xây dựng, công nhận
hoặc phê duyệt nên bản chất của nó phù hợp với bản chất của pháp luật. Các quy
phạm pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, bản thân nó chứa đựng những tư
tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước và người cầm quyền trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình vào các quy
phạm pháp luật bằng cách xác định đối tượng (tổ chức, cá nhân) chịu sự tác động
của pháp luật trong hoàn cảnh, điều kiện nào, quyền và lợi ích của nhà nước,
nghĩa vụ pháp lý nào và biện pháp cưỡng chế nào đối với họ. cầm lấy. Họ chắc
chắn sẽ phải gánh chịu. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ họ bằng cách chỉ ra
quyền, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của các chủ thể quan hệ xã hội do pháp luật
quy định, bảo đảm cho họ thực hiện các quyền và quyền lực nhà nước của mình.
Thuộc tính do cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể
hiện sự khác biệt cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.
-Những quy tắc của pháp luật là những quy tắc xử sự chung. Quy phạm pháp luật
không được ban hành cho tổ chức, cá nhân cụ thể mà cho mọi tổ chức, cá nhân
tham gia vào các quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền của mình. Mọi tổ chức, cá
nhân phải thực hiện cùng một hành vi thống nhất trong những hoàn cảnh và điều
kiện do pháp luật quy định. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã viết: "Quyền nào cũng
bao hàm việc áp dụng một tiêu chuẩn duy nhất cho những người khác nhau, và
thực tế họ không giống nhau hay bình đẳng". Tuy nhiên, bản chất chung của các
luật và quy định khác nhau là khác nhau. Ví dụ, hiến pháp liên quan đến mọi tổ
chức và cá nhân trong nước, trong khi luật lao động chỉ liên quan đến người
quản lý, người sử dụng lao động và người lao động. nhân công…… -
Quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, nội dung
của nó thể hiện ở hai phương diện: cho phép và thực thi, tức là quy phạm pháp
luật là một loại quy phạm hành vi, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các lOMoAR cPSD| 59747617
bên tham gia quan hệ xã hội. Với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong các quy phạm pháp luật, nó thường bao gồm sự giải thích về khả năng
và phạm vi của hành vi, cũng như nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan
hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh (tính cần thiết của hành vi). Các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định đối với các chủ thể tham gia quan hệ thuộc thẩm
quyền của mình luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức và bản chất của
mối quan hệ này do nhà nước quyết định và phụ thuộc vào bản chất của chính
mối quan hệ xã hội. Vì vậy, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, vai trò của quy
phạm pháp luật là thực hiện chức năng của nhà nước là thông báo cho các chủ
thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước, để họ
biết những điều được và không được làm. Điều gì phải làm, điều gì phải làm,
điều gì phải tránh trong những hoàn cảnh và điều kiện nhất định ...
-Các quy định pháp luật có tính hệ thống. Mọi quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành không tồn tại biệt lập và hoạt động độc lập, mà giữa chúng luôn có mối
quan hệ chặt chẽ và thống nhất nội tại, tạo thành những tổng thể lớn nhỏ khác
nhau (hệ thống pháp luật và các bộ phận cấu thành của chúng) để cùng nhau điều
chỉnh xã hội. Nó liên quan đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Các quy
phạm pháp luật của các quốc gia hiện đại chủ yếu là các quy phạm pháp luật,
được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia đó. Nói
rộng hơn, trình tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng trở nên dân chủ
hơn, với sự tham gia của đông đảo các thành phần hữu quan trong xã hội. Nội
dung của các luật và quy định ngày càng chính xác, chặt chẽ, rõ ràng, nhất quán và khả thi.
II. Sự liên kết giữa các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật
1. Phân loại các quy phạm pháp luật
Có rất nhiều loại quy phạm pháp luật và cũng có rất nhiều cách để phân chia chúng.
+ Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh pháp luật có thể phân
chia các quy phạm pháp luật thành các nhóm lớn như ngành luật: Quy phạm pháp
luật luật hình sự, quy phạm pháp luật luật hành chính, quy phạm pháp luật luật dân
sự... Với cách tiếp cận này còn có thể chia các quy phạm pháp luật thành những
nhóm nhỏ hơn ngành luật như phân ngành luật, chế định pháp luật... (xem chương hệ thống pháp luật). lOMoAR cPSD| 59747617
+ Căn cứ vào nội dung của quy phạm pháp luật có thể chia quy phạm pháp luật thành:
Quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy phạm pháp luật bảo vệ. -
Quy phạm pháp luật điều chỉnh có nội dung trực tiếp điều chỉnh hành vi của
con người và hoạt động của các tổ chức (quy định thẩm quyền của cơ quan nhà
nước, địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội và những quyền, nghĩa vụ của các cá nhân); -
Quy phạm pháp luật bảo vệ có nội dung xác định các biện pháp cưỡng chế
mà nhà nước cho phép áp dụng đối với các chủ thể thực hiện không đúng các quy
định pháp luật, vi phạm pháp luật.
+ Phụ thuộc vào hình thức mệnh lệnh nêu trong phần quy định của quy phạm pháp
luật có thể chia quy phạm pháp luật thành quy phạm pháp luật dứt khoát, quy
phạm pháp luật không dứt khoát và quy phạm pháp luật hướng dẫn. -
Quy phạm pháp luật dứt khoát là những quy phạm trong đó phần quy định
chỉ quy định một cách xử sự rõ ràng, chặt chẽ; -
Quy phạm pháp luật không dứt khoát là những quy phạm trong đó phần quy
định nêu ra hai hoặc nhiều cách xử sự và cho phép chủ thể lựa chọn cho mình một
cách xử sự từ những cách đã nêu; -
Quy phạm pháp luật hướng dẫn là những quy phạm trong đó phần quy định
của quy phạm thường đưa ra những khuyên nhủ, hướng dẫn các chủ thể tự giải
quyết một số công việc nhất định.
+ Phụ thuộc vào cách thức thể hiện phần quy định của quy phạm pháp luật có thể
chia quy phạm pháp luật thành quy phạm pháp luật bắt buộc, quy phạm pháp luật
cấm đoán và quy phạm pháp luật cho phép. -
Quy phạm pháp luật bắt buộc có phần quy định buộc chủ thể nghĩa vụ phải
thực hiện một số hành vi có lợi nhất định. -
Quy phạm pháp luật cấm đoán có phần quy định cấm chủ thể không được
thực hiện một số hành vi nhất định. lOMoAR cPSD| 59747617 -
Quy phạm pháp luật cho phép có phần quy định cho phép chủ thể khả năng
tự xử sự theo cách thức nhất định (thường là những quy định về quyền và tự do
của các chủ thể pháp luật).
+ Căn cứ vào nội dung, tác dụng của quy phạm pháp luật có thể chia các quy phạm
pháp luật thành quy phạm nội dung và quy phạm hình thức. -
Quy phạm pháp luật nội dung là những quy phạm xác định các quyền, nghĩa
vụ hay trách nhiệm của các chủ thể pháp luật. -
Quy phạm pháp luật hình thức là những quy phạm xác định trình tự, thủ tục
để các chủ thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình hay tiến hành áp
dụng pháp luật hoặc truy cứu trách nhiệm pháp lý .
+ Ngoài ra còn có nhiều cách phân chia khác nữa tuỳ theo mục đích tìm hiểu, nghiên cứu của các chủ thể.
2. Hệ thống pháp luật
2.1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có tính thống nhất nội tại bền
vững đổng thời có tính độc lập nhất định.
2.2. Sự liên kết giữa các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật
2.2.1. Quy phạm pháp luật là thành phần nhỏ nhất trong hệ thống cấu
trúc của pháp luật.
Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc của
pháp luật, nó vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể. Quy phạm pháp luật có
tính khái quát vì nó là quy tắc xử sự chung, dùng để áp dụng trên một diện rộng
và trong một thời gian dài. Đồng thời nó phải cụ thể, vì đó là hình mẫu, là chuẩn
mực để điều chính quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể đã được dự liệu bằng
phương pháp trừu tượng hoá. Do tính chất, đặc điểm đó, quy phạm pháp luật
luôn là sự biểu hiện đầy đủ, chính xác và cụ thể nhất của pháp luật trong phạm vi
hẹp nhất, ở quy phạm pháp luật không thể có sự đối lập giữa nội dung và hình
thức mà ở đó dù biểu hiện ngắn gọn nhưng nội dung của nó luôn đòi hỏi phải rõ
ràng, chính xác và một nghĩa. lOMoAR cPSD| 59747617
2.2.2. Tính đồng bộ giữ các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Tính đổng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện sự thống nhất của nó. Khi xem xét
mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật cần phải chú ý xem giữa các bộ
phận của hệ thống đó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn không? Sau khi
xem xét tiêu chuẩn một (tính toàn diện) cần phải dựa theo tiêu chuẩn hai để đi
sâu phân loại, đặt các bộ phận của hệ thống pháp luật trong mối liên hệ qua lại
để phân tích, đối chiếu, xác định rõ mức độ thống nhất (đồng bộ) trên cơ sở đó
tiếp tục xác định tính chất và trình độ của một hệ thống pháp luật.
Ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không
trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các
quy phạm pháp luật với nhau. Như vậy; xét theo cơ cấu của mỗi ngành luật với
ba thành tố cơ bản thì ngành luật có tính chất loại, chế định pháp luật có tính chất
nhóm còn quy phạm pháp luật có tính chất tế bào. Để tạo ra tính đồng bộ phải
giải quyết triệt để, đúng đắn mối quan hệ loại - nhóm - tế bào. Điều đó đòi hỏi
một mặt phải có quan điểm tổng quát để có thể xác định tính chất chung của mỗi
ngành luật, cơ cấu các chế định, mặt khác phải có quan điểm cụ thể để dự kiến
chính xác các tình huống và hoàn cảnh cụ thể, từ đó đề ra các quy phạm phù hợp.
2.2.3. Tính phù hợp giữa các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ
thống pháp luật với trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Hệ thống pháp luật
phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn
hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể
hiện nhiều mặt. Khi xem xét tiêu chuẩn này cần chú ý đến các mặt và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa pháp luật voi kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền
thống và các quy phạm xã hội khác.
3. Ý nghĩa trong hệ thống pháp luật.
- Có ý nghĩa to lớn trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật và tổ chức thể chế
đảm bảo thực thi pháp luật như đào tạo nguồn nhân lực pháp luật quốc gia. lOMoAR cPSD| 59747617
- Giúp hoàn thiện hệ thống luật pháp, giúp đất nước dễ quản lý và phát triển đất
nước tốt hơn. Quy phạm pháp luật này có tiền đề, cơ sở để hoàn thiện quy
phạm pháp luật khác. Các quy phạm pháp luật thường liên quan mật thiết đến
đời sống kinh tế nhằm đảm bảo quyền lực của nhà nước.
- Các quy phạm liên kết giúp bổ sung cho nhau trong việc điều hoà các quan hệ xã hội.
- Đổi mới hệ thống pháp luật, sắp xếp hợp lý, khắc phục những tồn tại, loại bỏ
những quy định không phù hợp, bổ sung những luật mới hoàn thiện hơn. Kết Luận
Xem xét hệ thống pháp luật, chúng ta không chỉ thấy được các thuộc
tính của pháp luật, tính thống nhất vốn có, mối quan hệ ràng buộc, mối quan hệ
chặt chẽ giữa các quy phạm pháp luật, ... mà còn là điều kiện để đánh giá tính
toàn diện, tính đồng bộ và khả năng áp dụng của nó ... Ngoài ra, lý luận pháp
luật còn giúp nghiên cứu, hệ thống hóa pháp luật, sắp xếp các luật, quy định một
cách khoa học, hợp lý, phát hiện kịp thời những chồng chéo, thiếu thống nhất,
khiếm khuyết của các quy phạm pháp luật, loại bỏ kịp thời những quy định
không phù hợp, bổ sung những quy phạm pháp luật mới để tạo ra những quy
phạm pháp luật mới và luật pháp. Các thể chế, ngành luật và hệ thống giám sát
đã cải thiện việc thực thi pháp luật.